Bản án số 516/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 516/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 516/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 516/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định hành chính giữa nguyên đơn Nguyễn Thị T, bị đơn Nguyễn Thị H1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 516/2024/DS-PT
Ngày 23/ 9/2024
V/v Tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung,
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
hủy quyết định hành chính
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ong Thân Thắng;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Cường;
Bà Phan Thị Vân Hương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Bùi Ngọc Tân - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 23 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, Tòa
án nhân dân cấp cao tại Nội xét xử phúc thẩm công khai ván dân sự thụ
số 109/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 02 năm 2024 về việc “Tranh chấp thừa kế,
chia tài sản chung, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định hành chính”, do kháng cáo của
nguyên đơn và bị đơn đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 02
tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 9847/2024/QĐ-PT ngày
06 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:Nguyễn Thị T; sinh năm 1957; Có mặt.
Địa chỉ: Số D tổ dân phố C (nay tổ dân phố A), phường T, thành phố Đ,
tỉnh Điện Biên. Có mặt.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu L; sinh năm 1978; địa chỉ: Số nhà
G, Tổ dân phố I, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà T: Luật sư Nguyễn Phương
N và luật sư Đỗ Thị Thao H, Văn phòng L1, Đoàn Luật sư thành phố H; Có mặt.
* Bị đơn: Nguyễn Thị H1; sinh năm 1948; trú tại: SN A, tổ dân phố E,
phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Vĩnh N1; Sinh năm : 1978, địa chỉ: số
nhà A, tổ dân phố E, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND huyện Đ, tỉnh Điện Biên Chủ tịch UBND huyện Đ, tỉnh Điện
Biên; Vắng mặt.
- UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Vắng mặt.
- Đoàn Vĩnh S (Đoàn Văn S1); sinh năm 1948; địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện
Đ, tỉnh Điện Biên; Đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Vĩnh N1; Sinh năm : 1978,
địa chỉ: số nhà A, tổ dân phố E, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1; trú tại: số nhà C, tổ dân phố H,
phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Vắng mặt.
- Ông Mai Ngọc ATrần Thị Minh T2; trú tại: số nhà C, tổ dân phố H,
phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Vắng mt.
- Ông Văn T3 và Hoàng Thị N2; trú tại: số nhà B, tổ dân phố H, phường
T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Vắng mặt.
- Ông Phạm Quốc H3 Phạm Thị T4, trú tại: số nhà A, tố dân phô 8,
phương T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản lấy lời khai, nguyên đơn
Nguyễn Thị T xác định:
Tháng 4 năm 1965, theo chủ trương của nhà nước đi xây dựng vùng kinh tế
mới gia đình gồm mẹ bà cụ Nguyễn Thị H4 (Mỡ, N3), chị gái Nguyễn Thị
H1 bà cùng 21 hộ dân Thái Bình lên sinh sống tại N, N, xã S huyện Đ (nay là
nhà máy X). Năm 1966 H1 cắt khẩu chuyển đi học phạm tại P, Lai Châu
sau đó công tác tại S, Lai Châu. Năm 1968 cả thôn gồm gia đình bà và 21 hộ gia
đình chuyển đến nơi mi hợp tác P, S, huyện Đ nay thôn G, P,
huyện Đ, lúc đó mới chia đất theo nhân khẩu, gia đình nào nhiều người được chia
nhiều đất, gia đình ít người chia ít đất, gia đình bà lúc đó có bà và mẹ bà gồm 02
nhân khẩu nên được chia 1.367m
2
gồm 922m
2
đất 445m
2
đất ruộng (khi
T đi công tác thì mbà được chia 445m
2
thời gian cụ thể bà không nhớ), hai mẹ
con bà T dựng nhà gỗ 03 gian và công trình phụ để sinh hoạt, đến năm 1978 T
3
đi học tại Nội. Tháng 02/1982, T về công tác tại Nông trường Đ T vẫn
sống với mẹ sau đó bà T ở tại cơ quan Nông trường, thứ 7, chủ nhật bà T mới về
nhà với mẹ.
Năm 1976 ông Đoàn Vĩnh S kết hôn với H1 hai người về chung sống với
cụ H4 và bà T. Năm 1980 vợ chồng ông bà S, H1 cùng các con chuyển ra tập thể
Trường C để ở, đầu năm 1986 ông S, H1 lại quay về sống chung với cụ H4,
cuối năm 1986 ông bà S, H1 đóng góp cùng cụ H4 và bà T xây 01 nhà cấp 4 hai
gian. Năm 1986 vợ chồng ông bà S, H1 lên chợ P1 kinh doanh bán hàng tạp hóa,
các con của ông bà S, H1 vẫn sống cùng cụ H4. Năm 1990-1991 cả gia đình ông
bà S, H1 chuyển hẳn lên chợ P1 để ở. Năm 1992-1993 do riêng bà T chuyên
về ngôi nhà g03 gian với cụ H4. Đầu năm 1994 T ly hôn chồng, tháng
7/1994 bà T mua nhà tại phố A, phường M, thị xã Đ và đón cụ H4 về ở cùng. Từ
năm 1995-1997 gia đình bà T bị cưỡng chế nên không có thời gian về thăm nom
nhà đất tại đội 7, P nên bà T không biết gia đình ông S, H1 đã tháo dỡ ngôi n
gỗ 03 gian và công trình phụ vào thời gian nào, còn ngôi nhà cấp 4 hai gian hiện
đã mục nát không ai ở. Năm 1999 T được UBND thị Đ giao cho 01 mảnh
đất tại phô 01 phường T, T làm nhà để cụ H4 con gái cùng sinh sống.
Đầu tháng 10/2010 con gái H1 lên xin phép bà cho cụ H4 về chơi với ông
S, H vài hôm, đến ngày 25/01/2010 thì cụ H4 chết tại nhà ông S, H1 chợ P1.
Năm 2017, sau khi sang cát cho cụ H4, bà T có đến nhà ông bà S, H1 bàn bạc về
việc chia đất tại thôn G, xã P cho 05 đứa cháu gồm 01 con gái của bà T 04 con
của ộng bà S, H1 nhưng ông bà S, H1 không đồng ý. Tháng 5/2018 bà T về xã P
thẩm định lại thổ đất của cụ H4 trước đây, để giữ hòa khí nhiều lần T đến
nhà ông bà S, H1 đàm phán chia thổ đất vườn tạp cho 05 đứa cháu con của
02 gia đình nhưng ông S và H1 không nhất trí. Xét thấy GCNQSDĐ mang tên
ông Đoàn Vĩnh S là không hợp pháp vì đất đó của cụ H4T, năm 2018
T đã làm đơn yêu cầu UBND huyện Đ hủy GCNQSDĐ mang tên ông Đoàn Vĩnh
S, đến ngày 05/02/2020, UBND huyện Đ đã ban hành Quyết định số 228/QĐ-
UBND về việc hủy GCNQSDĐ mang tên ông Đoàn Vĩnh S (H).
Bà T khẳng định thửa đất số 387, tờ bản đồ số 49-A (sau này gọi tắt là thửa
số 387) diện tích 922m
2
là tài sản chung của T cụ H4, trong đó ½ diện
tích thửa đất của bà T, ½ diện tích thửa đất phần chung của cụ H4, nay cụ H4
chết phần đất của cụ H4 được coi là di sản thừa kế để lại cho T H1. Bà
T yêu cầu chia đôi diện tích thửa đất số 387 trong đó ½ diện tích thửa đất của
T, ½ diện tích thửa đất là phần chung của cụ H4 được chia làm 02 T và
H1 mỗi người được ½ diện tích là di sản của cụ H4. Buộc bà H1ông S tháo dỡ
ngôi nhà cấp 4 hai gian trên diện tích đất tranh chấp.
4
Tại văn bản trình bày về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (BL 405-
412) các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Thị
H1 có yêu cầu phản tố người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu
độc lập ông Đoàn Vĩnh S trình bày như sau:
Sinh thời, bố mẹ bà H1 cụ ông Nguyễn Bảo M (liệt sỹ) và cụ Nguyễn
Thị Hấng/Nguyễn Thị Nấng/Nguyễn Thị M1 (mất năm 2010) sinh được 05 người
con, nhưng 03 người con đã mất, chỉ còn lại 02 người con gái H1 T,
ngoài 02 chị em theo bà H1 được biết bố mẹ bà không còn người con chung hay
con riêng nào khác. Từ khi bố hy sinh, gia đình chỉ còn 03 mẹ con luôn yêu
thương, chăm sóc, đùm bọc, nương tựa lẫn nhau. Kể cả đến khi 02 lần lượt lập
gia đình riêng thì tình cảm chị em vẫn gắn bó thân thiết, quan tâm lẫn nhau. Tuy
nhiên, mọi việc bắt đầu xáo trộn căng thẳng từ năm 2018 khi T những
yêu cầu vô lý về tài sản nhà đất.
Về nguồn gốc thửa đất 387: Cụ H4 đã sử dụng ổn định thửa đất này tớc
năm 1987, trước khi ông S kết hôn với H1, thì mẹ conH1 đã làm nhà một
gian hại trái khoảng 30m
2
, loại nhà tranh, vách đất (trình tường) để ở. Năm 1976,
ông S kết hôn với H1 về sinh sống cùng cụ H4 trên thửa đất này. Năm 1981,
do gia đình đồng người, nên vợ chồng ông xin cụ H4 cho làm 3 gian nhà gỗ
trên thửa đất, khi làm xong thì dỡ căn nhà cũ đi, lúc này cụ H4 cùng vợ chồng,
con cái ông bà S, H1 trong ngôi nhà mới, thỉnh thoảng cụ H4 có lên chơi và ở lại
vài ngàynhà T. Năm 1986, vợ chồng ông bà xây thêm một nhà cấp 4, 3 gian
trên cùng khuôn viên thửa đất, cạnh nhà gỗ 03 gian sau khi xây nhà xong thì cụ
H4 vẫn cùng vợ chồng ông bà. Năm 1989 - 1990, ông bà mua thêm được
một ô đất tại chợ P1 dựng quán bán hàng còn hàng ngày vẫn đi về sinh hoạt
cùng cụ H4 tại ngôi nhà ở Đ P, Sam M2 cho đến khi cụ H4 qua đời.
Quyền sử dụng đất tại thửa số 387 đã được chuyển giao tặng cho vợ chồng
ông từ năm 1976 khi ông S, H1 kết hôn xây dựng nhà ở trên diện tích đất
này. Tuy nhiên, thủ tục giấy tờ chính thức thì đến nặm 1997 khi chính quyền địa
phương S, huyện Đ thông báo về chtrương của Nhà nước về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
trên địa bàn, đề hoàn thiện việc tặng cho nhà đât cho ông bà, vào ngày 15/5/1997
cụ H4 đã chính thức ký vào "Giấy giao quyền sử dụng đất" đồng ý tặng, cho toàn
bộ nhà, đất tại thừa số 387 cho vợ chồng ông bà và giấy này đã được chính bà T
viết "Đất này anh chị S đã sử dụng từ lâu, tôi em, tôi nhất trí" chữ viết này đã
được Phòng K, Công an tỉnh Đ kết luận là do chính bà T viết và ký ra.
Văn bản "Giấy giao quyền sử dụng đất" đã được nguyên Đội trưởng Đội 7
là ông Nguyễn Văn O nguyên cán bộ địa chính S ông Nguyễn Văn T5, Chủ
5
tịch S ông Phạm Sơn k, đóng dấu xác nhận việc cH4 tặng cho ông S, H
thửa đất 387. Đồng thời với việc này vào thời điểm chính quyền địa phương hoàn
thiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, tại Hồ
xin cấp Giây chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông S thì cụ H4 đã
ký tên trực tiếp tại "Đơn đăng ký quyền sử dụng đất" thể hiện ý chí tự nguyện đ
vợ chồng ông S đứng tên toàn bộ quyền sử dụng thửa đất s672, tờ bản đồ 25e
và thửa số 387, tờ bản đồ 49A.
Trên cơ sở hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ, ngày 24/11/1997 UBND huyện Đ đã
cấp GCNQSDĐ số bìa L410279 mang tên Đoàn Văn S1 (H), ông S1, H1 được
nhà nước công nhận quyền sử dụng 445/900m
2
đất lúa tại thửa 672, tờ bản đồ 25e
và 400m
2
đất thổ cư, 522m
2
đất thổ canh tại thửa số 387 tờ bản đồ số 49A tại Đ,
P - S, huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên) từ năm 1997. T không
xuất trình được tài liệu chứng minh thửa đất số 387 là tài sản chung của bà T
cụ H4. Số mục kê, sổ địa chính lưu trữ tại UBNDS (nay là xã P) không bất
kỳ nội dung nào ghi nhận T chủ sử dụng đối với thửa đất số 387, cho đến
năm 2018 bà T mới tranh chấp đòi quyền sử dụng đất.
Ngoài "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập ngày 15/5/1997 thì trên thực tế cụ
H4 đã cho vợ chồng ông toàn quyền sử dụng thửa đất s387 từ năm 1976 bằng
việc vợ chồng ông đã xây dựng nhà cửa, ăn ở ổn định trên thửa đất nàyngười
trực tiếp quản lý, xây dựng, tôn tạo, nộp thuế sử dụng đất đã đăng chủ s
dụng đất đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong
gần 50 năm qua (trước thời điểm m 2018), T không bất ký kiến thắc
mắc gì về việc cụ H4 tặng cho ông bà S1, H1 quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số
387. Vì vậy ông S1 và bà H1 bác bỏ toàn bộ các yêu cầu khởi kiện không có căn
cứ của bà T.
Ngoài ra bà H1 ông S1 n yêu cầu phản tố yêu cầu độc lập như
sau: Yêu câu Tòa án hủy các Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 10
năm 2019 của Ủy ban nhân dân huyện Đ "Về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của hộ gia đình, nhân" Quyết định số 228/QĐ-UBND, ngày 05
tháng 02 năm 2020, "Về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
Đoàn Vĩnh S (H) trú tại đội D, P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên"; Quyết định số:
2926/QĐ-UBND ngày 25/11/2021 của Chủ tịch UBND huyện Đ, "Về việc giải
quyết khiếu nại của ông Đoàn Vĩnh S và bà Nguyễn Thị H1, cư trú tại thôn D,
P, huyện Đ (lần đầu)".
Tại văn bản số: 586/UBND-TNMT ngày 23 tháng 3 năm 2022 của UBND
huyện Đ, tỉnh Điện Biên (BL 491) trả lời về yêu cầu hủy các quyết định nh
chính của bà H1ông S như sau:
6
Căn cứ Điều 1 và Điều 31 Luật Đất đai năm 1993, Điều 463; các Điều 691,
692, 693 Bộ luật dân sự 1995; điểm c khoản 1 mục I Công văn số 1427/CV/ĐC
ngày 13/10/1995 của Tổng cực địa chính: "Giấy giao quyển sử dụng đất" lập ngay
15/5/1997 do ông Đoàn Vĩnh S cung cấp không đủ cơ sở để UBND huyện Đ hủy
bỏ Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 10 năm 2019; Quyết định Số
228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng 02 năm 2020; Quyết định số: 2926/QĐ-UBND
ngày 25/11/2021 của Chủ tịch UBND huyện Đ.
Tại đơn phản tố (BL 377-394) và các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án đối với yêu cầu hủy các quyết định hành chính của UBND thành phố
Đ, tỉnh Điện Biên, bà Nguyễn Thị H1 trình bày:
Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ bà H1 được biết khi cụ H4 còn sống
đã được UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu cấp cho 140m
2
đất ở, thửa số 190, tờ bản
đồ 314 - /TA - d, theo Quyết định số 244/QĐ-UB ngày 10/02/1992 của UBND
huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay tỉnh Điện Biên), sau này đã chuyển nhượng
77,025m
2
cho gia đình ông Văn T3, sau đó gia ông T3 tiếp tục chuyển nhượng
cho gia đình bà Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1; diện tích còn lại 60m
2
đã
chuyển nhượng cho gia đình ông Phạm Quốc H3, sau này gia đình ông H3 tiếp
tục chuyển nhượng cho gia đình ông Mai Ngọc A và bà Trần Thị Minh T2.
Sau khi xem xét toàn btài liệu liên quan đến việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho gia đình ông Lê Văn T3 và xem xét toàn bộ tài liệu có liên quan
đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình ông Phạm Quốc H3, bà
H1 nhận thấy toàn bộ phần chữ ký, chữ viết "Nguyễn Thị N4" đều không giống
với chữ của mẹ tại "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập ngày 15/5/1997
rất giống với chữ ký, chữ viết của T, điều đó cho thấy dấu hiệu bất minh,
gian dối trong việc giả mạo chữ của mẹ để chuyển nhượng thửa đất trái ý
muốn của cụ H4. Bà H1 đề nghị Tòa án:
- Công nhận Quyền sử dụng đất theo Quyết định số 244/QĐ-UB ngày
10/02/1992 của UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay tỉnh Điện Biên) di sản
thừa kế của cụ Nguyễn Thị H4.
- Hủy hợp đồng ngày 09/01/2007; người chuyển nhượng bà Nguyễn Thị N4,
người nhận chuyển nhượng ông Lê Văn T3.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ723118 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Phạm Quốc H3 và bà Phạm Thị T4 vào
ngày 23/6/2006.
7
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 471702 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Lê Văn T3, Hoàng Thị N2 vào ngày
01/02/2007.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 010627 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1
vào ngày 17/07/2014.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 062075 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Mai Ngọc A Trần Thị Minh T2
vào ngày 14/01/2015.
- Chia di sản của cụ H4 thửa đất 140m
2
cho hai đồng thừa kế là bà H1
bà T, theo hướng: Chia đôi giá trị của di sản này, mỗi người được hưởng một nửa
số tiền, theo giá trị hiện tại của thửa đất đó.
Tại văn bản số 409/UBND-TNMT ngày 14/3/2023 của UBND thành phố
Đ, tỉnh Điện Biên (BL 763-764) người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND
thành phố Đ ý kiến về yêu cầu của bà Nguyễn Thị H1 như sau:
Đối với yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BG 010627 do UBND thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên cấp ngày 17/07/2014 mang tên bà Nguyễn Thị H2ông Trịnh Khắc
T1: Ông Lê Văn T3, bà Hoàng Thị N2 được cấp GCNQSDĐ số AH 471702 vào
ngày 01/02/2007 nên có đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn T3, Hoàng Thị N2
với Nguyễn Thị H2, ông Trịnh Khắc T1 được UBND phường T chứng thực
hợp pháp; trình tthủ tục cấp GCNQSDĐ số BG 010627 do UBND thành phĐ,
tỉnh Điện Biên cấp ngày 17/07/2014 mang tên Nguyễn Thị H2 ông Trịnh
Khắc T1 đúng quy định của pháp luật. Do vậy yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BG
010627 do UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp ngày 17/07/2014 mang tên
Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1 của bà H1 là không có căn cứ.
Đối với yêu câu hủy GCNQSDĐ số BG 062075 do UBND thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên cấp ngày 14/01/2015 mang tên ông Mai Ngọc A và bà Trần Thị Minh
T2: Ông Phạm Quốc H3 Phạm Thị T4 được cấp GCNQSDĐ số: AĐ723118
vào ngày 23/6/2006 nên đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Quốc H3, bà Phạm
Thị T4 và ông Mai Ngọc A, bà Trần Thị Minh T2 được UBND phường T chứng
thực hợp pháp; trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ số BG 06207 mang tên ông Mai
Ngọc A Trần Thị Minh T2 đúng quy định của pháp luật. Do vậy yêu cầu
hủy GCNQSDĐ số BG 06207 do UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp ngày
8
14/01/2015 mang tên ông Mai Ngọc A Trần Thị Minh T2 của H1
không có căn cứ.
Tại văn bản ngày 21/3/2022 (BL 359, 473, 498-500, 698), người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T3, Nguyễn Thị H2 ông Trịnh Khắc
T1 trình bày đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị H1:
Gia đình ông T3 nhận chuyển nhượng 77,025m
2
đất từ N4 vào ngày
06/10/1998 với giá 12 triệu đồng, gia đình sử dụng ổn định đến năm 2007 làm thủ
tục được UBND thành phố Đ cấp GCNQSDĐ Số AH 471702 mang tên ông
Văn T3, Hoàng Thị N2. Năm 2014 gia đình đã chuyển nhượng thửa đất này
cho gia đình bà Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1 việc chuyển nhượng thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật và đã được UBND thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên cấp GCNQSDĐ số BG 010627 mang tên Nguyễn Thị H2 ông Trịnh
Khắc T1 vào ngày 17/7/2014. Gia đình H2, ông T1 sử dụng ổn định từ năm
2014 đến nay không tranh chấp gì, Nguyễn Thị H2 ông Trịnh Khắc T1
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho
ông bà.
Tại văn bản ngày 16/3/2022(BL 467; 702) người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Phạm Quốc H3, ông Mai Ngọc A Trần Thị Minh T2,
trình bày đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị H1:
Gia đình ông H3 nhận chuyển nhượng 60m
2
đất của cụ N4 từ năm 1996, gia
đình sử dụng ổn định đến năm 2006 làm thủ tục và được UBND thành phố Đ cấp
GCNQSDĐ số AĐ723118 do UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên
ông Phạm Quốc H3 Phạm Thị T4. Năm 2014 gia đình đã chuyển nhượng
cho gia đình ông Mai Ngọc A và bà Trần Thị Minh T2 việc chuyển nhượng thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật và đã được UBND thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên cấp GCNQSDĐ số BG 062075 mang tên ông Mai Ngọc A Trần Thị
Minh T2 vào ngày 14/01/2015. Gia đình ông A, T2 sử dụng ổn định từ năm
2014 đến nay không có tranh chấp gì, ông A T2 đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho ông bà.
Tại Bản án sơ thẩm số 02/2023/DS - ST ngày 02/12/2023, Toà án nhân dân
tỉnh Điện Biên đã giải quyết:
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 26; Điều 34; điểm c khoản 1 Điều 39; khoản
1 Điều 157; khoản 2 Điều 158; khoản 1 Điều 161; khoản 2 Điều 162; khoản 1
Điều 165; khoản 2 Điều 166; khoản 1 Điều 147; khoản 1, khoản 2 Điều 228; Điều
271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
9
- Căn cứ Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành
chính;
- Căn cứ Điều 461, 463 Bộ luật Dân sự 1995;
-Căn cứ Điều 24, Điều 25 Luật Đất đai 1993;
- Căn cứ Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Áp dụng Án lsố 33/2020/AL: Về trường hợp nhân được Nhà nước giao
đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định lâu dài.
- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVHQ 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T về
các yêu cầu sau: Công nhận thửa đất số 387, tờ bản đồ số 49 -A; địa chỉ thôn G,
P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên tài sản chung của cụ N4 T, yêu cầu chia
tài sản chung thửa đất số 387 trong đóT được ½ diện tích thửa đất số 387,
yêu cầu chia ½ diện tích thửa đất số 387 là di sản của cụ H4 cho bà T và bà H1;
buộc H1 ông S tháo dỡ ngôi nhà cấp 4 hai gian trên diện tích đất tranh chấp.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị H1, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu của ông Đoàn Vĩnh S (Đoàn Văn S1) người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, hủy các quyết định hành chính sau:
- Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Ủy ban
nhân dân huyện Đ "Về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ
gia đình, cá nhân".
- Quyết định số 228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng 02 năm 2020, "Về việc hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đoàn Vĩnh S (H) cư trú tại đội D,
P, huyện Đ, Tỉnh Điện Biên".
- Quyết định số: 2926/QĐ-UBND ngày 25/11/2021 của Chủ tịch UBND
huyện Đ, "Về việc giải quyết khiếu nại của ông Đoàn Vĩnh S Nguyễn Thị
H1, cư trú tại thôn D, xã P huyện Đ".
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị H1 đối
với các yêu cầu sau:
- Công nhận Quyền sử dụng 140m
2
đất của cụ H4 theo Quyết định số
244/QĐ-UB ngày 10/02/1992 của UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay tính
Điện Biên) là di sản thừa kế của cụ H4 và yêu cầu chia di sản là giá trị 140m
2
đất
theo giá trị hiện tại.
10
- Hủy hợp đồng ngày 09 tháng 01 năm 2007; Người chuyển nhượng
Nguyễn Thị N4, người nhận chuyển nhượng, ông Lê Văn T3.
- Hủy GCNQSDĐ đất số AH 471702 do UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên
cấp mang tên ông Lê Văn T3, bà Hoàng Thị N2 vào ngày 01/02/2007.
- Hủy GCNQSDĐ số AĐ723118 do UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp
mang tên ông Phạm Quốc H3 và bà Phạm Thị T4 vào ngày 23/6/2006.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 010627 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên Nguyễn Thị H2 và ông Trịnh Khắc T1
vào ngày 17/07/2014
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 062075 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Mai Ngọc A và Trần Thị Minh T2
vào ngày 14/01/2015.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về thi hành án, án phí và thông
báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/12/2023, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T kháng cáo một phần bản án
sơ thẩm
Ngày 18/12/2023, bị đơn Nguyễn Thị H1 kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Giữ
nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy một phần bản án
thẩm. Nguyên đơn yêu cầu công nhận thửa đất s387, diện tích 922m
2
được
UBND xã S tài sản chung của cụ N4 T, yêu cầu chia tài sản chung thửa
đất số 387 và yêu cầu chia di sản ½ diện tích thửa đất số 387 cho T
H1.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người
liên quan về việc hủy các quyết định hành chính.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập, yêu cầu phản tố và kháng cáo của bị đơn
và ông S.
Đề nghị hủy 1 phần Bản án thẩm Tòa án cấp thẩm đã vi phạm
trong tố tụng, triệu tập thiếu người tham gia tố tụng.
Người bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn trình bày: Tòa án cấp thẩm đã
có vi phạm trong ttụng khi không triệu tập người làm chứng, bỏ sót đương sự là
Chủ tịch UBNĐ huyện Đ. Việc áp dụng Á lsố 33 để giải quyết vụ án là không
phù hợp.
11
Bên cạnh đó, việc chưa giám định được chữ ký của cụ H4 tại Giấy giao quyền
sử dụng đất năm 1997 nhưng đã công nhận quyền sử dụng đất là chưa đảm bảo,
không thể hiện ý chí của cụ H4 về việc chuyển quyền sử dụng đất cho ông S
H1. Người làm chứng trong giấy giao quyền sử dụng đất lời khai không
tham gia lập giấy giao quyền sử dụng đất năm 1997.
Trong đơn xin đăng cấp đất đtên tuổi cụ M1 nhưng lại đề nghị cấp
GCNQSDĐ cho ông S
Đề nghị HĐXX phúc thẩm nếu có n cứ thì sửa Bản án sơ thẩm, không cần
hủy Bản án sơ thẩm.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Giữ nguyên nội dung
kháng cáo, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn.
Đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu
kháng cáo; Xác định 140m
2
đất là di sản thừa kế đồng thời hủy các Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chia thừa kế tài sản của cụ H4 theo pháp luật.
Tài liệu của người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn xuất trình về việc xác
minh ông T3, bà H5 là không liên quan vì họ có cùng quyền lợi nên không có sự
vô tư, khách quan trong khi cụ H4 thì đã chết.
Giấy giao quyền sử dụng đất có chữ ký của bà T và người làm chứng và cụ
M1 nên hợp pháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao trình bày quan điểm:
- Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Thẩm
phán chủ tọa và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Kháng cáo của các đương sự được làm và nộp trong thời hạn quy định
nên hợp lệ đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung: sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ, nhận thấy bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là phù hợp và có
căn cứ pháp luật. Do đó nội dung kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn là không
căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 308- Bộ luật Tố
tụng dân sự, giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự thẩm s02/2023/DS-
ST ngày 02 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
Miễn án phí Dân sự phúc thẩm cho các đương sự do là người cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
12
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, nghe lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các đương sự
được nộp trong thời hạn quy định, được miễn nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo
quy định tại các Điều 272, 273, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ, đủ điều
kiện để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: a án đã triệu tập hợp lệ, một số
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt),
một số người vắng mặt không lý do. Vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự
này theo quy định tại khoản 3, Điều 296 - Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu
phản tố của bị đơn, yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài
liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp thẩm xác định đây là vụ án: “Tranh chấp
thừa kế, chia tài sản chung, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định hành chính” căn cứ theo
quy định theo quy định tại khoản 5, Điều 26; Điều 34; điểm c, khoản 1, Điều 39-
Bộ luật Tố tụng dân sự
[1.4]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bất động sản tranh chấp địa chỉ tại
huyện Đ và thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Bị đơn bà Nguyễn Thị H1 và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đoàn Vĩnh S yêu cầu hủy Quyết định hành
chính của UBND huyện Đ UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên nên vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Điện Biên theo quy định tại Điều
34; điểm c, khoản 1, Điều 39-Bộ luật Tố tụng dân sự Điều 30; khoản 4 Điều
32-Luật Tố tụng hành chính.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu công nhận thửa đất s387, diện
tích 922m
2
được UBND xã S tài sản chung của cụ N4bà T, yêu cầu chia tài
sản chung là thửa đất số 387 và yêu cầu chia di sản là ½ diện tích thửa đất số 387
cho bà T và bà H1, HĐXX thấy:
[2.1]. Tại Kết luận số 05/KL-UBKT-TTr ngày 18/9/2019 của Ủy Ban kiểm
tra - Thanh tra huyện Đ (BL 322-323) đã nêu: "Qua kiểm tra m việc với ông
Nguyễn Văn O nguyên trưởng thôn 7, S (thời điểm m 1987-1999), nay
đội 7a, xã P, ông được đội trưởng thời điểm trước năm 1987 bàn giao sang để thu
sản phẩm các hộ gia đình trong đội 7 S hộ gia đình bà M1hộ Nguyễn
Thị M1, 01 khẩu bản được giao 445m
2
đất ruộng; 400m
2
đất thổ cư;
552m
2
đất thổ canh"; "...Căn cứ kết quả kiểm tra hồ sơ địa chính và kết quả làm
13
việc với các bên có liên quan thời điểm năm 1996 nguồn gốc đất được cấp trong
GCNQSDĐ số bìa L410270, số vào sổ 00261-QSDĐ/02 do UBND huyện Đ cấp
ngày 24/11/1997 là diện tích đất M1 được UBND xã S giao để sử dụng trồng
lúa, thổ cư và trồng rau từ trước thời điểm năm 1987"
[2.2]. Tại biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn O nguyên trưởng thôn
đội trưởng đội 7 hợp tác xã P (thời điểm 1987-1999): Ông và gia đình cụ H4 lên
khai hoang xây dựng kinh tế mới vào năm 1965. Khi lên khai hoang gia đình cụ
H4 03 nhân khẩu, cụ H4 và 02 con gái theo đó hộ cụ H4 được chia một diện
tích đất để canh tác. Năm 1976, ông S kết hôn với H1 cùng chung sống
với cụ H4 tại diện tích đất cụ H4 được chia, một thời gian sau thấy cụ H4 vợ
chồng S H xây nhà kiên cố trên phần đất này nhưng không ai tranh chấp.
Năm 1997 khi nhà nước chủ trương cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình mới chia
tách thành hạn mức đất đất thổ canh, cụ H4 được chia thêm một suất định
mức theo nhân khẩu tại địa phương (là đất lúa cấp cho cụ H4). Ông O có biết việc
cụ H4 lập văn bản giao toàn quyền sử dụng trên 900m
2
đất cho vợ chồng ông bà
S, Hưởng quản lý, sử tạu ngoàn guần có được ký xác nhận vào giấy "Giao quyền
sử dụng đất" lập ngày 15/5/1997 thời điểm đó ông làm đội trưởng đội 7. Sau
thời điểm ký xác nhận ông S đã làm thủ tục đăng quyền sdụng đất đối với
phần đất cụ H4 cho, đã làm thủ tục nm yết, không ai khiều nại gi trong
thời hạn niêm yết, trong thời gian ông làm trưởng thôn cho đến khi cụ H4 mất
không thấy các thành viên trong gia đình tranh chấp gì. Ông O cho rằng việc
cụ H4 chuyển quyền sử dụng đất cho ông bà S, H1 là tự nguyện, minh bạch. Gia
đình ông S, H1 được cấp GCNQSDĐ đúng quy định của pháp luật, phù hợp
với quá trình ông bà S, H1 sử dụng đất từ năm 1976 đến nay. (BL325-326).
[2.3]. Tại biên bản lấy lời khai của các ông: Nguyễn Bảo D, Hoàng Hán T6,
Nguyễn Bảo M3, Nguyễn Đình T7 đều thừa nhận vợ chồng ông S, H1 người
xây dựng nhà quản lý, sử dụng đất ổn định từ năm 1976 cho đến nay. Năm
1997 khi nhà nước chủ trương cấp GCNQScho các hộ gia đình trong thôn họ
gia đình ông S, H1 tên trong danh sách niêm yết, không ai khiếu nại
trong thời hạn niêm yết. Vợ chồng ông bà S, H1 sử dụng đất ổn định từ khi ở với
cụ H4 cho đến khi có tranh chấp. Các ông không được mời tham gia chứng kiến
việc cụ H4 lập biên bản giao quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông S, H1 nhưng
thấy rằng việc vợ chồng ông S, H1 cùng cụ H4 công chăm sóc, phụng
dưỡng nên cH4 giao quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông bà S, H1 là có cơ sở.
(BL 327-327; 329-330; 331-332; 333).
[2.4]. Tại biên bản lấy lời khai ông S H1 đều khai nhận: Năm 1976 ông
S và bà H1 kết hôn, sau đó chuyển về sinh sống cùng cụ H4 và bà T tại Đội 7
14
P. Quá trình sinh sống cùng cụ H4, vợ chồng ông, bà đã làm nhà gỗ ba gian sau
đó làm nhà xây cấp 4, nhưng cụ H4 T không ý kiến gì. Năm 1996, khi
nhà nước có chủ trương cấp GCNQSD đất, gia đình gồm vợ chồng ông bà S, H1,
cụ H4 T8, họp bàn thống nhất cho vợ chồng ông, được quyền sử dụng
mảnh đất ở đội G, xã P, huyện Đ. Việc thỏa thuận có lập biên bản có chữ ký của
cụ H4, bà T và ông S, sau đó ông S ra xã thực hiện các thủ tục xin cấp GCNQSD
đất. Đến năm 1997 ông, bà được UBND huyện Đ cấp GCNQSD đất số L410270
mang tên ông Đoàn Vĩnh S (H). Qtrình làm thủ tục không khiếu nại hay
khiếu kiện gì, gia đình ông, bà đã sử dụng ổn định khi được cấp giấy cho đến năm
2018 khi T khởi kiện thì mới phát sinh tranh chấp. Từ khi cụ H4 mất (năm
2010) đến năm 2018 gia đình ông gia đình T vẫn đi lại bình thường không
có tranh chấp gì. (BL 475-477;
[2.5]. Tại biên bản lấy lời khai bà T thừa nhận ông S H1 lấy nhau năm
1976, sau khi lấy nhau hai người về sinh sống cùng cụ H4T tại đội 7, P,
đến năm 1986 ông S, H1 xin phép cụ H4 xây thêm 01 nhà cấp 4 để cho các
con ông bà S, H1 ở, tiền làm nhà là của chung gồm cụ H4, bà T và ông bà S, H1.
Năm 1978 T đi học chuyên nghiệp đến năm 1982 ra trường công tác tại
Nông trường bộ Đ trong quá trình đi học đi công tác bà T vẫn đi về với cụ H4.
Năm 1988, xây dựng gia đình sinh sống cùng gia đình nhà chồng nay
phường T, thành phố Đ. "Giấy giao quyền sử dụng đất ngày 15/5/1997" không có
sở pháp lý, không lập đúng nơi quy định theo khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai
1993, không phải chữ ký, chữ viết của bà T và của cụ H4. Việc ông S, H1 làm
các thủ tục để nghị cấp GCNQSDĐ cụ H4 và T không biết. Từ khi xây dựng
gia đình đến khi cụ H4 chết gia đình H1 không mâu thuẫn thuẫn gì,
chị em vẫn đi lại thăm nhau, cụ H4 thường xuyên đi lại với hai con gái. Cho đến
trước thời gian cụ H4 chết khoảng 20 ngày ông S, H1 lên đón cụ về cùng,
T không đồng ý khi đó tình cảm hai chị em mới rạn nứt. Khi cụ H4 còn sống bà
T không nghe cụ H4 nói gì về việc tặng cho ông bà, S H đất ở đội G P. Việc đóng
thuế đất hàng năm bà T không biết, gia đình bà gia đình chính sách nên không
phải đóng thuế. Bà T cho rằng thửa đất 387 là đất cấp cho cụ H4 bà không cấp
cho bà H1 vì thời điểm cấpH1 đã cắt khẩu đi học (BL 486-487).
[2.6]. Xem xét văn bản "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập ngày 15/5/1997
(BL 190): Bà T cho rằng giấy này không sở pháp lý, không lập đúng nơi
quy định theo khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai 1993, không phải chữ ký, chữ viết
của T và chữ của cụ H4. Tại Kết luận 564/GĐ-PC09 ngày 03/6/2021 của
Phòng K Công an tỉnh Đ đã kêt luận chữ viết ("Đất này anh chị S đã sử dụng từ
lâu tôi em, tôi nhất chí", Nguyễn Thị T) chviết của T tại cùng thời điểm
15
là do cùng một người viết, ký ra, đối với chữ ký của cụ H4 do chữ viết của cụ H4
trong giấy "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập ngày 15/5/1997 và tài liệu so sánh
là tờ khai chứng minh nhân dân của cụ H4 năm 1979 được viết ra ở hai thời điểm
cách nhau 18 năm, các đặc điểm không ổn định nên việc giám định và đưa ra kết
luận sẽ không đảm bảo tính khách quan. (BL 134, 140). Do không đồng ý với Kết
luận giám định, T tiếp tục yêu cầu giám định lại và giám định bổ sung, tại Kết
luận giám định số 207, 208/KL-KTHS ngay 01/8/2022 của V Bộ C1 (BL 632 -
633) kết Luận các chữ ("Đất này anh chị S đã sử dụng từ lâu tôi em, tôi nhất
chí", chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị T với chữ viết, chữ đứng tên
Nguyễn Thị T trong các mẫu so sánh "do cùng một người viết ra"; chữ đứng
tên Phạm S2 trên mẫu cân giám định so với chữ đứng tên Phạm S2 trên c
mẫu so sánh "do cùng một người ký ra"
T cho rằng chữ viết của cụ H4 trong giấy "Giao quyền sử dụng đất"
chữ viết của cụ N4 trong "Tờ khai chứng minh nhân dân" không giống nhau. Chữ
viết trong tờ khai chứng minh nhân dân viết khi cụ H4 57 tuổi (1922-1979), còn
chữ viết của cụ H4 trong giấy "Giao quyền sử dụng đất" khi đó cụ H4 75 tuổi
(1922-1997) cách nhau 18 năm, mặt khác T cũng đã yêu cầu giám định chữ
của cH4 tại 02 văn bản này và đã được cơ quan giám định trả lời "các đặc điểm
không ổn định nên việc giám định và đưa ra kết luận sẽ không đảm bảo tính khách
quan" (BL 134, 140) nên không căn cứ để Hội đồng xét xchấp nhận ý kiến
của bà T.
Giấy giao quyền sử dụng đất lập ngày 15/5/1997 có chữ ký của cụ H4, có ý
kiến "đồng ý" của T, xác nhận của trưởng thôn, cán bộ địa chính
UBND đảm bảo các quy định tại Điều 461, 463 Bộ luật dân sự 1995 về tặng
cho bất động sản; Điều 24, Điều 25 Luât đất đai 1993. Trên sở "Giấy giao
quyền sử dụng đất" ông S đã kê khai, làm thủ tục ngày 24/11/1997 được UBND
huyện Đ cấp GCNQSDĐ số L410270 mang tên ông Đoàn Văn S1 (H) và sdụng
ổn định từ khi được cấp giấy đến nay không tranh chấp hay bất cứ khiếu nại
cho đến năm 2018 bà T mới khiếu nại về việc cấp GCNQSDĐ.
[2.7]. Theo Án lệ số 33/2020/AL: Về trường hợp nhân được Nhà nước
giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu
dài từ khi được giao đất. Trong qtrình sử dụng đất, người này đã tôn tạo, xây
dựng nhà ổn định, đăng khai quyền sử dụng đất người được cấp đất
không ý kiến gì, trường hợp này, Tòa án không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền
sử dụng đất. Áp dụng Án lệ số 33 cho dù bà T trước đây có được giao đất nhưng
đã có ý kiến từ chối bằng văn bản, thửa đất đã được UBND huyện Đ cấp cho gia
đình ông S1, H1 từ năm 1997 cho đến năm 2018 T mới khiếu nại về việc
16
cấp đất và cho rằng thửa đất 387 là tài sản của và cụ H4 không có căn cứ để
Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà T.
[2.8]. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng thửa đất 387 có nguồn gốc UBND
xã Pom Lót chia cho hộ cụ H4 gồm có cụ H4, bà H1T. Năm 1976 ông S1
H1 kết hôn cả hai về sinh sống với cụ H4 T trên thửa đất này, cùng
nhau xây dựng nhà gỗ 03 gian sau đó là xây nhà cấp 4các công trình trên đất
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt. Năm 1997 khi nhà nước chủ trương cấp
GCNQSĐĐ cho các hộ gia đình trên sở "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập
ngày 15/5/1997 có chữ ký của cụ H4 và bà T, ông S1 đã làm các thủ tục để được
cấp GCNQSDĐ được UBND huyện Đ cấp GCNQSD đất số L410270 ngày
24/11/1997 mang tên ông Đoàn Vĩnh S (H). Từ khi kết hôn (năm 1976) đến khi
được cụ H4 tặng cho thửa đất 387, đến khi được cấp GCNQSDĐ năm 1997, sau
khi cụ H4 chết, ông S, H1 sử dụng ổn định, liên tục, hàng năm thực hiện nghĩa
vụ với hợp tác xã nhà nước không bất cứ một khiếu nại, hay tố cáo
của cụ H4 và bà T về việc ông bà S, H1 được cấp và sử dụng thửa đất số 387 trái
pháp luật. T cho rằng do hoàn cảnh gia đình không thời gian về n
không biết việc ông S, Hương đa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với thửa
đất số 387 không có căn cứ khoảng cách địa ly từ chỗ T sinh sống đến gia
đình H1 là không xa (khoảng 15 Km) bản thân T cũng thừa nhận: "Tình cảm
giữa hai gia đình từ khi tôi xây dựng gia đình đến khi mẹ tôi chết hai gia đình
không có mâu thuẫn thuẫn gì, chị em vẫn đi lại thăm nhau".
Từ những nội dung trên, HXX thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của T về việc công nhận thửa đất số 387 tài sản chung của
cụ H4 bà T, yêu cầu chia tài sản chung, yêu cầu chia di sản ½ diện tích thửa
đất số 387 cho bà T và bà H1 và buộc bà H1 và ông S tháo dỡ ngôi nhà cấp 4 hai
gian trên diện tích đất tranh chấp là có căn cứ.
[3]. Xét kháng cáo của Nguyễn Thị T đối với nội dung H1 ông Đoàn
Vĩnh S đơn phản tố yêu cầu độc lập về việc hủy Quyết định số 2818/QĐ-
UBND ngày 04 tháng 10 năm 2019; Quyết định số 228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng
02 năm 2020 của UBND huyện Đ; Quyết định số: 2926/QĐ-UBND ngày
25/11/2021 của Chủ tịch UBND huyện Đ, HĐXX thấy:
[3.1] Tại Kết luận số 05/KL-UBKT-TTr ngày 18/9/2019 của Ủy Ban kiểm
tra - Thanh tra huyện Đ (BL 322-323) nêu: "Năm 1996, thực hiện việc đăng
cấp GCNQSDĐ, ông Đoàn Vĩnh S (con rể M1), đơn đề nghị cấp
GCNQSDĐ đối với diện tích đất được quy chủ cho bà M1 - mẹ vợ ông S, như đã
nêu tại phần kiểm tra, mang tên ông Đoàn Vĩnh S không đúng đối tượng theo
quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993; Điều 6 Nghị định 64-CP,
17
ngày 27/9/1993 (người đề nghị cấp GCNQSDĐ không cung cấp được văn bản ủy
quyền của chủ sử dụng đất)" do vậy Ủy Ban kiểm tra - Thanh tra huyện Đ đã đ
nghị UBND huyện Đ ban hành quyết định thu hồi, hủy bỏ GCNQSDĐ mang tên
ông Đoàn Văn S1 (H). Trên sKết luận số 05, UBND huyện Đ, tỉnh Điện Biên
đã ban hành các Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 10 năm 2019 "Về
việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, nhân"; Quyết
định số 228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng 02 năm 2020, "Về việc hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông Đoàn Vĩnh S (H) trú tại đội D, P, huyện
Đ, tỉnh Điện Biên. Việc UBND huyện Đ hủy GCNQSDĐ số bìa L410270 mang
tên ông Đoàn Văn S1 (H) với lý do (người đề nghị cấp GCNQSDĐ không cung
cấp được được văn bản ủy quyền của chủ sử dụng đất), sau này ông S1 và bà H1
thực hiện việc khiếu nại 02 quyết định này của UBND huyện Đ đã không được
chấp nhận theo Quyết định số: 2926/QĐ-UBND ngày 25/1/2021 của Chủ tịch
UBND huyện Đ. Tại thời điểm thanh, kiểm tra theo đơn khiếu nại của T, gia
đình ông S1 không xuất trình được văn bản ủy quyền của cụ H4, sau này ông S1
mới m thấy xuất trình văn bản "Giấy giao quyền sử dụng đất" lập ngày
15/5/1997.
[3.2] Xem xét các tài liệu trong quá trình thanh tra việc cấp GCNQSDĐ s
L410270 theo đơn của Nguyễn Thị T, thấy rằng Ủy ban kiểm tra Thanh tra
huyện Đ đã không xem xét toàn diện nội dung, diễn biến quá trình sử dụng, quản
thửa đất số 387 của ông bà S1, H1 mà chcăn cứ vào việc ông S1, H1 không
cung cấp được văn bản ủy quyền của chủ sử dụng đất từ đó đề nghị UBND huyện
Đ, ban hành quyết định thu hồi, hủy bGCNQSDĐ của ông bà S1, H1 không
đảm bảo quyền lợi của ông bà. Các Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04
tháng 10 năm 2019; Quyết định số 228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng 02 năm 2020
và Quyết định số: 2926/QĐ-UBND ngày 25/11/2021 của Chủ tịch UBND huyện
Đ là không có căn cứ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông bà S1, H1.
[3.3] Từ các phân tích nhận định nêu trên, HĐXX thấy Tòa án cấp thẩm
chấp nhận yêu cầu phản tố của H1 yêu cầu độc lập của ông S1 hủy các
Quyết định số 2818/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 10 năm 2019 "Về việc thu hồi
giấy chứng nhận quyền sdụng đất của hgia đình, nhân"; Quyết định số
228/QĐ-UBND, ngày 05 tháng 02 năm 2020, "Về việc hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Đoàn Vĩnh S (H) cư trú tại đội D, xã P, huyện Đ, tỉnh
Điện Biên" của Ủy ban nhân dân huyện Đ; Quyết định số: 2926/-UBND ngày
25/11/2021 của Chủ tịch UBND huyện Đ, "Về việc giải quyết khiếu nại của ông
Đoàn Vĩnh S và bà Nguyễn Thị H1, cư trú tại thôn D, xã P, huyện Đ (lần đầu) đ
18
đảm bảo quyền sử dụng đất của bà H1ông S đối với thửa số 387 là có căn cứ
pháp luật.
Do đó nội dung kháng cáo này của bà T là không có căn cứ chấp nhận.
[4] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1 về việc đề nghị công nhận Quyền
sử dụng đất của cụ H4 theo Quyết định số 244/QĐ-UB ngày 10/02/1992 của
UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay tỉnh Điện Biên) di sản thừa kế của cụ
H4, đề nghị Tòa án tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng và Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất liên quan đến thửa đất 140m
2
, HĐXX thấy:
[4.1] Theo lời khai của ông Phạm Quốc H3, Phạm Thị T4 ông Mai
Ngọc A, bà Trần Thị Minh T2: Năm 1996 gia đình ông H3 nhận chuyển nhượng
từ cụ H4 60m
2
đất ược lãnh đạo tổ dân phố xác nhận đất sử dụng ổn định từ
năm 1996 cho đến năm 2006 không tranh chấp), ông H3 mua thêm của gia
đình Phạm Thị T9 40m
2
, tổng diện tích 100m
2
, năm 2002 ông H3 xin cấp
giấy phép xây dựng nhà cấp 3. Do làm mất hợp đồng chuyển nhượng, năm 2007
ông H3 xin xác nhận lại để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất nhận chuyển nhượng của cH4T9. (BL 336-341). Năm 2014 gia
đình đã chuyển nhượng thửa đất này cho gia đình ông Mai Ngọc A Trần
Thị Minh T2 đuợc UBND thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp GCNQSDĐ, từ khi
nhận chuyển nhượng năm 1996 gia đình ông H3 sau này gia đình ông Mai
Ngọc A sử dụng ổn định không có bất cứ tranh chấp gì.
[4.2] Theo lời khai của ông Văn T3: m 1998 gia đình ông đã nhận
chuyển nhượng từ cụ H4 77,25m
2
đất, (có xác nhận của tổ dân phố vviệc sử
dụng đất ổn định từ năm 1999, hàng năm đóng thuế đầy đủ với nhà nước), gia
đình sử dụng ổn định đến năm 2007 làm thủ tục cấp GCNQSDĐ và được UBND
thành phố Đ cấp giấy chứng nhận số AH 471702 mang tên ông Văn T3,
Hoàng Thị N2. (BL 342-352). Năm 2014 gia đình chuyển nhượng cho gia đình
bà Nguyễn Thị H2 ông Trịnh Khắc T1 (hình thức giải tỏa biên) được UBND
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp GCNQSDĐ. Từ khi nhận chuyển nhượng năm
1998 gia đình ông T3 sau này gia đình ông T1 sử dụng ổn định không bất
cứ tranh chấp gì.
[4.3] Nguyễn Thị H1 cho rằng 140m
2
của cụ H4 được cấp theo Quyết
định số 244/QĐ-UB ngày 10/02/1992 của UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu đã được
bà T chuyển nhượng bất hợp pháp cho gia đình ông H3 vào năm 1996 và gia đình
ông T3 vào năm 1998, vì trong các tài liệu để ông H3 và ông T3 làm thủ tục cấp
GCNQSDĐ năm 2007 phần chữ ký của người chuyển nhượng không phải là chữ
viết, chữ của cụ H4 giống với chữ viết chữ của T. Tại Kết luận
19
giám định số 1214/KL-KTHS ngày 02/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ (BL
851-852) đã kết luận chký, chữ viết Nguyễn Thị N4 trong hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 09/01/2007 giữa bên chuyển nhượng Nguyễn
Thị N4 và bên nhận chuyển nhượng Văn T3 với chữ ký, chữ viết Nguyễn
Thị T trên các tài liệu so sánh là do cùng một người ký, viết ra.
[4.4] Mặc dù các tài liệu hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
2007 của hộ gia đình ông H3 hộ gia đình ông T3 phần chữ viết, chữ ký Nguyễn
Thị H4 được giám định do T ký, viết ra. Tuy nhiên trên thực tế 02 hộ gia
đình đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ năm 1996 năm 1998. Sau
khi nhận chuyển nhượng hai hộ gia đình đã chuyển về sinh sống, xây nhà kiên cố
trên diện ch đất chuyển nhượng, hằng năm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối
với nhà nước. Các thủ tục hành chính năm 2007 được hoàn thiện để đảm bảo
quyền lợi cho bên nhận chuyển nhượng. Kể từ khi nhận chuyển nhượng đến khi
cụ H4 chết là năm 2010 và sau khi cụ H4 chết cho đến nay không có bất cứ tranh
chấp hay khiếu kiện gì từ gia đình cH4 và các hộ giáp ranh. Năm 2014 gia đình
ông H3 đã chuyển nhượng thửa đất cho gia đình ông Mai Ngọc A và bà Trần Th
Minh T2, gia đình ông T3 chuyển nhượng cho gia đình bà Nguyễn Thị H2ông
Trịnh Khắc T1 (hình thức giải tỏa biên). Việc chuyển nhượng cấp
GCNQSDĐ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Từ năm 2014 đến
nay gia đình ông Mai Ngọc A, Trần Thị Minh T2 gia đình Nguyễn Thị
H2, ông Trịnh Khắc T1 sử dụng ổn định, không có khiếu nại hay tranh chấp gì.
Diện tích 140m
2
đất cH4 được cấp năm 1992 theo Quyết định số 244/QĐ-
UB ngày 10/02/1992 của UBND huyện Đ, tỉnh Lai Châu (nay là tính Điện Biên)
đã được chuyển nhượng trong thời gian cụ H4 còn sống, người nhận chuyển
nhượng đã thực hiện đăng quyền sử dụng đất thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước từ khi nhận chuyển nhượng. Năm 2010 cụ H4 chết, theo Điều 634 BLDS
năm 2005 quyền sử dụng 140m
2
đất không phải di sản của cụ H4 nữa. Do vậy
không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của H1 chia di sản của cụ H4 cho hai
đồng thừa kế bà H1 bà T. Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu phản
tố của bà H1 là phù hợp, có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4.5] Từ những nội dung trên, HĐXX thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa
đất 140m
2
không phải di sản của cụ H4 nên không chấp nhận yêu cầu của
H1 về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là có căn cứ, cụ thể là các yêu cầu sau đây:
- Hủy hợp đồng ngày 09 tháng 01 năm 2007; Người chuyển nhượng
Nguyễn Thị N4, người nhận chuyển nhượng, ông Lê Văn T3.
20
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ723118 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Phạm Quốc H3 và bà Phạm Thị T4 vào
ngày 23/6/2006.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 471702 do UBND thành
phô Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Lê Văn T3, Hoàng Thị N2 vào ngày
01/02/2007.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 010627 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên Nguyễn Thị H2 ông Trịnh Khắc T1
vào ngày 17/07/2014.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 062075 do UBND thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp mang tên ông Mai Ngọc A Trần Thị Minh T2
vào ngày 14/01/2015.
[5] Quá trình xét xử phúc thẩm, người kháng cáo không đưa ra được các tài
liệu chứng cứ nào mới làm thay đổi bản chất vụ án; quan điểm của người kháng
cáo và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không phù hợp với nhận định của
HĐXX nên không được chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại
phiên a căn cứ, phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
Từ những nhận định trên HĐXX căn cứ khoản 1, Điều 308-Bộ luật Tố tụng dân
sự, không chấp nhận kháng cáo của các đương sự NGuyễn Thị T10 Nguyễn
Thị H1. Giữ nguyên các quyết định của Bản án dân sthẩm số 02/2023/DS-
ST ngày 02/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị H1 là người cao tuổi nên
được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án dân sthẩm không kháng cáo,
không bị kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1, Điều 308-Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ, khoản 1, Điều
12-Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị H1.
21
Giữ nguyên các Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST
ngày 02/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
2. Về án phí phúc thẩm: Nguyễn Thị T Nguyễn Thị H1 người
cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không kháng cáo, không
bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Điện Biên;
- VKSND tỉnh Điện Biên;
- Cục THA dân sự tỉnh Điện Biên;
- Các đương sự (theo địa chỉ).
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ong Thân Thắng
Tải về
Bản án số 516/2024/DS-PT Bản án số 516/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 516/2024/DS-PT Bản án số 516/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất