Bản án số 613/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 613/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 613/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 613/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 613/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 613/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương như sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 613/2024/DS-PT
Ngày 12-12-2024
V/v hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất, hợp đồng mua bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Sỹ Trứ
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Ông Nguyễn Thanh Tùng
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thảo Vy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện Kim st nhân dân tnh Bnh Dương: Ông Lê Trung Kiê n -
Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 450/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm 2024
về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán tài sản” .
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 416/2024/QĐ-PT ngày 24 tháng 10 năm
2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 496/2024/QĐ-PT ngày 14/11/2024 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Tố Uyên P, sinh năm 1991; địa chỉ: số A khu phố D,
phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người đại diện hợp pháp: Bà Đỗ Thị Thanh A, sinh năm 1994; địa chỉ: số A,
đường Đ, phường P, thành phố T, tỉnh Bì nh Dương, là người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản ủy quyền ngày 03/8/2023), vắng mặt
- Bị đơn: Bà Lê Thị Thúy H, sinh năm 1988; địa chỉ: tổ A, khu phố C, phường
U, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Thái Thanh H1, sinh năm 1979
và ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1998; cùng địa chỉ liên lạc: tổ A, khu phố C, phường
U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền
ngày 04/6/2021), ông H1 có mặt, ông K vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Trần Thị V, sinh năm 1986; địa chỉ: đường Đ, tổ A, khu phố A, phường
H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1981, địa chỉ: đường Đ, tổ A, khu phố A,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin vắng mặt.
3. Ông Phạm Thanh T, sinh năm 1987, địa chỉ: thôn P, xã Đ, huyện M, tỉnh
Quảng Ngãi, có đơn xin vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Bù i Thị Tố Uyên P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình
bày:
Đầu năm 2021, qua các trang mạng xã hội, bà Bùi Thị Tố Uyên P biết được bà
Lê Thị Thúy H có nhu cầu sang nhượng mặt bằng tiệ m trà sữa YOYO tại khu phố A,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Ngày 04/3/2021, qua trao đổi đ iện thoại, bà
H nói rằng giá sang nhượng toàn bộ là 300.000.000 đồng, bao gồm: quầy bán mang
đi, bàn ghế, thiết bị đèn, điện, quạt, khung kính, trần nhà, ba mái hiên trước nhà, biển
hiệu, kệ trang trí và cây xanh trang trí, thiết bị â m thanh, tiền cọc nhà 50.000.000 đồng.
Bà H có chụp cho bà P xem hợp đồng thuê nhà với chủ nhà . Bà H nói giá thuê mặt
bằng hiện tại với chủ đất là 35.000.000 đồng, chủ đất đồng tiếp tục cho thuê vẫn với
giá 35.000.000 đồng/tháng, hợp đồng còn lại là 10 tháng. Do tin tưởng bà H nên nên
bà P không yêu cầ u lập hợp đồng bằ ng văn bản mà chỉ thỏa thuận bằng lời nói với
nhau. Ngày 06/3/2021, bà P đã chuyển vào tài khoản của bà Hằng số tiề n 20.000.000
đồng để đặt cọc.
Vài ngày sau bà H điện thoại cho bà P báo rằng có một số trục trặc với bà V -
là chủ nhà cho thuê về tiền thuê nhà và tiền đặt cọc. Chủ đất yêu cầu tăng giá thuê lên
40.000.000 đ ồng/tháng, do hợp đồng còn lại là 10 tháng nên chủ đất yêu cầu thanh
toán trước số tiền 50.000.000 đồng (5.000.000 đồng x 10 tháng), số tiền thuê hà ng
tháng vẫn đóng tiếp 35.000.000 đồng. Bà H sẽ hỗ trợ cho bà P 25.000.000 đồng tương
ứng số tiền tăng của 05 tháng, bà P phải chịu số tiền 25.000.000 đồng của 05 thá ng
còn lại. Như vậy, tổng số tiền bà P phải thanh toá n cho bà H là 325.000.000 đồng.
Bà P cho rằng giá trị các tài sản hiện có trên mặt bằng thuê là không thể tới con
số 250.000.000 đồng, do bà thuê nhằm mục đích bán bánh, không phải tiếp tục bán trà
sữa nê n một số vật dụng không phù hợp, sẽ không sử dụng tới. Tuy nhiên, do bà P quá
thích vị trí đất, mong muốn sớm thuê được mặt bằng để kinh doanh nên đã chấp nhận
mọi điều kiện do bà H đưa ra. Do bà H biết được tâm lý củ a bà P lúc đó nên đã liên
tục hối thúc thanh toán và vào khoảng 18 giờ ngày 25/3/2021, bà H tới nhà bà P và bà
P đã thanh toán toàn bộ số tiền còn lại là 305.000.000 đ ồng cho bà H tại nhà bà P.
Ngày hôm sau, tức ngà y 26/3/2024, bà P và bà H cùng tới nhà bà V để ký hợp đồng
thuê đất và nhận mặt bằng. Khi gặp bà V để thỏa thuận về việc thuê mặt bằng, bà V
yêu cầu bà P phải đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng, không phải là số tiền 50.000.000
đồng như trao đổi với bà H trước đó. Bà P có cảm nhận như đang bị bà H và bà V lừa
dối, thiếu sự tôn trọng bà nên bà bỏ về mà không tiếp tục thỏa thuận việc thuê đất với
bà V.
3
Nhận thấy việ c giao dịch không thành công, đồng thời những mâu thuẫn này sẽ
ảnh hưởng rất nhiều đến công việc kinh doanh sau này nên bà P đã chủ động liên lạc
với bà H để yêu cầu nhận lại số tiền đã thanh toán nhưng bà H không đồng ý, do vậy,
nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P khởi kiện yêu cầu:
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng sang nhượng mặt bằng giữa bà Bùi Thị
Tố Uyên P với bà Lê Thị Thúy H xác lập ngày 04/3/2021 là vô hiệ u;
- Buộc bà Lê Thị Thúy H hoàn trả cho bà Bùi Thị Tố U P số tiền đã nhận là của
bà P là 325.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho rằng hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn theo quy
định tại Điều 126 của Bộ luật Dân sự, do đó đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn
trình bày:
Bị đơn thống nhất như trình bày của nguyên đơn về hợp đồng sang nhượng
tiệm trà sữa YOYO. Nguyên trước đây, bà H cùng chồng là ông Phạm Thanh T có ký
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với bà Trần Thị V cùng chồng là ông Nguyễn Văn
D để làm mặt bằng kinh doanh. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất nêu trên được Văn
phòng C, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/5/2020. Theo đó, bà H thuê diện
tích đất 190m
2
thuộc thửa đất 23, tờ bản đồ 17 tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình
Dương. Sau khi hợp đồng nêu trên được công chứng, bà H có tu bổ mặt bằng, mua
sắm một số tài sả n để kinh doanh mở tiệm trà sữa YOYO.
Vào đầu 2021, do không có nhu cầu tiếp tục kinh doanh nên bà H có rao trên
các mạng xã hội về việc sang nhượng lại tiệm trà sữa nêu trên, sau đó bà Bùi Thị Tố
Uyên P có liên hệ đến vợ chồng bà H đề cập vấn đề muốn sang nhượng lại tiệm trà
sữa của bà H. Đồng thời, bà P đề nghị bà H hủy hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đối
với vợ chồng bà V để bà P được ký kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với vợ
chồng bà V. Ngày 03/3/2021, bà H có gửi thông báo đến bà V về việc bà H sẽ bán
toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà H trê n diện tích đấ t 190m
2
nêu
trên cho nguyên đơn bà P. Đồng thời, bà H có đề nghị vợ chồng bà V ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất với bà P với những điều khoản như đã ký kết với bà H để bà
P được thuê quyền sử dụng đất của bà V và sử dụng các tài sản đã mua của bà H
nhằm tiếp tục kinh doanh.
Ngày 04/3/2021, bà H cù ng chồng có nhận được thông báo trả lời của vợ chồng
bà V. Theo nội dung thông báo, vợ chồng bà V đồng ý ký hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất với bà P giống như những điều khoản đã giao kết với vợ chồng bà H. Ngày
26/3/2021, ngay sau khi bà P giao đủ tiền mua tài sản cho vợ chồng bà H, bà H có mờ i
bà P đến nhà bà V để trao đổi các vấn đề liên quan đế n việc ký kết hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất với bà V. Dưới sự chứng kiến của vợ chồng bà V, bà H cũng đã
bàn giao toàn bộ tài sản theo thỏa thuậ n bán cho bà P. Song song với việc giao nhận
tài sản nêu trên, bà P có đề nghị và vợ chồng bà V đồng ý cho bà P để tạm những tài
sản đã mua của vợ chồ ng bà H trên mặt bằng bà P dự định thuê của bà V cho đến khi
02 bên ký kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tại văn phòng C.
4
Ngày 28/3/2021, bà P báo với bà H rằng bà P thay đổi ý kiến và không muốn
ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với bà V như đã thỏa thuận. Sau khi biết được
thông tin này, cũng trong ngày 28/3/2021, bà V có thông báo cho bà P trong trường
hợp không đến ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với bà V thì chậm nhất đến ngày
01/4/2021 bà P phải đến chuyển toàn bộ tài sản đã mua từ bà H ra khỏi mặt bằng của
bà V. Đến hết ngày 01/4/2021, bà P không phản hồi nên ngày 03/4/2021, bà V có gửi
thông báo bằng văn bản đến bà P yêu cầu bà P trong 05 ngày kể từ ngày 03/4/2021
phải đến để giải quyết vấ n đề về việc thuê mặt bằ ng cũng như tài sản mà bà P đã mua
đang để nhờ trên mặt bằng của bà V. Bà P nhận được thông báo này nhưng không có
ý kiến gì.
Do hợp đồng thuê quyền sử dụng đấ t giữa vợ chồng bà H và vợ chồng bà V đã
chấm dứt, bà P lại không đến ký kết hợ p đồng thuê quyền sử dụng đất như đã thỏa
thuận, bà V đã cho người khác thuê lại mặt bằng này. Trong quá trình cải tạo mặt bằng
kinh doanh, ai di dời những tài sản mà nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng từ bà H
thì bà H không biết. Bị đơn nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn
không có căn cứ. Nguyên đơn đã giao đủ tiền mua tài sản, vợ chồng bà H cũng đã bàn
giao toàn bộ tài sản cho nguyên đơn dưới sự chứng kiến của vợ chồng bà V. Việc mua
bán tài sả n giữa nguyên đơn và bà H đã được hoàn thành. Do đó, bà H đề nghị Tòa
án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà P.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn vẫn giữ nguyên lời trình
bày, cho rằng hợp đồng mua bán tài sản giữa bà H và bà P đã thực hiện xong, bà P tự
ý bỏ về không thương lượng thỏa thuận ký hợp đồng thuê đất với bà V là lỗi của bà
P nên không đồng ý trả lại số tiền bán tài sản 250.000.000 đồng. Đối với số tiền đặt
cọc là 50.000.000 đồng và tiền thuê trả trước 25.000.000 đồng, do bà P không ký hợp
đồng thuê đất với bà V nên bà H đ ồng ý trả lại số tiền này cho bà P.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị V trình bày:
Bà Trần Thị V cùng chồng là ông Nguyễn Văn D đứng tên quyền sử dụng đất
diện tích 531,5m
2
thuộc thửa đất số 23, tờ bản đồ 17, tọa lạc tại phường H, thành phố
T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH03881 do
Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) thành phố T cấp ngày 05/5/2015. Tháng
05/2020, bà H cùng chồng là ông Phạm Thanh T có liên hệ đề nghị được thuê một
phần đất của vợ chồng bà V nêu trên để làm mặt bằng kinh doanh. Ngày 19/5/2020,
vợ chồng bà V và ông Phạm Thanh T có ký Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được
Văn phòng C, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD. Theo đó vợ chồng bà H thuê diện tích
đất 190m
2
thuộc thửa đấ t nói trê n với thời hạn 05 năm. Sau khi hợp đ ồng được công
chứng, bà H và ông T có tu bổ mặt bằng và mua sắm một số tài sản để kinh doanh dịch
vụ ăn uống. Ngày 03/3/2021, bà V nhận được thông báo của bà H, ông T về việc ông
T, bà H sẽ bán toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông bà trên diện tích
đất 190m
2
nêu trên cho bà Bùi Thị Tố Uyên P. Những tài sản đó bao gồm: bàn, ghế,
quầy bán mang đi, thiết bị đèn, quạt trang trí, khung kính máy lạnh, cây xanh trang trí,
thiết bị âm thanh,… Đồng thời, ông T, bà H có đề nghị vợ chồng bà V ký kết hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất với bà P với những điều khoản như đã ký kết với ông T, bà
H để bà P được thuê quyền sử dụng đất của bà V và sử dụng các tài sản đã mua của
ông T, bà H nhằm tiếp tục kinh doanh. Ngày 04/3/2021, vợ chồng bà V gửi thông báo
đến ông T phúc đáp rằng bà V đồng ý ký kết hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất
với bà P giống như những điều khoản đã ký kết với vợ chồng bà H.
5
Ngày 26/3/2021, ngay sau khi bà P giao đủ tiền mua tài sản cho vợ chồng bà H,
bà H có mời bà P đến nhà bà V để trao đổi các vấn đề về việc ký kết hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất với bà V. Đồng thời phía bà H cùng chồng cũng bàn giao toàn bộ
tài sản đã bán cho bà P dưới sự chứng kiến của vợ chồng bà V. Song song với việc
giao nhận nêu trên, bà V có đồng ý cho bà P để tạm những tài sản đã mua của vợ
chồng bà H trên mặt bằng mà bà P dự định thuê của bà V cho đến khi 02 bên ký kết
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tại văn phò ng C.
Ngày 28/3/2021, bà H báo cho bà V là bà P thay đổi ý kiến và không muốn ký
kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với bà V như đã thỏa thuận, lý do cụ thể thì bà
V không biết. Cũng trong ngày 28/3/2021, bà V có thông báo cho bà P trong trường
hợp không đến ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với bà V thì chậm nhất đến ngày
01/4/2021 phải đến chuyển toàn bộ tài sản đã mua từ bà H ra khỏi mặt bằng của bà V.
Tuy nhiên, đến hết ngày 01/4/2021, bà P vẫn không có phản hồi gì. Ngày 03/4/2021,
bà V gửi thông báo bằng văn bản đến bà P yêu cầu bà P trong vòng 05 ngà y kể từ
ngày 03/4/2021 phải đến giải quyết vấn đề về việ c thuê mặt bằng cũng như tài sản mà
bà P đã mua từ vợ chồng bà H đang để nhờ trên mặt bằng của bà V. Bà P đã nhận
được thông báo này nhưng không có phản hồi gì.
Tại thời điể m đó, mặt bằng của bà V có giá cho thuê rất cao, đây là một trong
những nguồn thu nhập chính của gia đình bà V. Để tránh tổn thất về kinh tế, bà V đã
cho những người khá c thuê để kinh doanh, buôn bán. Trong quá trình cải tạ o mặt bằng
để kinh doanh, những người thuê lại mặt bằng của bà V có di dời phần tài sản mà
nguyên đơn để nhờ hay không, di dời những tài sản nào thì bà V không biết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D trình bày: Ông
Nguyễn Văn D không có văn bản trình bày ý kiến về vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh T trình bày: Ông T là
chồng củ a bà Lê Thị Thúy H, ông Truyền thống N toàn bộ lời trình bày và yêu cầu củ a
bà H.
Ngày 13/9/2022, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tân Uyên đã xét xử
sơ thẩm, tại Bản án dân sự số 54/2022/DS-ST đã quyết định: “Không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P về việc tranh chấp hợp đồng mua
bán tài sản và thuê quyền sử dụng đất đối với bị đơn bà Lê Thị Thúy H; ghi nhận sự
tự nguyện của bị đơn bà Lê Thị Thúy H về việc trả lại cho bà Bùi Thị Tố U P số tiền
75.000.000 đồng” .
Nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P kháng cáo, tại Bản án số 185/2023/DS-PT
ngày 22/5/2023, Tòa án nhân dâ n tỉnh Bình Dương đã quyết định hủy Bản án sơ thẩm
số 54/2022/DS-ST ngày 13/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên với nhận định
cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, chưa giải quyết vụ án triệt để, chưa
đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Sau khi thụ lý lạ i vụ án, Tòa án tiến hành thu thập thêm tà i liệu, chứng cứ, cụ
thể: Ngày 21/3/2024 tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đã ghi nhận hiện tại các tài
sản đương sự giao dịch còn lại gồm: 06 chụp đèn trang trí và 02 vách kính cường lực.
Theo kết quả định giá ngày 11/4/2024, Hội đồng định giá xác định mỗi chụp đèn có
giá 120.000 đồng x 60% giá trị còn lại, vách kính có giá 700.000 đồng/m
2
x 80% giá
trị còn lại. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/7/2024, bà Trần Thị V và ông Nguyễn
Văn D xác định hiện tại mặt bằng trên bà không còn cho thuê mà trực tiếp sử dụng.
6
Tài sản còn lại là 06 chụp đèn và vách kính cường lực, bà V không có nhu cầu sử
dụng. Người đại diệ n hợp pháp của bị đơn giao nộp Hợp đồng thanh lý hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất do Văn phòng C công chứng ngày 19/5/2020.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày quan điểm tranh
luận: Bản chất giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn là sang nhượng mặt bằng. Bị đơn
có đăng trên tài khoản Facebook về việc sang nhượng mặt bằng quán trà sữa YOYO
tại khu phố A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Theo thỏa thuận hai bên,
trong tổng số tiền nguyên đơn đã thanh toán cho bị đơn có 50.000.000 đồng là tiền cọc
thuê nhà đất và 25.000.000 đồng là tiền thanh toán trước tiền thuê nhà do tăng giá thuê
mặt bằng. Điề u này chứng tỏ nếu bị đơn chỉ đơn thuần bán tài sản thì không thỏa thuận
nhận số tiền này. Bị đơn có gửi thông báo cho bà V và Thông báo ngày 04/3/2021 của
bà V thể hiện việc đồng ý cho bà P thuê lại mặt bằng. Biên bản thẩm định (bút lục 76),
bà V trình bày, bà H có thông báo cho bà V về việc sang nhượng mặt bằng cho bà P.
Biên bản định giá tài sản thể hiện giá trị của tài sản là rất thấp, không có giá
250.000.000 đồng. Mục đích của nguyên đơn không phải mua tài sản mà là sang
nhượng mặt bằng, bao gồm quyền thuê lại mặt bằng, vị trí kinh doanh và tài sản trên
mặt bằng. Bà P không kinh doanh trà sữa, những tài sản trên mặt bằng cũng không sử
dụng, bà P đồng ý giá sang nhượng mặt bằng 325.000.000 đồng vì bà H cam kết bà P
được quyền thuê lại mặt bằng. Do vậy đối tượng của hợp đồng là quyền thuê lại mặt
bằng không thể thực hiện được nên hợp đồng vô hiệu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P
về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và thuê quyền sử dụng đất” đối với bị
đơn bà Lê Thị Thúy H.
Buộc bị đơn bà Lê Thị Thúy H trả lại cho nguyê n đơn bà Bùi Thị Tố U Phương
số tiền 75.000.000 đồng (bả y mươi lăm triệu đồng), gồm 50.000.000 đồng tiền đặt cọc
và 25.000.000 đồng tiền thuê nhà).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành á n, chi phí tố tụng,
về án phí, về quyề n kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27 tháng 8 năm 2024, nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P kháng cáo một
phần bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấ p
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, thay
đổi yêu cầu kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm với lý do: người
đứng tên quyền sử dụ ng đất là bà Trần Thị V đã cho ông Đ thuê lại quyền sử dụ ng
đất đối với phần đất mà bà P và bà H thỏa thuận để bà V cho bà P thuê nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm chưa làm viêc với ông Đ và cũng không thu thập hợp đồng thuê giữa ông
Đ và bà V. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đi diê ̣n Viê ̣n Kiể m sát nhân dân tnh Bnh Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
7
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là có căn cứ, phù hợp với quy định của
pháp luật. Nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P kháng yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tại phiên tòa phúc thẩm
nguyên đơn thay đổi yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng có
ông Đ là người đã thuê lại đất bà V nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Đ tham
gia tố tụng. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà P cũng không cung cấp được nhân thân, địa
chỉ ông Đ và cũng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh nê n đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cá o, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của đương
sự, ý kiến của Kiểm sát viên, ngườ i bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Nguyê n đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P kháng cáo trong thời hạn luật định nên
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý theo quy định củ a pháp luật.
[1.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị V, ông Nguyễn Văn
D, ông Phạm Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Đỗ Thị Thanh A là người đại
diện hợp pháp của nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có mặt nguyên đơn; ông Nguyễn
Hữu K là người đại diện hợp pháp của bị đơn vắng mặt nhưng có người đại diện khác
của bị đơn là ông Thái Thanh H1 có mặt nên că n cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự
Tòa án xét xử vắng mặt họ.
[2] Nội dung vụ án:
[2.1] Vợ chồng bà Trần Thị V, ông Nguyễn Văn D đứng tên quyền sử dụng đất
thửa đất số 23, tờ bản đồ 17, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH03881 do Ủy ban nhân dân thị xã
(nay là thành phố) Tân Uyên cấp ngày 05/5/2015. Ngày 19/5/2020, Nguyễn Văn D, bà
Trần Thị V và ông Phạm Thanh T (chồng bà Lê Thị Thúy H) thoả thuận ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất. Theo đó bà V, ông D cho ông T, bà H thuê một phần quyền
sử dụng đất (diện tích 190m
2
). Sau khi thuê, bà H đầu tư xây dựng, kinh doanh tiệm
trà sữa YOYO. Đầu năm 2021, thông qua mạng xã hội, bà P biết bà H có nhu cầu sang
nhượng lại tiệm trà sữa nên liên lạ c với bà H, các bên thống nhất giá sang nhượng là
325.000.000 đồng, trong đó giá hàng hóa là 250.000.000 đồng, tiền đặ t cọc thuê đất
là 50.000.000 đồng, thanh toán trước tiền thuê nhà 25.000.000 đồng. Các bên không
lập hợp đồng bằng văn bả n mà chỉ thoả thuận bằng lời nói, đồng thời bà P đã thanh
toán toàn bộ tiền cho bà H. Bị đơn thừa nhận đã nhận đủ số tiền 325.000.000 đồng
của nguyên đơn.
[2.2] Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất thừa nhận việc mua bán tài sản,
thống nhất giá mua bán và nguyên đơn cũng đã thanh toán hế t cho bị đơn, hợp đồng
được xác lập ngày 04/3/2021. Xét thấy các tài sản mua bán gắn liền với mặ t bằng kinh
doanh, mục đích của nguyên đơn mua tài sản là để tiếp tục kinh doanh trên mặt bằng
cho thuê, các tài sản mua bán không phải đăng ký sở hữu, hợp đồng mua bán không
thuộc trường hợp phải bằng văn bả n, phải có công chứng, chứng thực nên việc các
bên hợp đồng mua bán bằng lời nói cũng có hiệu lực pháp luật. Do hợp đồng có hiệu
8
lực, nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán tiền cho bị đơn, bị đơn có nghĩa vụ bàn giao
tài sản cho nguyên đơn. Nguyên đơn đã thanh toán cho bị đơn toà n bộ số tiền vào
ngày 26/3/2021. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thừa nhận ngày 27/3/2021, nguyên
đơn cùng bị đơn đ ến gặp chủ đất đ ể nhận tài sản và ký hợp đ ồng thuê đất, nhưng do
không thống nhất số tiền đặt cọc thuê đất với chủ đất, nguyên đơn đã tự ý bỏ về. Thời
điểm thỏa thuận mua bán tài sản nguyên đơn biết quyền sử dụng đất là thuộc bên thứ
ba không phải của bị đơn, biết được điều khoản hạn chế “bị đơn không có quyền cho
thuê lại, trường hợp cho thuê lại phải được sự đồng ý của bên chủ đất” nhưng vẫn tự
nguyện thanh toán, chấp nhận rủi ro về phía mình. Nguyên đơ n thừa nhận rất thích địa
điểm dự định thuê đất, mong muốn sớm được kinh doanh trên địa điểm này nên đã
đồng ý các điều kiện của bị đơn đưa ra, tự nguyện thanh toán trước toàn bộ số tiền
thỏa thuận. Nguyên đơn thừa nhận biết đất là của bên thứ 3, đồng ý thỏa thuận tăng
giá thuê, đồng ý thanh toán trước tiền cọc đất, một phần tiền thuê. Điều này chứng tỏ
nguyên đơn là người có thiện chí và thực sự mong muốn thuê được địa điểm để kinh
doanh. Bị đơn cũng mong muốn sang nhượng lại mặt bằng của mình, các tài sản của
mình cho nguyên đơn. Nguyên đơn, bị đơn cùng thừ a nhận do bà V yêu cầu nguyên
đơn đặt cọc số tiền thuê đất là 100.000.000 đồng, nguyên đơn khô ng đồng ý nên không
thỏa thuận thuê đất của bà V. Nhận thấy, việc các bên thỏa thuận tiền cọc để thuê đất
là phù hợp với quy định của pháp luật. Mặt khác, bị đơn không có cam kết với nguyên
đơn là trường hợp nguyên đơn không thuê đất của bà V thì bị đơn trả lại tiền cho
nguyên đơn. Xét thấy, nguyên đơn và bị đơn chỉ thỏa thuận việc mua bán tài sản,
không thỏa thuận về việc thuê đất, việc nguyên đơn không đạt được thỏa thuận về
việc tiếp tục thuê đất vớ i vợ chồng ông D, bà V không có lỗi của bị đơ n. Do đó,
nguyên đơn cho rằng hợp đồng mua bán tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu
do nhầm lẫn, có đối tượng không thể thực hiện được là không có cơ sở, nguyên đơn
yêu cầu bị đơn trả lại tiền mua bán tà i sản là không có căn cứ. Riêng đối với số tiền
cọc thuê đất, thanh toán trước tiền thuê đất, do bà P không tiếp tục ký hợp đồng thuê
đất với bà V nên bà H phải trả lại cho bà P là có cơ sở và bị đơn cũng đồng ý trả lại
số tiền này, Hội đồng xét xử ghi nhận.
[2.3] Hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực, bị đơn bàn giao tài sản cho nguyên
đơn, nguyên đơ n không ký hợp đồng thuê đất nên không nhận bàn giao tài sản là tự
từ bỏ quyền của mình. Do các bên không có thỏa thuận gửi giữ nên theo quy định tại
Điều 441 của Bộ luật Dân sự, bên mua tài sản phải chịu rủi ro về tài sản. Chủ đất ông
D, bà V đã thông báo cho nguyên đơn di dời nhưng nguyên đơn không có ý kiến đồng
nghĩa việc từ bỏ quyền sở hữu của mình. Ông D, bà V không có nghĩa vụ phải giữ gìn
tài sản cho nguyên đơn và không có trách nhiệm bồi thường đối với các tà i sản bị thất
thoát. Đối với tài sản còn lại là 6 chụp đèn và 02 vách kính là tài sản của nguyên đơn,
nguyên đơn không yêu cầu lấy lại, bà V, ông D xác định không có nhu cầu sử dụng
và cũng không yêu cầu nguyên đơn phải tháo dỡ, di dời nên Tòa án cấp sơ thẩm không
xem xét là có căn cứ.
[2.4] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp đồng sang nhượng mặt bằng
giữa bà Bùi Thị Tố Uyên P với bà Lê Thị Thúy H xác lập ngày 04/3/2021 là vô hiệu
và buộc bị đơn bà Lê Thị Thúy H hoàn trả cho nguyên đơn số tiền đã nhận là
325.000.000 đồng. Bị đơn bà Lê Thị Thúy H đồng ý hoàn trả số tiền đặt cọc là
50.000.000 đồng và tiền thuê trả trước 25.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận
định tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất,
hợp đồng mua bán tài sản mua bán tài sản” và nhận định tranh chấp hợp đồ ng mua
9
bán tài sản có hiệu lực là có căn cứ. Tuy nhiên, trong phần quyết định của bản án sơ
thẩm lại tuyên không đầy đủ về phần Tòa án chấp nhận, phần không chấp nhận nên
cần phải sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án.
[3] Nguyên đơn kháng cáo cho rằng, bà V đã cho ông Đ thuê phần đất mà trước
đây bà H thuê nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Đ tham gia tố tụng nên yêu
cầu hủy bản án sơ thẩm, xét yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ và nguyên
đơn cũng không cung cấp được chứng cứ gì mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo
của mình nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận.
[4] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là có căn
cứ một phần nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa á n sơ thẩm nên người khá ng cáo không
phải chịu án phí dâ n sự phúc thẩm, trả cho người kháng cáo tạ m ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 48; khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Căn cứ Điều 400; Điều 401; Điều 430; Điều 433; Điều 434; Điều 440; Đ iều
441 ca Bô ̣ luật Dân sự.
- Căn cứ Điều 166, Điều 167 Luật Đất đai 2013.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 thá ng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên
P.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương như sau:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên
P đối với bị đơn bà Lê Thị Thúy H về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tà i sản và
thuê quyền sử dụng đất”.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơ n bà Lê Thị Thúy H đ ồng ý hoàn trả lạ i cho
nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyê n P số tiề n 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).
Kể từ ngày được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi
hành án chưa thi hành xong khoản tiền trên thì còn phải trả cho người được thi hành
án khoản tiền lãi theo mức lãi suất qui định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật
Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh toán.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P
về việc yêu cầu bị đơn bà Lê Thị Thúy H phải trả số tiền 250.000.000 đồng (hai trăm
năm mươi triệ u đ ồng).
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
10
- Nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Uyên P phải chịu 12.500.000 đồng (mười hai triệu
năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 8.125.000 đồng (tám
triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0052454 ngày 21/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã (nay là thà nh phố) Tân Uyên. Bà Bùi Thị Tố Uyên P còn phải nộp thêm số tiền
4.375.000 đồng.
- Bị đơn bà Lê Thị Thúy H phải chịu 3.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bùi Thị Tố Uyên P không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm, trả lại cho bà P 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004277 ngày 20/9/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
4. Các phần khác của Bản á n dân sự sơ thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 14 tháng
8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương không có
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn khá ng cáo,
kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hà nh án được thực hiện theo quy định tại Điề u 30 Luật Thi hành án dân
sự.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Bnh Dương;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- TAND thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính - Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Sỹ Trứ
Tải về
Bản án số 613/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 613/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm