Bản án số 54/2020/HSST ngày 15/09/2020 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 54/2020/HSST

Tên Bản án: Bản án số 54/2020/HSST ngày 15/09/2020 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Duy Tiên (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 54/2020/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/09/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN – TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 54/2020/HSST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2020/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với:

* Bị cáo: Dƣơng Thị Bích N, sinh năm 1984; nơi cư trú: Lô G, tổ 55, phường Hoàng Văn T, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Mạnh H và bà Trần Thị A; chồng: Phùng Chung T (đã ly hôn), con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 04/02/2016, bị TAND quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng; đã nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm ngày 27/9/2017; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ từ ngày 09/5/2020; có mặt.

* Bị hại: Anh Vũ Tiến Đ, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam, có mặt.

* Người làm chứng: Ông Vũ Văn B, sinh năm 1964; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 4 năm 2020, Dương Thị Bích N vào trang wed:

11bet.win đăng ký tài khoản Game có tên là: HuyKhanh1981 thì được nhà mạng cung cấp danh sách các ngân hàng nhận nạp, rút tiền. N chọn tài khoản của ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), số tài khoản: 15110000883760, chủ tài khoản mang tên Trương Thế D để đi đến các cửa hàng có dịch vụ chuyển tiền Viettel Pay để lừa các chủ cửa hàng chuyển tiền vào số tài khoản 15110000883760. Sau đó, N đến các cửa hàng có dịch vụ chuyển, rút tiền khác tương tự để chuyển tiền từ tài khoản Game: HuyKhanh1981 vào số tài khoản của chủ cửa hàng đó để lấy tiền mặt.

Khoảng 11 giờ ngày 02/5/2020, Dương Thị Bích N một mình điều khiển xe ô tô 04 chỗ ngồi, nhãn hiệu Kia, loại xe Morning, BKS 30E-254.4X, màu bạc đến nhà anh Vũ Tiến Đ tại tổ dân phố C, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam có treo biển chuyển tiền Viettel Pay. N đi vào trong nhà gặp ông Vũ Văn B (bố đẻ của anh Đ) nói “Chỗ này có chuyển tiền không”, ông B nói “”. Lúc này, anh Vũ Tiến Đ nghe thấy và đi ra hỏi N “Chuyển nhiều không”. N nói “Muốn chuyển 4.000.000 đồng qua ứng dụng Viettel Pay”. Do tài khoản Viettel Pay của anh Đ không có đủ số tiền 4.000.000 đồng nên anh Đ nói “Chuyển qua ngân hàng Agribank được không”. N đồng ý và đọc số tài khoản của ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV):

15110000883760, chủ tài khoản mang tên Trương Thế D để anh Đ chuyển số tiền 4.000.000 đồng với nội dung chuyển tiền là “HuyKhanh 1981 chuyen khoan”. Anh Đ đã sử dụng tài khoản Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank: 2903205127210 của mình để chuyển số tiền 4.000.000 đồng vào số tài khoản mà N cung cấp. Khi giao dịch chuyển tiền thành công, anh Đ chụp lại ảnh màn hình điện thoại đi động của mình, đưa cho N xem. N sử dụng điện thoại di động Samsung Galaxy J3 của mình chụp ảnh lại màn hình điện thoại của anh Đ để xác định thời gian giao dịch thành công. Đồng thời, N nói với anh Đ “Đợi tí em ra xe lấy tiền đưa cho”, anh Đ nói “”. N đi ra vị trí xe ô tô BKS 30E - 254.4X đang đỗ, lên xe và điều khiển xe bỏ chạy về hướng cầu Y rồi về Hà Nội. Sau đó, N đến một cửa hàng chuyển, rút tiền (không xác định được địa chỉ cụ thể là ai, ở đâu) rút toàn bộ số tiền 4.000.000 đồng trước đó chiếm đoạt được của anh Đ và tiêu xài cá nhân hết.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Vũ Tiến Đ yêu cầu bị cáo phải trả cho anh số tiền 4.000.000 đồng và 30.000 đồng phí chuyển khoản, tổng cộng 4.030.000 đồng. Nay N chưa bồi thường số tiền này cho anh Đ.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 08/5/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh Phú Thọ đã tạm giữ 01 xe ô tô BKS 30E – 254.4X, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3 để xử lý theo quy định của pháp luật Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 13/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Dương Thị Bích N mức án từ 12 đến 18 tháng tù; buộc bị cáo bồi thường cho anh Vũ Tiến Đ: 4.030.000đ; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo và tuyên án phí đối với bị cáo.

Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt ngoài ra không có tranh luận gì.

Người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường: 4.030.000đ và xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy Tiên và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền tiêu xài cá nhân, Dương Thị Bích N vào trang wed: 11bet.win, đăng ký tài khoản Game có tên là: HuyKhanh1981 và lấy được số tài khoản: 15110000883760, chủ tài khoản mang tên Trương Thế D tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV). Sau đó, N đi đến các cửa hàng có dịch vụ chuyển tiền Viettel Pay để lừa các chủ cửa hàng chuyển tiền vào số tài khoản 15110000883760 rồi chiếm đoạt.

Khoảng 11 giờ ngày 02/5/2020, N điều khiển xe ô tô BKS 30E - 254.4X đến gặp anh Vũ Tiến Đ, trú tại tổ dân phố C, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam, nói “Muốn chuyển 4.000.000 đồng qua ứng dụng Viettel Pay”. Do tài khoản Viettel Pay của anh Đ không có đủ số tiền 4.000.000 đồng nên anh Đ nói “Chuyển qua ngân hàng Agribank được không”. N đồng ý, đọc số tài khoản: 15110000883760, mang tên Trương Thế D để anh Đ chuyển tiền, nội dung chuyển tiền là “HuyKhanh 1981 chuyen khoan”. Anh Đ sử dụng tài khoản ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank: 2903205127210 của mình chuyển số tiền 4.000.000 đồng vào số tài khoản 15110000883760. Khi giao dịch chuyển tiền thành công, N nói với anh Đ “Đợi tí em ra xe lấy tiền đưa cho”, anh Đ nói “”. N đi ra vị trí xe ô tô BKS 30E – 254.4X đang đỗ, lên xe và điều khiển xe bỏ chạy về hướng cầu Y rồi về Hà Nội. Tổng số tiền N chiếm đoạt của anh Vũ Tiến Đ là 4.030.000 đồng, trong đó có 30.000 đồng là phí chuyển khoản.

Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác, đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có nhân thân xấu; không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ nhận định trên thấy: hành vi của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, mất trật tự trị an tại địa phương vì vậy cần phải cách ly ra khỏi xã hội để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với chủ đăng ký số tài khoản 15110000883760 mang tên Trương Thế D hiện không xác định được căn cước, lý lịch. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Vũ Tiến Đ số tiền 4.000.000 đồng đã chiếm đoạt và 30.000 đồng phí chuyển khoản, tổng cộng 4.030.000 đồng.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Dương Thị Bích N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Dương Thị Bích N 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584; 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Dương Thị Bích N phải bồi thường cho anh Vũ Tiến Đ số tiền: 4.030.000đ (Bốn triệu không trăm ba mươi nghìn đồng).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng); án phí dân sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Báo cho bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Tải về
Bản án số 54/2020/HSST Bản án số 54/2020/HSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất