Bản án số 510/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 510/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 510/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 510/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Văn T "tranh chấp hợp đồng vay tài sản" Huỳnh Thị T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 510/2024/DS-PT
Ngày: 16-12-2024
Về việc “tranh chấp hợp đồng vay
tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Các Thẩm phán: bà Huỳnh Thị Hồng Vân
ông Trần Tấn Quốc
- Thư phiên tòa: bà Phạm Thùy Dương TTòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: ông
Lê Ngọc Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 483/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11
m 2024 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm s40/2024/DS-ST ngày 15 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 456/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 11
m 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Phạm Văn T, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp G, xã N,
huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn T: ông Hòa T1, sinh
m 1984; địa chỉ: Ấp F, xã N, huyện B, tỉnh Long An. (Văn bản ủy quyền ngày
04/5/2024).
- Bị đơn: Hunh Thị T2; sinh năm: 1960; địa chỉ: số D Ấp C, Q,
huyện T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: bị đơn, bà Huỳnh Thị T2.
(Ông Võ Hòa T1, bà Huỳnh Thị T2 có mặt; ông Phạm Văn T vắng mặt.)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 18/3/2024, quá trình giải quyết vụ án tại cấp
thẩm, nguyên đơn Phạm Văn T ông Hòa T1 người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Phạm Văn T cho Huỳnh Thị T2 vay tiền 06 lần với số tiền tổng
cộng 863.000.000 đồng, thời hạn vay 01 tháng, mỗi lần vay bà T đều tên
vào giấy vay tiền. Hai bên thỏa thuận lãi suất là 3% nhưng không ghi vào giấy
vay, cụ thể:
- Ngày 14/01/2023, bà T2 vay số tiền là 20.000.000 đồng.
- Ngày 18/03/2023, bà T2 vay 34.000.000 đồng.
- Ngày 02/04/2023, bà T2 vay 65.000.000 đồng.
- Ngày 17/06/2023, bà T2 vay 344.000.000 đồng.
- Ngày 08/01/2024, bà T2 vay 100.000.000 đồng.
Riêng ngày 10/08/2023, T2 vay 300.000.000 đồng, thời hạn vay là 04
tháng.
Trước đây, ông T trình y bà T2 có tr cho ông được tiền lãi
3.000.000 đồng của khoản nợ vay 20.000.000 đồng không chính c. Nay,
ông T xác định T2 không có trđược khoản tiền lãi nào của 06 lần vay nêu
trên. do ông T cho T2 vay nhiều lần mỗi lần đến hạn trả tiền thì T2
đều nêu lý do và đưa giấy tờ cho ông T xem về việc T2 nhận đặt cọc mua đất
và bán đất. Bà T2 xin hẹn lại việc trả nợ và đề nghị ông T cho bà T2 vay thêm.
Phần nội dung ghi âm bà T2 cung cấp cho Tòa án thì ông T xác nhận đúng
nội dung và lời nói của ông T nhưng ông T xác định ông T cho T2 vay bao
nhiêu tiền thì giấy ghi nhận nợ bấy nhiêu tiền. Những khoản vay của bà T2
trước khi ông T khởi kiện theo 06 giấy nợ nêu trên thì T2 đã trả xong hết cho
ông T và ông T đã trả lại các bản chính giấy nợ cho bà T2.
Đến nay, bà T2 không thực hiện lời hứa bán đất trả nợ cho ông T nên ông T
khởi kiện yêu cầu T2 phải trả tổng số tiền nợ vay 863.000.000 đồng
không yêu cầu tính lãi.
Tại phiên a thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đơn xin
xét xử vắng mặt đơn yêu cầu xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối
với khoản tiền vay 300.000.000 đồng vào ngày 10/8/2023, chỉ còn yêu cầu
T2 phải trả số tiền nợ vay tổng cộng là 563.000.000 đồng và không yêu cầu tính
lãi.
Bị đơn là bà Huỳnh Thị T2 trình bày:
xác định vay tiền của ông Phạm Văn T, nhưng không đồng ý trình
y và yêu cầu khởi kiện của ông T về các khoản nợ vay. Cụ thể:
3
- Giấy vay tiền ngày 14/01/2023, vay nhận số tiền 20.000.000
đồng, nhưng không có trả lãi 3.000.000 đồng như ông T trình bày.
- Giấy vay tiền ngày 18/3/2023, số tiền 34.000.000 đồng: đây số tiền lãi
phát sinh, nhưng ông T yêu cầu bà viết giấy nhận nợ.
- Giấy vay tiền ngày 02/4/2023, số tiền 65.000.000 đồng: đây số tiền lãi
phát sinh, nhưng ông T yêu cầu bà viết giấy nhận nợ.
- Giấy vay tiền ngày 17/6/2023, số tiền 344.000.000 đồng: đây là số tiền
gồm 140.000.000 đồng ngốc 204.000.000 đồng tiền lãi của các khoản vay
khác phát sinh sau khi thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiền lãi
gồm: khoản vay 120.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng, 2 tháng lãi là 24.000.000
đồng; khoản vay 250.000.000 đồng, lãi suất 4%/tháng, lãi 1 tháng 10.000.000
đồng; khoản vay 20.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng, lãi 1 tháng 4.000.000
đồng; khoản vay 70.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng, lãi 2 tháng là 28.000.000
đồng; khoản vay 20.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng, lãi 2 tháng 8.000.000
đồng; khoản vay 10.000.000 đồng, lãi suất 20% tháng, lãi 2 tháng 4.000.000
đồng; khoản vay 20.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng, lãi 2 tháng 8.000.000
đồng. Thực tế, hoàn toàn không nhận số tiền 344.000.000 đồng vào ngày
17/6/2023 mà chỉ nợ ông T là 140.000.000 đồng.
- Giấy vay tiền ngày 10/8/2023, số tiền 300.000.000 đồng: đây là số tiền lãi
phát sinh, nhưng ông T yêu cầu bà viết giấy nhận nợ.
- Giấy vay tiền ngày 08/01/2024 số tiền 100.000.000 đồng: đây số tiền
lãi phát sinh, tháng 12 m 2023 vì chưa thanh toán được tiền nợ ngày
10/8/2023, nên ông Phạm Văn T tính thêm tiền lãi 2 tháng (2 x 50.000.000
đồng) và yêu cầu bà viết giấy nhận nợ.
Nay, chỉ đồng ý với ông T s tiền vay gốc là 140.000.000 đồng và
20.000.000 đồng.
Vụ án đã được Tòa án tiến hành công khai chứng cứ theo quy định của
pháp luật và tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 15 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An đã xử:
“Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T về việc
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với bà Huỳnh Thị T2”.
Buộc bà Huỳnh Thị T2 có nghĩa vụ trả cho ông Phạm Văn T số tiền vay còn
nợ là 563.000.000 đồng (Năm trăm sáu mươi ba triệu đồng).
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T đối với số tiền nợ
vay 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) theo giấy vay tiền ngày 10/8/2023.
4
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu lãi nếu chậm thi hành
án, án phí, quyền, thời hạn kháng cáo, quyền nghĩa vụ thi hành án của các
đương sự.
Ngày 22/7/2024, bị đơn, bà Huỳnh Thị T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Hunh Thị T2 trình bày: không đồng ý việc ông T rút lại yêu cầu
khởi kiện đối với số tiền 300.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 10/8/2023,
đây khoản nợ lãi chứ bà không nhận tiền, nên yêu cầu a án giải quyết
triệt để, xác định stiền này không nghĩa vụ trả. Đối với c khoản vay
tiền còn lại, tkhoản vay thực chất tiền lãi nhưng ông T lại ép buộc
tên nhận nợ, nên bà không đồng ý trả, đề nghị Tòa án xem xét.
Ông Hòa T1 trình bày: ông không đồng ý toàn bộ trình bày và yêu cầu
kháng cáo của bà T2, đề nghị giữ y án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm các đương sự chấp hành đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của bị đơn đủ điều kiện để xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: bà T2 không có chứng cứ chứng minh ông T đã ép
buộc tên nhận nợ trên các giấy vay tiền; đoạn ghi âm ny 17/6/2023 do
T2 cung cấp không thể hiện nội dung ông T đã thừa nhận trong s tiền
344.000.000 đồng đang có tranh chấp là bao gồm nợ lãi nhập gốc. Do đó, không
căn cứ để chấp nhận kháng cáo của T2, đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của bà Huỳnh Thị T2 thực hiện đúng theo quy định tại Điều
271, Điều 272, Điều 273 Điều 276 của Bluật Tố tụng dân sự. Ông Hòa
T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện còn lại của ông Phạm Văn T. Huỳnh
Thị T2 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương skhông tự thỏa thuận được
về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Việc xét xvắng mặt các đương sự: ông Phạm Văn T vắng mặt, nhưng
có người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Hòa T1 có mặt. Căn cứ Điều 296 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn xét xử phúc thẩm vụ án.
[3] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp thẩmc định
vụ án “tranh chấp vhợp đồng vaythụ giải quyết đúng quy định tại
khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
5
[4] Về phạm vi t xử phúc thẩm: Huỳnh Thị T2 kháng cáo toàn bộ nội
dung bản án thẩm. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.
[5] Về việc áp dụng pháp luật về nội dung: các đương sự thống nhất xác
định giao dịch vay tiền đang tranh chấp được xác lập vào năm 2023 và năm
2024. Do đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 các văn bản hướng dẫn thi nh luật
có liên quan được áp dụng khi giải quyết vụ án.
[6] Xét kháng cáo của Huỳnh Thị T2 không đồng ý trả nợ gốc vay cho
ông Phạm Văn T số tiền là 563.000.000 đồng.
[6.1] Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T
05 giấy vay tiền ghi ngày 14/01/2023, 18/3/2023, 23/4/2023, 17/6/2023 và
08/01/2024, đã được Huỳnh Thị T2 thừa nhận tên mục người vay
tiền. Đây tình tiết, skiện không cần phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6.2] Chứng cứ chứng minh của bà T2 bản lược ghi nội dung ghi âm
bằng điện thoại cuộc nói chuyện giữa ông T và bà T2 xảy ra vào ngày 17/6/2023
(các bút lục 43-46) và 07 giấy vay tiền mà T2 đang giữ bản chính, gồm: ngày
12/11/2022, stiền 20.000.000 đồng; ngày 30/11/2022 số tiền 30.000.000 đồng;
ngày 30/12/2022 số tiền 40.000.000 đồng; ngày 15/02/2023 số tiền 20.000.000
đồng; ngày 15/02/2023 số tiền 10.000.000 đồng; ngày 10/03/2023 số tiền
120.000.000 đồng; ngày 11/03/2023 số tiền 20.000.000 đồng (các bút lục 36-
42), chứng minh rằng 05 giấy vay tiền ông T đang tranh chấp nợ lãi nhập
gốc của 07 khoản vay trên. Đánh giá các chứng cứ do bà T2 cung cấp, Hội đồng
xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[6.2.1] Ông T1 xác định các giao dịch vay tiền theo 07 giấy vay tiền do
T2 cung cấp, nhưng cho rằng các giao dịch này đã tất toán, bà T2 đã trả xong
nợ nên ông T đã trả lại bản gốc các giấy vay tiền cho T2. Hội đồng xét xử
không thấy n cứ để xác định mối liên hệ giữa số tiền vay trong các giấy
vay tiền mà bà T2 đang giữ, với 05 khoản tiền vay mà ông T đang tranh chấp.
[6.2.2] Đối với chứng cứ là đoạn ghi âm chỉ thể hiện nội dung
T2 nói: “Em nói anh, bây giờ anh ghi cho em cái hai trăm sáu chục
triệu đó tiền vốn đi, rồi cộng thêm tám mươi bốn triệu tiền lời”; ông T nói:
“Ba trăm bốn mươi bốn triệu, cái kia một trăm hai.....”. Toàn bộ đoạn hội thoại
ngày 17/6/2023 giữa T2 ông T không thhiện nội dung ông T thừa
nhận trong số tiền 344.000.000 đồng 140.000.000 đồng là tiền vay gốc và
204.000.000 đồng là tiền lãi như bà T2 trình bày.
[6.3] Tại đoạn [5], [6] đoạn [7] phần nhận định của bản án sơ thẩm đã
đánh giá toàn diện, đầy đủ các chứng cứ do các bên đương scung cấp, đối
chiếu với các quy định của pháp luật, từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
6
T, hoàn toàn căn cứ. T2 kháng cáo, nhưng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ gì mới, nên không có căn cứ để được chấp nhận.
[7] Đối với kháng cáo của Huỳnh Thị T2 vviệc bản án thẩm đình
chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T đối với s tiền n vay
300.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 10/8/2023: Tòa án cấp sơ thẩm đã
thực hiện đúng quy định tại Điều 5, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên
không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo này của bà T2.
[8] Về án phí phúc thẩm: Hunh Thị T2 được miễn do là người cao tuổi
và có đơn xin miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
2. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Huỳnh Thị T2.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 15 tháng 7
m 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: bà Hunh Thị T2 được miễn.
5. Về hướng dẫn thi hành án: trường hợp bản án, quyết định được thi hành
theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án,
người phải thi hành án quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm này hiệu lực pháp luật kể
từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Tân Trụ;
- Chi cục THADS huyện Tân Trụ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án; án văn./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Tải về
Bản án số 510/2024/DS-PT Bản án số 510/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 510/2024/DS-PT Bản án số 510/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất