Bản án số 54/2024 ngày 01/08/2024 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 54/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 54/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 54/2024
Tên Bản án: | Bản án số 54/2024 ngày 01/08/2024 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Quảng Ngãi (TAND tỉnh Quảng Ngãi) |
Số hiệu: | 54/2024 |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | t/c hđ đặt cọc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TA N NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 54/2024 /DS- ST
Ngày: 01-8-2024
Về việc “Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc và hợp đồng vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ N NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI TỈNH QUẢNG NGÃI
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Trần Thị Thanh Bình
Các Hội thẩm:
1. Bà Phan Thị Khánh Phượng
2. Bà Đinh Thị Thanh Thủy
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Nguyễn Thanh Vân
Đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi tham gia
phiên toà: Bà Hoàng Thị Thương Huyền- Kiểm sát viên.
Trong ngày 01 tháng 8 năm 2024, tại Toà án nhân dân thành phố Quảng
Ngãi, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2023/TLST-DS ngày
21/8/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2024/QĐXXST - DS
ngày 04/6/2024, Quyết định hoãn phiên toà số 160/2024/ QĐST-DS ngày
03/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Nguyễn T, sinh năm 1960 (Đã chết)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T:
+ Bà Nguyễn Thị Ngọc Á, sinh năm 1979
Địa ch: Số A N, Tổ E phường L, thành phố Q, tnh Quảng Ngãi.
+ Bà Nguyễn Thị Ngọc S , sinh năm 1981
Địa ch: Số B T, phường P, thành phố N, tnh Khánh Hòa.
+ Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1983
Địa ch: Số H đường B , phường V, thành phố N, tnh Khánh Hòa.
+ Bà Nguyễn Thị Ngọc T1, sinh năm 1986
Địa ch: Số A M, phường L, thành phố Q, tnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ngọc S, bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 và ông Nguyễn Văn V là bà Nguyễn Thị Ngọc Á, theo văn bản
ủy quyền ngày 08/9/2023.
2.Bị đơn: Ông Nguyễn H, sinh năm 1961
Địa ch: Số H N, Tổ A, phường T, thành phố Q, tnh Quảng Ngãi;
Bà Á có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông H vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ N:
2
Theo đơn khởi kiện ngày 24/7/2023, các tài liệu có tại hồ sơ, nguyên
đơn và người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn trình bày:
Theo bản án số 04/2020/DS-ST ngày 06/3/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố Quảng Ngãi thì ông Nguyễn H được hưởng thừa kế 195,7 m
2
đất
(trong đó 154 m
2
đất ở và 41m
2
đất trồng cây hàng năm) của thửa đất số 22,
tờ bản đồ số 11 tại phường T, thành phố Q, tnh Quảng Ngãi.
Để có tiền thanh toán lại phần chênh lệch giá trị tài sản cho các đồng
thừa kế và nộp tiền án phí theo bản án đã tuyên thì ông Nguyễn H đã thỏa
thuận chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thảo p diện tích đất 150 m
2
đất trong
phần đất được nhận với giá tiền 1.000.000.000 đồng, vì vậy, vào ngày
03/1/2022, ông Nguyễn T đã đặt cọc cho ông Nguyễn H số tiền
200.000.000đồng để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất nêu
trên. Khi đặt cọc tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông Nguyễn
T và ông Nguyễn H có lập “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất theo quyết định của Bản án Tòa án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày
19/11/2020” (sau đây viết tắt là Hợp đồng đặt cọc). Nội dung Hợp đồng đặt
cọc giữa ông H và ông T là ông H được chia thừa kế 150m
2
đất, thỏa thuận
đồng ý chuyển nhượng cho ông T với giá tiền 1.000.000.000đồng, để lấy tiền
thi hành án thì ông H viết giấy nhận tiền cọc 200.000.000 đồng của ông T, hai
bên thỏa thuận sau khi thi hành án giao đất thì ông H tiếp tục viết giấy ủy
quyền cho ông Nguyễn T để đi làm thủ tục giấy tờ chuyển nhượng, đăng ký
biến động.
Nhưng sau đó ông H tránh né, không làm ủy quyền để ông T đi làm thủ
tục chuyển nhượng như đã thỏa thuận, mặc dù ông T đã nhiều lần liên hệ, yêu
cầu. Sau đó ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất nêu trên và chuyển nhượng thửa đất này cho người khác, ông T
đã nhiều lần yêu cầu ông H trả tiền cọc và phạt cọc nhưng ông H im lặng,
không thực hiện.
Ngoài số tiền đặt cọc nêu trên thì vào ngày 29/11/2021 ông Nguyễn H
có vay của ông Nguyễn T số tiền 20.000.000đồng, thời hạn vay 02 tháng, khi
vay tiền ông Nguyễn H có viết “Giấy vay mượn tiền”, trong giấy này có thoả
thuận ông H trả đủ tiền gốc và lãi trong vòng 02 tháng kể từ ngày viết giấy
đến ngày 29/01/2022, nhưng sau đó ông H không thực hiện việc trả nợ gốc và
lãi theo thỏa thuận.
Tại đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu:
1. Yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng đặt cọc ngày 03/01/2022 giữa
ông Nguyễn T và ông Nguyễn H và buộc ông Nguyễn H phải trả tiền đặt cọc
200.000.000 đồng và tiền phạt cọc là 200.000.000đồng, tổng cộng
400.000.000đồng;
2.Yêu cầu ông H trả số tiền vay 20.000.000đồng, tiền lãi tạm tính đến
23/7/2023 là 2.948.000đồng.
Ngày 23/8/2023, nguyên đơn ông Nguyễn T chết.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T là bà Nguyễn
Thị Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị
3
Ngọc T1 là các con đẻ của ông T (cha mẹ và vợ của ông T đã chết trước ông
T).
Tại Bản tự khai ngày 29/12/2023, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng của ông Nguyễn T là bà Nguyễn Thị Ngọc Á, đồng thời là người đại diện
theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T) trình
bày: Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T rút một phần
yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Nguyễn H phải trả tiền phạt cọc là
200.000.000đồng, nay người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn
T yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc ngày 03/01/2022 giữa ông Nguyễn T và ông
Nguyễn H, yêu cầu ông Nguyễn H trả lại tiền đặt cọc 200.000.000đồng, trả
lại khoản tiền nợ gốc 20.000.000đồng và tiền lãi của số tiền vay theo lãi suất
10%/ năm kể từ ngày vay cho đến ngày giải quyết xong vụ án.
Bị đơn ông Nguyễn H trình bày:
Tại “Đơn trình bày sự việc” ngày 09/9/2023, “Đơn trình bày” không
ghi ngày tháng năm và văn bản trình bày không ghi ngày tháng năm, ông
Nguyễn H thừa nhận có vay của ông Nguyễn T số tiền 20.000.000đồng, có
thỏa thuận về lãi suất, nhưng vì ông bị đau tim phải đi chữa bệnh nên ông
chưa trả nợ gốc và lãi cho ông T, ông còn nợ của ông T số tiền nợ gốc
20.000.000đồng và tiền lãi là 9.000.000đồng. Ông H trình bày có viết giấy
mượn của ông T số tiền 200.000.000đồng, nhưng ông T ch đưa cho ông số
tiền 100.000.000đồng, do đó ông ch nợ của ông T tổng cộng
120.000.000đồng, năm 2022 ông có chuyển khoản về cho bạn của ông là ông
Nguyễn T2 số tiền 50.000.000đồng để nhờ trả nợ cho ông T, vì vậy ông ch
còn nợ của ông T số tiền 70.000.000đồng và 9.000.000 đồng tiền lãi. Nay ông
T đã chết thì ông sẽ trả nợ cho con gái của ông T.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và
Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,
71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Bị đơn chấp hành chưa đúng quy
định tại Điều 70, 72, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 26, Điều 91, 92, 97, 144, 147, 244
Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 328, 463, 466, 468, 470 BLDS năm
2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Đình ch xét xử đối với phần yêu cầu phạt cọc của nguyên đơn đã rút.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn ông Nguyễn Thảo .
+ Huỷ Hợp đồng đặt cọc ngày 03/01/2022 giữa ông Nguyễn T và ông
Nguyễn H.
4
+ Buộc ông Nguyễn H phải trả lại cho những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng tiền đặt cọc mà
ông H đã nhận cọc tại Hợp đồng đặt cọc ngày 03/01/2022.
+ Buộc ông Nguyễn H phải trả lại cho những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn số tiền 20.000.000 đồng mà bị đơn vay của
ông Nguyễn T vào ngày 29/11/2021 và số tiền lãi tạm tính đến ngày
29/12/2023, mức lãi suất 10%/năm.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TA N:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc và hợp
đồng vay tài sản, ông Nguyễn H có nơi cư trú tại địa ch Tổ B phường T,
thành phố Q, tnh Quảng Ngãi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân thành phố Quảng Ngãi theo quy định tại khoản 3 Điều 26, Điều
35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Tại phiên toà ngày 03/7/2024, bị đơn ông Nguyễn H vắng mặt, căn
cứ khoản 1 Điều 227 Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên toà.
Tại phiên toà ngày 01/8/2024, bị đơn ông Nguyễn H vắng mặt, người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T là bà Nguyễn Thị Ngọc Á,
bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị Ngọc T1, người
đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ngọc S, bà Nguyễn Thị Ngọc T1
và ông Nguyễn Văn V là bà Nguyễn Thị Ngọc Á, theo văn bản ủy quyền ngày
08/9/2023 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản
3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng
mặt người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T là bà Nguyễn
Thị Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị
Ngọc T1, người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ngọc S, bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 và ông Nguyễn Văn V là bà Nguyễn Thị Ngọc Á và bị đơn ông
Nguyễn H.
Về nội dung:
[1] Tại “Giấy vay mượn tiền” lập ngày 29/11/2021 giữa ông Nguyễn T
và ông Nguyễn H thể hiện số tiền ông H vay của ông T là 20.000.000đồng,
Nguyễn H thừa nhận vào ngày 29/11/2021 ông có viết “Giấy vay mượn tiền”
của ông Nguyễn T với số tiền 20.000.000đồng, ông chưa trả nợ gốc, do đó
yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
ông Nguyễn T là có căn cứ chấp nhận, theo quy định tại Điều 463, Điều 466
của Bộ luật dân sự năm 2015.
[2] Tại Đơn trình bày ngày 29/9/2023 ông Nguyễn H thừa nhận vào
ngày 29/11/2021 ông có viết “Giấy vay mượn tiền” của ông Nguyễn T với
số tiền 20.000.000đồng, ông chưa trả nợ gốc và lãi cho ông T, ông còn nợ của
5
ông T số tiền nợ gốc, về số tiền lãi ông còn nợ là 9.000.000đồng, do đó có căn
cứ xác định hợp đồng vay tài sản giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn H là vay
có kỳ hạn và vay có lãi.
“Giấy vay mượn tiền” lập ngày 29/11/2021 giữa ông Nguyễn T và ông
Nguyễn H không thể hiện cụ thể về lãi suất, nhưng có thể hiện dòng chữ “Số
tiền gốc và lãi tôi sẽ trả đủ trong vòng 2 tháng kể từ ngày viết giấy này đến
ngày 29/1/2022 tôi hoàn trả đủ lãi và gốc”; người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Nguyễn H phải trả tiền lãi của số
tiền vay theo mức lãi suất 10%/năm, tính từ ngày vay tiền cho đến khi giải
quyết xong vụ án, nhận thấy mức lãi suất mà nguyên đơn yêu cầu không vượt
quá 20%/năm của khoản tiền vay theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân
sự năm 2015, vì vậy Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu này của
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, cụ thể tiền lãi được
tính từ ngày vay tiền 29/11/2021 đến ngày 01/8/2024 như sau:
20.000.000đồng x 10%/ năm (0,8333%/tháng) x 32 tháng=
5.333.120đồng.
[3] Đối với yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 03/01/2022 giữa ông Nguyễn T vào ông Nguyễn H:
Vào ngày 03/01/2022, giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn H đã lập
“Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quyết định của
Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày 19.11.2020”; Nội dung Hợp
đồng đặt cọc giữa ông H và ông T là ông H được nhận thừa kế của bà Tạ Thị
M diện tích 150m
2
đất mặt diện đường bê tông tại thửa đất số 22 tờ bản đồ số
11, ông Nguyễn H thoả thuận chuyển nhượng cho ông Nguyễn T lô đất này
với giá tiền 1.000.000.000đồng, để lấy tiền nộp tiền thi hành án thì ông H đã
nhận tiền đặt cọc của ông T là 200.000.000đồng, hai bên thỏa thuận sau khi
thi hành án giao đất thì ông H tiếp tục viết giấy ủy quyền cho ông Nguyễn T
để đi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ), chuyển nhượng,
đăng ký biến động.
Ông Nguyễn T trình bày là ông Nguyễn H đã được thi hành án diện tích
đất nêu trên nhưng ông H không uỷ quyền cho ông để làm thủ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng (sổ đỏ), chuyển nhượng, đăng ký biến động như đã thoả
thuận.
Theo tài liệu chứng cứ do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng
Ngãi cung cấp thì vào ngày 07/12/2020 Chi cục thi hành án dân sự thành phố
Quảng Ngãi đã ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 510/QĐ-
CCTHADS thi hành Bản án số 04/2020/DS-ST ngày 06/3/2020 của Toà án
nhân dân thành phố Quảng Ngãi và Bản án số 32/2020/DS-PT ngày
19/11/2020 của Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi theo yêu cầu thi hành án
của ông Nguyễn H, trong đó có nội dung “Buộc các ông, bà Dương Thị N,
Nguyễn T3, Nguyễn L, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị S,
Nguyễn P, Nguyễn Ngọc T5 giao cho ông Nguyễn H 150m
2
đất thuộc một
phần thửa đất số 22 tờ bản đồ số 11, phường T, thành phố Q,….”. Vào ngày
25/3/2022, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi ban hành Quyết
6
định về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất số 75/QĐ-CCTHADS;
Đến ngày 14/4/2022, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi đã
tiến hành cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất, tại Biên bản về việc
cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất ngày 14/4/2022 thể hiện ông
Nguyễn H đã nhận tài sản được thi hành án là “quyền sử dụng đất có diện tích
150m
2
thuộc một phần thửa đất số 22 tờ bản đồ số 11, phường T, thành phố
Q, có giới cận…”.
Do đó, có căn cứ xác định vào ngày14/4/2022 ông Nguyễn H đã được
thi hành án Bản án của Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày 19/11/2020,
đối với diện tích đất 150m
2
thuộc một phần thửa đất số 22 tờ bản đồ số 11,
phường T, thành phố Q mà ông đã nhận đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Nguyễn T, nhưng sau khi được thi hành án thì ông Nguyễn
H không làm thủ tục uỷ quyền cho ông Nguyễn T thực hiện các thủ tục để
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do đó ông Nguyễn H đã từ chối việc thực
hiện hợp đồng, vi phạm thoả thuận của các bên tại “Hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quyết định của Bản án Toà án nhân dân tnh
Quảng Ngãi ngày 19.11.2020” lập ngày 03/01/2022, nên ngày 24/7/2023 ông
Nguyễn T đã khởi kiện.
Như vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng của ông T về yêu cầu huỷ “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo quyết định của Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi
ngày 19.11.2020” giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn Hồng l ngày
03/01/2022.
[4] Tại “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo
quyết định của Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày 19.11.2020”,
thể hiện ông Nguyễn H đã nhận số tiền đặt cọc của ông Nguyễn T là
200.000.000đồng.
Vì ông Nguyễn H không thực hiện thoả thuận tại Hợp đồng đặt cọc nên
ông Nguyễn T khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn H phải trả lại số tiền đặt cọc là
200.000.000 đồng. Ông Nguyễn H đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ
án và các văn bản tố tụng của vụ án, biết được việc ông Nguyễn T khởi kiện
tranh chấp về hợp đồng đặt cọc trong đó có yêu cầu về huỷ hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và ông H vào ngày 03/01/2022,
yêu cầu trả tiền đặt cọc và một khoản tiền tương đương tiền đặt cọc, nhưng
tại các bản trình bày của mình ông Nguyễn H không có ý kiến trình bày đối
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông T như nêu trên; Ông H trình bày
là ông có viết giấy mượn của ông T số tiền 200.000.000đồng và ông T ch
đưa cho ông số tiền 100.000.000đồng, nhưng ông H không có tài liệu, chứng
cứ chứng minh việc ông không nhận tiền đặt cọc của ông T, tiền ông nhận của
ông T là tiền mượn và số tiền mượn ch là 100.000.000đồng, vì vậy ý kiến
trình bày của ông Nguyễn H không có cơ sở.
“Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quyết định
của Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày 19.11.2020” giữa ông
7
Nguyễn T và ông Nguyễn H bị huỷ do bên nhận đặt cọc là ông Nguyễn H từ
chối thực hiện hợp đồng, vì vậy Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu
của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông
Nguyễn T, buộc bị đơn ông Nguyễn H phải trả lại cho nguyên đơn số tiền
200.000.000đồng đặt cọc là phù hợp quy định tại Điều 328 của Bộ luật dân
sự.
[5] Tại Đơn khởi kiện ngày 24/7/2023, ông Nguyễn T yêu cầu ông
Nguyễn H phải trả một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc (phạt
cọc) là 200.000.000 đồng, tại Bản tự khai ngày 29/12/2023, bà Nguyễn Thị
Ngọc Á là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn T, đồng
thời người đại diện theo uỷ quyền của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
của ông Nguyễn T là bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Nguyễn
H phải trả một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc (phạt cọc) là
200.000.000đồng; Xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này của người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T là hoàn toàn
tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng
xét xử đình ch xét xử đối với yêu cầu của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T về việc yêu cầu bị đơn phải trả một khoản
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc là 200.000.000đồng; nếu sau này khởi
kiện lại và thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T
không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình ch xét xử.
[6] Từ những phân tích trên, có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu của người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T là bà Nguyễn
Thị Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị
Ngọc T1, tuyên huỷ “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo quyết định của Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày
19.11.2020” giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn Hồng l ngày 03/01/2022,
buộc bị đơn ông Nguyễn H phải có nghĩa vụ trả cho người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T là bà Nguyễn Thị Ngọc Á,
bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị Ngọc T1 số tiền
đặt cọc là 200.000.000đồng và khoản tiền nợ gốc là 20.000.000đồng, khoản
tiền nợ lãi của số tiền 20.000.000đồng là 5.333.120đồng, tổng cộng
225.333.120đồng, là phù hợp quy định tại Điều 275, Điều 328, Điều 463,
Điều 466, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[7] Ông Nguyễn H trình bày, trong quá trình vay tiền của ông Nguyễn T
thì vào năm 2022 ông Nguyễn H có chuyển khoản cho ông Nguyễn T2 số tiền
50.000.000đồng để nhờ ông T2 trả nợ cho ông Nguyễn T, nhưng ông Nguyễn
H không có tài liệu chứng minh và không cung cấp được họ tên, địa ch của
ông Nguyễn T2 theo yêu cầu của Toà án, vì vậy Hội đồng xét xử không có
căn cứ chấp nhận ý kiến này của ông Nguyễn H.
[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi
về việc giải quyết vụ án là đúng pháp luật.
8
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn H không có đơn đề nghị
miễn nộp án phí theo quy định của pháp luật, do đó ông Nguyễn H phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm là 225.333.120đồng x 5% = 11.266.656đồng, làm tròn
số là 11.267.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 74, Điều
147, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Điều 116, Điều 117, Điều 275, Điều 328, Điều 463, Điều 466, khoản 1
Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T (đã chết) là bà Nguyễn Thị Ngọc
Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị Ngọc T1;
2. Tuyên huỷ “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo
quyết định của Bản án Toà án nhân dân tnh Quảng Ngãi ngày 19.11.2020”
giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn Hồng l ngày 03/01/2022;
3. Đình ch xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T (đã chết) là bà Nguyễn Thị
Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị Ngọc
T1 về việc buộc bị đơn ông Nguyễn H phải trả một khoản tiền tương đương
giá trị tài sản đặt cọc là 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng).
4. Buộc bị đơn ông Nguyễn H phải có nghĩa vụ trả cho người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T (đã chết) là bà Nguyễn
Thị Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị
Ngọc T1 số tiền đặt cọc là 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng);
5. Buộc bị đơn ông Nguyễn H phải có nghĩa vụ trả cho người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Nguyễn T (đã chết) là bà Nguyễn
Thị Ngọc Á, bà Nguyễn Thị Ngọc S, ông Nguyễn Văn V, bà Nguyễn Thị
Ngọc T1 khoản tiền nợ gốc là 20.000.000đồng, khoản tiền nợ lãi của số tiền
20.000.000đồng là 5.333.120đồng, tổng cộng cả gốc và lãi là 25.333.120đồng
(Hai mươi lăm triệu ba trăm ba mươi ba ngàn một trăm hai mươi đồng), theo
“Giấy vay mượn tiền” lập ngày 29/11/2021.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối
với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân
sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn H phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm là 11.266.656 đồng (Mười một triệu hai trăm sáu mươi sáu ngàn sáu
trăm năm mươi sáu đồng).
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
9
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
TM . HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nơi nhận: THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
- TAND tnh Quảng Ngãi;
- VKSND TP. Quảng Ngãi;
- Chi cục THADS TP. Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
Trần Thị Thanh Bình
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm