Bản án số 466/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 466/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 466/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 466/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Vân là chủ hợp pháp quản lý, sử dụng đất và nhà ở tại địa chỉ số 133A, ấp 3, xã Trung An, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đối với thửa đất số 255, tờ bản đồ số 15, diện tích 434m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên Nguyễn Thị Vân số CH 964089, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS10228 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 21/4/2017. Ngày 26/12/2018, bà Vân ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thu Hà thay mặt bà Vân quản lý đất và nhà ở nêu trên trong thời gian bà Vân vắng mặt, theo hợp đồng ủy quyền công chứng số 186714, quyển số 67/UQ tại Văn phòng công chứng Việt, thành phố Hà Nội. Gần đây, những người làm của bà Vân thông báo cho bà Vân biết bà Hà đã sử dụng hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018 của bà Vân để chuyển nhượng đất và nhà ở cho ông Nguyễn Thanh Tuyền nhưng không thông báo cho bà Vân biết. Bà Vân muốn tìm hiểu rõ sự việc để giải quyết nhưng nhiều lần liên lạc với bà Hà không được. Bà Vân đã gửi đơn đến Công an thành phố Mỹ Tho để tố cáo hành vi trái pháp luật của bà Hà và ông Tuyền, sau đó cơ quan Công an đã trả hồ sơ và hướng dẫn bà Vân khởi kiện vụ việc đến Tòa án vì không có dấu hiệu hình sự. Hành vi nêu trên của bà Hà đã xâm hại nghiêm trọng quyền lợi hợp pháp của bà Vân. Nay bà Vân yêu cầu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 466 /2024/DS-PT
Ngày: 05/9/2024
V/v tranh chấp Hp đng y quyn,
hp đng chuyn nhưng QSDĐ
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Nguyễn Thanh Nhàn
Các Thẩm phán: Nguyễn Thị Ánh Phương
Nguyễn Thị Diệp Thúy
- Thư phiên tòa: Ông Tấn , Thư Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa:
Mai Thị Đào Quyên - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 20/2024/TLPT-DS ngày 03 tháng 01
năm 2024 vtranh chấp: Hợp đng y quyn và hp đng chuyn nhưng quyn s
dụng đt .
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 103A/2023/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s: 40/2024/-PT ngày 11
tháng 01 năm 2024 Thông báo mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số
20/2024/TB-TA ngày 16/7/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1940. (có mặt)
Địa chỉ: Xóm V, xã D, huyện K, tỉnh Hòa Bình ( hiện nay Tổ D, phường
K, Thành phố H, tỉnh Hòa Bình).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn
Quốc K Luật sư, Đoàn Luật sư Thành phố H.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1976
Địa chỉ: Thôn V, H, huyện C, thành phố Hà Nội. Hiện đang chấp hành
án tại Trại giam H3 Bộ C.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Văn phòng C1, Thành phố Hà Nội
Người đại diện: Ông Phạm Quang H1 Trưởng Văn phòng. (có đơn xin
vắng mặt)
Địa chỉ: S B đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội.
3.2. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3.3. Ông Quách Văn H2, sinh năm 1967 (có mặt)
Địa chỉ: Số B đường L, phường E, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Địa chỉ tạm trú: Số I, ấp C, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
3.4. Bà Trần Thị N, sinh năm 1969 (vắng mặt)
Địa chỉ: Số F khu phố T, phường T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Địa chỉ tạm trú: Số I, ấp C, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
3.5. Ngân hàng TMCP Đ.
Địa chỉ: Số C H, phường L, Quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đ (có đơn
xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số C đường L, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
3.6 . Văn phòng C2.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Minh S - Trưởng Văn phòng
(có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số A đường L, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Th V.
- Kháng nghị : Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 14/01/2020 đơn khởi kiện bổ sung ngày
6/4/2022, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị V trình bày:
Bà V chủ hợp pháp quản lý, sử dụng đất và nhà ở tại địa chỉ số A, ấp C,
xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang đối với thửa đất số 255, tờ bản đồ số 15, diện
tích 434m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu ntài
sản khác gắn liền với đất mang tên Nguyễn Thị V số CH 964089, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS10228 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày
21/4/2017.
Ngày 26/12/2018, V ủy quyền cho Nguyễn Thị Thu H thay mặt
V quản đất nhà nêu trên trong thời gian V vắng mặt, theo hợp đồng ủy
quyền công chứng số 186714, quyển số 67/UQ tại Văn phòng C1, thành phố
3
Nội. Gần đây, những người làm của V thông báo cho V biết H đã sử
dụng hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018 của bà V để chuyển nhượng đất và nhà
cho ông Nguyễn Thanh T nhưng không thông báo cho V biết. V muốn
tìm hiểu sự việc để giải quyết nhưng nhiều lần liên lạc với H không được.
Bà V đã gửi đơn đến Công an thành phố M để tố cáo hành vi trái pháp luật của bà
H và ông T, sau đó cơ quan Công an đã trả hồ sơ và hướng dẫn bà V khởi kiện vụ
việc đến Tòa án vì không dấu hiệu hình sự. Hành vi nêu trên của H đã xâm
hại nghiêm trọng quyền lợi hợp pháp của bà V. Nay bà V yêu cầu:
- Hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền giữa bà V và bà H ngày 26/12/2018,
công chứng số 186714, quyển số 67/UQ tại Văn phòng C1 V chỉ ủy quyền
cho bà H quản lý, trông coi tài sản nhưng nội dung không nắm rõ.
- Hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền giữa V do H đại diện ông
Nguyễn Thanh T ký ngày 21/8/2019, công chứng số 194704, quyển số 47/UQ tại
Văn phòng C1.
- Hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 255, tờ bản đồ số 15,
diện tích 434m
2
giữa ông T ông Quách Văn H2 ngày 11/9/2019, công
chứng số 16259, quyển s 01/2019TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C2.
V không biết việc chuyển nhượng, không nhận được tiền chuyển
nhượng từ ông H2. Hợp đồng chuyển nhượng ghi g trị chuyển nhượng
5.000.000 đồng là vi phạm về giá nên không đảm bảo quy định pháp luật.
Tại đơn khởi kiện ngày 22/02/2022, ông Thanh S1 người đại diện
theo ủy quyền của b đơn bà Nguyễn Thị Thu H trình bày:
Ngày 26/12/2018, V ủy quyền cho H thay mặt quản nhà, đất tại
số A, ấp C, T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang theo hợp đồng ủy quyền số
186714, quyển số 67/UQ tại Văn phòng C1.
Ngày 21/8/2019, bà H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp
đồng ủy quyền để thế chấp vay tiền của ông T số tiền 2.000.000.000 đồng, lãi
suất 3.000 đồng/ngày/1.000.000 đồng, bằng hình thức hợp đồng ủy quyền quyền
sử dụng đất theo hợp đồng ủy quyền số 194704, quyển số 47/UQ tại Văn phòng
C1.
Sau khi vay tiền của ông T, bà H thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả tiền lãi cho
ông T bằng hình thức trả tiền trực tiếp cho ông T chuyển tiền vào tài khoản
ngân hàng của ông T 03 lần, tổng cộng 240.000.000 đồng theo chứng từ giao
dịch ngân hàng A ngày 22/11/2019 đến ngày 14/12/2019 số tiền 240.000.000
đồng. Tuy nhiên, ông T đã tự ý chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất của V
H đã thế chấp cho ông T để vay tiền nhưng không thông báo sự việc cho H
hoặc V biết. Hành vi của ông T trái pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đối
với V bà H bản chất giao dịch giữa H ông T là thế chấp tài sản để
vay số tiền 2.000.000.000 đồng, ngoài ra không bất kỳ quan hệ giao dịch nào
khác. Nay bà H u cầu:
4
- Hủy toàn bhợp đồng ủy quyền số 194704, quyển số 47/UQ tại Văn
phòng C1 về việc ủy quyền quyền sử dụng đất giữa bà H và ông T.
- Hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất tài sản gắn
liền với đất đã giữa ông T ông Quách Văn H2 đối với toàn bộ quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 255, tờ bản đồ số 15, diện
tích 434m
2
theo giấy chứng nhận mang tên Nguyễn Thị V, số CH 964089, số vào
sổ CS10228 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp ngày 21/4/2017,
H đã thế chấp cho ông T để vay số tiền 2.000.000.000 đồng. H đồng ý trả lại
cho ông T số tiền 2.000.000.000 đồng.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Tại bản tự khai ngày 22/3/2021, ông Nguyễn Thanh T trình bày:
Ông mua nhà, đất do H trực tiếp bán cho ông tại địa chỉ số A, ấp C,
T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang thửa đất số 255, tờ bản đồ số 15, diện tích
434,0m
2
, mục đích sử dụng đất nông thôn 164,8m
2
, đất trồng cây lâu năm
269,2m
2
. Thời hạn sử dụng đất tại nông thôn: Lâu dài, đất trồng cây lâu năm:
đến tháng 10/2043. Nhà riêng lẻ: diện tích xây dựng 164,8m
2
, diện tích sàn
251,7m
2
. Hạng cấp: 3.
Việc bà V ủy quyền cho bà H bán đất cho ông là đúng quy định và ông đã
chuyển nhượng cho ông Quách Văn H2 hợp lệ với số tiền chuyển nhượng
6.800.000.000 đồng. Nay đối với yêu cầu của nguyên đơn, ông không đồng ý do
hợp đồng ủy quyền số 186714 ngày 26/12/2018 giữa V với H do Văn
phòng C1.
Đối với ý kiến của bị đơn về việc ghi nội dung chuyển tiền trả tiền lãi vay
không đúng, việc ghi nội dung chuyển tiền là của người gửi tự ghi, chứ ông
không hề biết đến. Khi lập hợp đồng ủy quyền giữa ông và bà H Văn phòng C1
thì ông trực tiếp ra Nội gặp V, H V cũng biết việc chuyển
nhượng nhà, đất này. Ông đã trả số tiền chuyển nhượng nhà, đất cho H và
H làm biên nhận nhận tiền vào ngày chuyển nhượng nhưng bản chính không
nhớ còn giữ hay không. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của V và
H.
2. Tại văn bản ngày 13/10/2022, ông Quách Văn H2 trình bày:
Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của V H. Hiện bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này ông đang giữ, không thế chấp
cho ai. Trong vụ án này, ông người thứ ba ngay tình, ông nhận chuyển nhượng
nhà, đất từ ông T, thỏa thuận giá chuyển nhượng nhà, đất 6.800.000.000 đồng.
Hợp đồng chuyển nhượng đã hoàn thành về hình thức và nội dung, cụ thể ông đã
giao đủ tiền, đã nhận nhà, đất quản đứng tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất số CS19428 ngày 03/02/2020 đối với thửa đất
số 255, TBĐ số 15, diện tích 434m
2
tại ấp C, xã T, thành phố M, Tiền Giang. Tại
thời điểm các bên tranh chấp, ông đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
5
này cho ngân hàng để vay tiền. Sau khi đáo hạn hợp đồng, ông làm thủ tục vay lại
thì không thực hiện được thủ tục đăng ký thế chấp do tài sản có tranh chấp.
3. Tại văn bản số 23/BIDV.MT ngày 01/02/2023, Ngân hàng TMCP Đ
Chi nhánh M trình bày: Căn cứ hợp đồng tín dụng được kết giữa Trần Thị
N Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh M, hiện tại khách hàng đã trả hết nnên
Ngân hàng không còn liên quan trong vụ án này. Ngân hàng xin vắng mặt trong
suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án.
4. Tại văn bản ny 17/02/2023 và ngày 07/8/2023, n phòng C2 do ông
Đặng Minh S - người đại diện theo pháp luật trình bày: Văn phòng chứng
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 16259, quyển
số 01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/9/2019 giữa bên chuyển nhượng
Nguyễn Thị V (đại diện theo ủy quyền lần 2 ông Nguyễn Thanh T) bên
nhận chuyển nhượng ông Quách Văn H2. Trình tự, thủ tục công chứng đúng
theo quy định. Tại thời điểm hợp đồng chuyển nhượng, tài sản không bị ngăn
chặn/cấm chuyển dịch, các bên giao kết hợp đồng đủ năng lực hành vi dân sự
tự nguyện tên trên hợp đồng. Về nội dung giá chuyển nhượng ghi nhận tại
Điều 2 của hợp đồng nêu trên, theo quy định pháp luật giá chuyển nhượng do các
bên tự thỏa thuận, công chứng viên không can thiệp. Do vậy, giá trên hoàn toàn
do hai bên quyết định. Do Văn phòng đã cung cấp toàn bộ hồ của việc chứng
nhận hợp đồng nêu trên không yêu cầu, đề nghị nên xin được vắng mặt
trong suốt quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
5. Tại văn bản số 17/CV-VPCC ngày 10/3/2020, Văn phòng C1 trình bày:
Ngày 26/12/2018, Văn phòng C1 đã nhận yêu cầu công chứng hợp đồng ủy
quyền của V nhận thấy hồ sơ yêu cầu công chứng đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật. vậy, Văn phòng C1 đã tiến hành công chứng hợp đồng ủy
quyền của V H ngày 26/12/2018. Việc công chứng trên thì Văn phòng
C1 đã thực hiện đúng quy định pháp luật xin được vắng mặt trong suốt quá
trình giải quyết vụ án.
Bản án sơ thẩm số 103A/2023/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các điều 116, 117, 122, 124, 131, 133, 138, 142, 423 Bộ luật
Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 188 Luật đất đai năm 2013. Điều 122 Luật Nnăm
2014. Điều 42 Luật Công chứng năm 2014.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị V
chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị Thu H về việc yêu cầu
hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền số công chứng 194704, quyền số 47/UQ giữa
6
Nguyễn Thị Thu H - đại diện cho Nguyễn Thị V ông Nguyễn Thanh T
ngày 21/8/2019 tại Văn phòng C1.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị V về việc yêu
cầu hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền số công chứng 186714, quyển số 67UQ ngày
26/12/2018 ký kết giữa bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị Thu H.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị V về việc yêu
cầu hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất số công chứng 16259, quyển số 01 ngày 11/9/2019 giữa ông Nguyễn
Thanh T ông Quách Văn H2 tại Văn phòng C2 kiến nghị thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Quách
Văn H2.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản t của bà Nguyễn Thị Thu H vviệc
yêu cầu hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất số công chứng 16259, quyển số 01 ngày 11/9/2019 giữa ông Nguyễn
Thanh T và ông Quách Văn H2 tại Văn phòng C2.
- Tuyên bố hợp đồng y quyền số công chứng 186714, quyển số 67UQ
ngày 26/12/2018 kết giữa Nguyễn Thị V Nguyễn Thị Thu H tại Văn
phòng C1 có hiệu lực pháp luật.
- Tuyên bố hợp đồng ủy quyền số công chứng 194704, quyền số 47/UQ
ngày 21/8/2019 kết giữa Nguyễn Thị Thu H đại diện cho Nguyễn Thị
V và ông Nguyễn Thanh T tại Văn phòng C1 bị vô hiệu.
- Bà Nguyễn Thị Thu H có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị V giá
trị nhà quyền sử dụng đất thuộc thửa số 255, TBĐ số 15, diện tích 434m
2
; căn
nhà diện tích 164,8m
2
tại số A, ấp C, T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang
8.905.943.000 đồng.
Kể từ ngày V đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà H chậm thi hành thì
hàng tháng phải chịu tiền lãi chậm trả theo khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật
Dân sự tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất số công chứng 16259, quyển số 01 ngày 11/9/2019 kết giữa ông
Nguyễn Thanh T và ông Quách Văn H2 tại Văn phòng C2 có hiệu lực pháp luật.
5. Về chí phí tố tụng: Áp dụng Điều 157, Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015.
Nguyễn Thị Thu H nghĩa vụ hoàn trả lại cho Nguyễn Thị V
50.000.000 đồng chi phí thu thập chứng cứ, xem xét thẩm định, thẩm định giá.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí quyền kháng
cáo các đương sự.
Ngày 15/9/2023, Nguyễn Thị V kháng cáo toàn bộ bản án thẩm. Đề
nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của V. Hủy hợp đồng ủy quyền, hủy hợp
đồng chuyển nhượng đất và buộc giao trả nhà đất lại cho bà V.
Ngày 21/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho kháng nghị đề
nghị hủy toàn bộ Bản án thẩm s103A/2023/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Lý do Tòa án cấp
thẩm Tuyên bố hợp đồng ủy quyền số công chứng 194704, quyền số 47/UQ
7
ngày 21/8/2019 kết giữa Nguyễn Thị Thu H đại diện cho Nguyễn Thị
V ông Nguyễn Thanh T tại Văn phòng C1 bị hiệu nhưng không giải quyết
hậu quả của hợp đồng là chưa giải quyết triệt để vụ án; Tòa án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền giữa V với H chưa đúng quy
định Điều 423 Bộ luật dân sự.
* Ti phiên ta phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Bị đơn Nguyễn Thị Thu H vắng mặt, không có kháng cáo.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thanh T, ông Quách
Văn H2 không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn kháng nghị của
Viện kiểm sát, yêu cầu cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm;
- Các đương sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
và yêu cầu Tòa án công nhận.
* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu tranh
luận:
- Ông đồng ý với kháng nghị của Viện Kiểm sát;
- Về kháng cáo của bà Nguyễn Thị V ông ý kiến tranh luận như sau:
+ Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát;
+ Về nội dung: Tòa án cấp thẩm xác định hợp đồng ủy quyền giữa
Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H đại diện ông Nguyễn Thanh T
ngày 21/8/2019 với nội dung là bà H ủy quyền lại cho ông T là vô hiệu do giả tạo
nhưng lại không xác định giả tạo nhằm che dấu giao dịch nào giữa H với ông
T để công nhận hợp đồng bị che dấu hiệu lực pháp luật hay hiệu không
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên; Quá trình thực hiện hợp đồng ủy quyền
của bà V, bà H đã vi phạm nghĩa vụ của bên nhận ủy quyền, không thông báo cho
V biết công việc đã thực hiện. Nội dung ủy quyền V cho H ủy quyền
lại nhưng khi ủy quyền phải đúng quy định pháp luật thông báo lại cho V
biết nhưng H ủy quyền lại không thông báo cho V biết. Do vậy V
yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền căn cứ; Do hợp đồng ủy quyền giữa
Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H đại diện ông Nguyễn Thanh T ký
ngày 21/8/2019 bị hiệu nên ông T không quyền đại diện V chuyển
nhượng đất. Vì vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Thanh T ông Quách Văn H2 cũng hiệu. Ông H2 nhận chuyển
nhượng đất từ ông T với cách đại diện ủy quyền cho V nên ông H2 không
thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình theo Điều 133 Bộ Luật dân sự.
Tnhững lý do trên, Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của bà V: Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018 ký kết giữa bà Nguyễn Thị V
Nguyễn Thị Thu H; hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Thị V do
Nguyễn Thị Thu H đại diện ông Nguyễn Thanh T ngày 21/8/2019; hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày
8
11/9/2019 được ký kết giữa nà Nguyễn Thị V do ông Nguyễn T1 đại diện và ông
Quách Văn H2; BuộcH, ông T, ông H2 giao trả lại thửa đất và nhà cho bà V.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa phát biểu ý
kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, T phiên tòa những người tham gia tố tụng
kể từ khi thụ ván cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân
thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án, sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu chứng cứ
trong hồ sơ vụ án, ý kiến tranh luận tại phiên tòa (có bài phát biểu), Kiểm sát viên
ý kiến như sau: Giữ nguyên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Mỹ Tho. Đnghị Hội đồng xét xử Hủy bản án dân sthẩm của Tòa án nhân
dân thành phố Mỹ Tho. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh T
thừa nhận toàn bộ số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất 6.800.000.000 đồng
ông đã nhận của ông H2 nhưng không giao lại cho V. Do đó, đề nghị Hội
đồng xét xử nếu không chấp nhận đề nghị hủy bản án dân sự thẩm thì phải
công nhận cả ba hợp đồng đều hiệu lực pháp luật xem xét trách nhiệm liên
đới cùng bà H hoàn trả tiền cho bà V.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về ttụng: Bị đơn Nguyễn Thị Thu H Những người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đề nghị a án xét xử
vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết
định xét xử vắng mặt các đương sự.
Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị V nộp trong thời hạn và hợp lệ, đúng với
quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét
giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan h pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, Tòa án cấp thẩm
xác định quan hệ tranh chấp:“ Hợp đồng vay tài sản” phù hợp quy định tại
khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bà nguyễn Thị V1, nhận thấy:
Xét các bên đương sự đều thừa nhận ngày 26/12/2018, Nguyễn Thị V
hợp đồng ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thu H thay mặt bà V quản lý đất và nhà ở
tại địa chỉ số A, ấp C, T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang đối với thửa đất số
255, tờ bản đồ số 15, diện tích 434m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất mang tên Nguyễn Thị V.
H được toàn quyền định đoạt thửa đất, được ủy quyền lại cho người thứ ba; Ngày
21/8/2019, H hợp đồng ủy quyền lại cho ông Nguyễn Thanh T được toàn
9
quyền định đoạt thửa đất nêu trên; Ngày 11/9/2019, ông Nguyễn Thanh T đại
diện cho Nguyễn Thị V hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 255, tờ
bản đồ số 15, diện tích 434m
2
cho ông Quách Văn H2. Ông T giao toàn bộ nhà và
đất cho ông H2 quản lý, sử dụng nhận tiền chuyển nhượng QSDĐ. Ông H2
đăng ký sang tên và đứng tên QSDĐ. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử xác định các tình tiết nêu trên là đúng sự thật.
Xét chứng cứ do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai cung cấp, xác định
thời điểm ngày 26/12/2018, bà Nguyễn Thị V là người sử dụng hợp pháp thửa đất
số 255, Tsố 15, diện tích 434m
2
nhà trên đất diện tích 164,8m
2
tại sA,
ấp C, T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS10228 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh T cấp ngày 21/4/2017 (BL 336). Do vậy V đầy
đủ các quyền của người sử dụng đất theo quy định Luật đất đai.
[3.1]. Xét hợp đồng ủy quyền số công chứng 186714, quyển số 67UQ ngày
26/12/2018 kết giữa Nguyễn Thị V Nguyễn Thị Thu H với nội dung
V đồng ý ủy quyền cho H thực hiện các công việc đối với nhà, đất thuộc
thửa số 255, TBĐ số 15 như sau: 1. Được quản lý, sử dụng bất động sản nêu
trên;….. 4. Được toàn quyền chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê, cho mượn,
thế chấp bất động sản; thế chấp để bảo lãnh cho bên thứ ba vay vốn Ngân hàng
bằng bất động sản nói trên khi đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Giá cả,
phương thức thanh toán các điều kiện khác do bên B toàn quyền quyết định.
Bên B được phép thay mặt bên A nhận các khoản tiền từ các giao dịch trong
phạm vi ủy quyền; 5. Được phép ủy quyền lại cho người thứ ba theo quy định
pháp luật. Khi thực hiện các công việc nêu trên, bên A đồng ý không thắc mắc
hay khiếu nại gì để bên B được toàn quyền thay mặt và nhân danh bên A làm việc
với quan Nhà nước có thẩm quyền các bên liên quan, làm các thủ tục pháp
ký các giấy tờ cần thiết có liên quan đến bất động sản ghi trong Giấy tờ bất
động sản của bên A tại Điều 1 của hợp đồng này theo quy định pháp luật nộp
các khoản lệ phí, phí, thuế nếu có phát sinh từ công việc ủy quyền nêu trên”. Xét
thấy, thời điểm kết hợp đồng ủy quyền các bên đủ năng lực pháp luật
năng lực hành vi dân sự; tham gia giao dịch hoàn toàn tnguyện; mục đích
nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
hình thức giao dịch phù hợp quy định pháp luật. Căn cứ vào Điều 117, Điều 562
Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 42 Luật Công chứng 2014 thì hợp đồng y quyền
ngày 26/12/2018 giữa Nguyễn Thị V Nguyễn Thị Thu H tuân thủ đúng
quy định pháp luật nên có hiệu lực pháp luật. Bà V yêu cầu hủy toàn bộ hợp đồng
ủy quyền giữa V H ngày 26/12/2018 nhưng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh khi ký kết hợp đồng ủy quyền vi phạm các điều kiện
hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc thuộc các trường hợp hủy bỏ hợp đồng theo
quy định tại Điều 117, 423, 424, 425, 426 Bộ luật Dân sự. Do đó, Hội đồng xét
xử thẩm không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018
của bà Nguyễn Thị V là đúng quy định pháp luật.
10
[3.2]. Xét hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Thị V do bà Nguyễn Thị Thu
H đại diện và ông Nguyễn Thanh T ký ngày 21/8/2019 với nội dung là bà H đồng
ý ủy quyền cho ông T thực hiện các công việc sau: “1. Được quản lý, sử dụng bất
động sản nêu trên, …, 4. Được toàn quyền chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho
thuê, cho mượn, thế chấp bất động sản; thế chấp để bảo lãnh cho n thứ ba vay
vốn Ngân hàng bằng bất động sản nói trên khi đủ điều kiện theo quy định pháp
luật. Giá cả, phương thức thanh toán các điều kiện khác do bên B toàn quyền
quyết định. Bên B được phép thay mặt bên A nhận các khoản tiền tcác giao
dịch trong phạm vi ủy quyền…”. Xét thấy, thời điểm kết hợp đồng ủy quyền
các bên đủ năng lực pháp luật năng lực hành vi dân sự; tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện; mục đích nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức giao dịch phù hợp quy định pháp
luật. Căn cứ vào Điều 117, Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015 Điều 42 Luật Công
chứng 2014 thì hợp đồng ủy quyền giữa bà Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu
H đại diện ông Nguyễn Thanh T ký ngày 21/8/2019 tuân thủ đúng quy định
pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.
Xét ý kiến V cho rằng V chỉ ủy quyền cho H trông coi, quản tài
sản khi H làm hợp đồng ủy quyền cho ông T thì không thông báo việc ủy
quyền này cho V biết nên đã vi phạm thỏa thuận của hai bên nên yêu cầu
hủy hợp đồng ủy quyền ngày 21/8/2019 giữa H ông T. Xét thấy, theo hợp
đồng ủy quyền ngày 26/12/2018, V H thống nhất thỏa thuận H
Được phép ủy quyền lại cho người thứ ba theo quy định pháp luật. Khi thực hiện
các công việc nêu trên, bên A (bà V) đồng ý không thắc mắc hay khiếu nại gì
để bên B (bà H) được toàn quyền thay mặt nhân danh bên A làm việc với
quan Nhà nước thẩm quyền các bên liên quan, làm các thủ tục pháp
ký các giấy tờ cần thiết có liên quan đến bất động sản ghi trong Giấy tờ bất động
sản của bên A tại Điều 1 của hợp đồng này theo quy định pháp luật nộp các
khoản lệ phí, phí, thuế nếu phát sinh từ công việc ủy quyền nêu trên”. Đối
chiếu với quy định tại Điều 564 Bộ luật Dân sự thì bên được y quyền được ủy
quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây: a) sự đồng ý của bên ủy
quyềnthì thỏa thuận nêu trên của V bà H đã thể hiện bao hàm sự đồng ý
của bà V đối với việc ủy quyền lại của bà H cho ông T. Do vậy, yêu cầu của bà V
là không có căn cứ như đã phân tích trên.
Xét ý kiến yêu cầu phản tố của H cho rằng hợp đồng y quyền ngày
21/8/2019 giữa Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H đại diện ông
Nguyễn Thanh T giả tạo yêu cầu hủy hợp đồng. sử dụng giấy chứng
nhận quyền sdụng đất của V hợp đồng ủy quyền của V ủy quyền cho
H ngày 26/12/2018 để thế chấp vay số tiền 2.000.000.000 đồng của ông T với
lãi suất 3.000 đồng/ngày/1.000.000 đồng bằng hình thức hợp đồng ủy quyền số
công chứng 194704, quyển số 47/UQ ngày 21/8/2019. H đã trả tiền lãi cho
ông T tổng cộng 240.000.000 đồng. Xét thấy H cung cấp 3 chứng từ giao
dịch ngày 14/12/2019 và ngày 22/11/2019 (BL 204, 205, 206), tuy nhiên chỉ có 1
chứng từ giao dịch ngày 22/11/2019 thể hiện người gửi Nguyễn Thị Thu H
với số tiền giao dịch 180.000.000 đồng nhưng thể hiện nội dung chuyển tiền do
11
bà H tự ghi. Ông T cũng không thừa nhận có quan hệ vay mượn số tiền
2.000.000.000 đồng với H cho rằng số tiền H chuyển cho ông giao
dịch dân sự khác không phải trả tiền lãi. Bà H không cung cấp được chứng cứ để
chứng minh hợp đồng ủy quyền giả tạo. Trong trường hợp này hợp đồng ủy
quyền ngày 21/8/2019 giữa Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H đại diện
ông Nguyễn Thanh T giao dịch song hành với hợp đồng vay tài sản hoặc
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm mục đích người đại diện
hợp pháp để thực hiện các giao dịch thay cho V, không phải hợp đồng giả
tạo nhằm để che đậy giao dịch khác. Do vậy, ý kiến và yêu cầu của bà H là không
căn cứ chấp nhận như đã phân tích trên. Tòa án cấp thẩm xác định hợp
đồng ủy quyền ngày 21/8/2019 giữa Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H
đại diện ông Nguyễn Thanh T bị hiệu do giả tạo không phù hợp như đã
phân tích trên.
[3.3]. Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất có số công chứng 16259, quyển số 01 ngày 11/9/2019 được ký kết giữa nà
Nguyễn Thị V do ông Nguyễn T1 đại diện ông Quách Văn H2 tại Văn phòng
C2, xét thấy:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất ngày 11/9/2019 được giao kết trên
sở hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018 giữa Nguyễn Thị V Nguyễn
Thị Thu H hợp đồng ủy quyền ngày 21/8/2019 giữa H ông T. Theo đó,
ông T đại diện cho V chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất thuộc thửa số 255, TBĐ
số 15 cho ông H2 với giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng chuyển nhượng ghi
5.000.000 đồng. Giá thực tế hai bên thỏa thuận 6.800.000.000đồng . Xét các
bên giao kết hợp đồng có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; tham
gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; mục đích nội dung giao dịch không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội; hình thức giao dịch phù hợp
quy định pháp luật; quá trình thực hiện hợp đồng ông T đã nhận đủ số tiền
chuyển nhượng đã bàn giao nhà, đất cho ông H2 trực tiếp quản lý, sử dụng từ
năm 2019 đến nay và ông H2 đã đăng khai được Sở Tài nguyên i
trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
số CS19428 ngày 03/02/2020. Căn cứ Điều 117, 500, 501, 502, 503 Bộ Luật dân
sự; Điều 188 Luật đất đai, Hội đồng xét xử xác định hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số công chứng 16259, quyển số
01 ngày 11/9/2019 được ký kết giữa Nguyễn Thị V do ông Nguyễn T1 đại
diện và ông Quách Văn H2 có hiệu lực pháp luật.
Xét ý kiến của V H cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất ngày 11/9/2019 được ký kết giữa Nguyễn
Thị V do ông Nguyễn T1 đại diện ông Quách Văn H2 bị hiệu do giả cách
về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm mục đích trốn thuế nên yêu cầu
hủy hợp đồng không phù hợp. Bởi lẽ, mặc giá ghi trong hợp đồng không
đúng thực tế nhưng khi thực hiện nghĩa vụ tài chính để làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận, quan thuế đã xác định lại gtrị nhà, đất nêu trên đnộp thuế
nhà 1.232.096.670 đồng + đất 1.614.715.470 đồng = 2.846.812.140 đồng ông
12
H2 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế theo giá trị do quan thuế xác định.
Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà V và bà H.
Quá trình giải quyết vụ án, bà H cho rằng có vay của ông T số tiền
2.000.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/ngày/1.000.000 đồng. Ông T trình
bày ông không quan hệ vay mượn tiền với bà H. Ông chỉ có thỏa thuận với
H chuyển nhượng nhà, đất của của V với giá 6.000.000.000 đồng; Ông T đã
giao đủ tiền cho H. Hai bên không thống nhất với nhau về nội dung giao dịch.
Xét thấy bà H, ông T không cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh giao dịch dân
sự hai bên xác lập hợp đồng vay tiền theo trình bày của H (các tài liệu về
việc vay tiền để chứng minh quan hvay tiền) hay hợp đồng chuyển nhượng nhà
quyền sử dụng đất theo trình bày của ông T (các tài liệu về việc chuyển
nhượng nhà, đất để chứng minh quan hệ chuyển nhượng nhà, đất). Đồng thời,
H ông T không khởi kiện tranh chấp các giao dịch này. Do đó, Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét phù hợp quy định pháp luật. H ông T tranh
chấp thì có quyền khởi kiện thành v án dân sự khác theo quy định pháp luật.
[3.4]. Xét yêu cầu của V về việc đòi H, ông T, ông H2 giao trả lại
thửa đất và nhà cho bà, xét thấy:
Xét hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Thị V với bà Nguyễn Thị Thu H
ngày 26/11/2018; hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị
Thu H đại diện và ông Nguyễn Thanh T ngày 21/8/2019; hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11/9/2019 được ký kết
giữa bà Nguyễn Thị V do ông Nguyễn T1 đại diện và ông Quách Văn H2 có hiệu
lực pháp luật. Nhà, đất này đã được ông T chuyển nhượng hợp pháp cho ông H2
ông H2 đã được công nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà hợp
pháp. Do vậy, không căn cứ buộc ông H2 nghĩa vụ hoàn trả lại cho V
nhà, đất nêu trên. Tuy nhiên, theo các hợp đồng ủy quyền ngày 26/12/2018 ký kết
giữa Nguyễn Thị V Nguyễn Thị Thu H; hợp đồng ủy quyền giữa
Nguyễn Thị V do Nguyễn Thị Thu H đại diện ông Nguyễn Thanh T
ngày 21/8/2019 đều thể hiện nội dung “khi thực hiện công việc y quyền bên
nhận ủy quyền phải báo lại cho bên ủy quyền biết…., nếu chuyển nhượng nhà
đất thì được quyền đại diện nhận tiền” nhưng theo quy định Điều 565 Bộ Luật
dân sự quy định nghĩa vụ của bên được ủy quyền phải “giao trả lại cho bên y
quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được khi thực hiện công việc ủy quyền
theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật; bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ”. V cho rằng sau khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông H2, H và ông T hoàn toàn không giao lại tiền chuyển nhượng cho
bà V.
Xét mức thiệt hại: giá trị quyền sử dụng đất công trình trên đất của V
theo chứng thư thẩm định giá ngày 26/12/2022 của công ty TNHH M1 thì giá trị
đất 7.927.017.000 đồng, giá trị công trình trên đất 1.396.820.736 đồng, tổng cộng
là 9.323.838.000 đồng (Trong đó ông H2 sau khi nhận nhà, đất thì ông H2 đã đầu
nhà để xe diện tích 158,40m
2
trị giá 343.728.000 đồng; mái che, diện tích
76,90m
2
trị giá 44.217.500 đồng; tường rào diện tích 72,34m
2
trị giá 29.948.760
13
đồng. Tổng cộng 417.894.260 đồng). Như vậy, giá trị tài sản của V bị thiệt
hại là: 9.323.838.000 đồng giá trị nhà, đất tranh chấp - 417.894.260 đồng giá trị
công trình ông H2 đã đầu = 8.905.943.000 đồng. Do đó, H ông T
nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho V số tiền: 8.905.943.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh T thừa nhận toàn bộ số tiền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 6.800.000.000 đồng ông đã nhận của ông H2
nhưng không giao lại cho bà V giao cho H (đây tình tiết mới phát
sinh tại phiên tòa phúc thẩm). Như vậy, H người được V ủy quyền ủy
quyền lại cho ông T ký hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất, ông T trực tiếp nhận
tiền của ông H2 nhưng không giao lại số tiền chuyển nhượng đất cho bà V mà chỉ
thông qua bà H là vi phạm nghĩa vụ của bên được ủy quyền, gây thiệt hại cho
V nên phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc
H hoàn trả số tiền giá trị nhà đt 8.905.943.000 đồng cho bà V không xem
xét trách nhiệm của ông T là không phù hợp.
Từ những phân tích trên, yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Thị V căn
cứ chấp nhận một phần. Hội đồng xét xử sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm.
[4] Xét Viện kiểm sát nhân dân thành phố M kháng nghị đề nghị hủy toàn bộ
Bản án thẩm số 103A/2023/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. do Tòa án cấp sơ thẩm Tuyên
bố hợp đồng ủy quyền số công chứng 194704, quyền số 47/UQ ngày 21/8/2019
kết giữa Nguyễn Thị Thu H đại diện cho Nguyễn Thị V ông
Nguyễn Thanh T tại Văn phòng C1 bị vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả
của hợp đồng chưa giải quyết triệt để ván; Tòa án cấp thẩm không chấp
nhận yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền giữa V với bà H chưa đúng quy định
Điều 423 Bộ luật dân sự.
Xét thấy kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là không
phù hợp với phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[5] Ý kiến của đại din Vin kim sát phát biểu tại phiên tòa một phần
phù hp vi nhận định nêu trên nên Hội đồng xét x chp nhn một phần.
[6] V án phí: Do sửa bản án DSST nên các đương sự không phải chịu án
phí DSPT theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 26, Điều 148, Điều 289, Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Xử: Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ
Tho; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của của bà Nguyễn Thị V.
Sửa một phần Bản án thẩm số 103A/2023/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
14
Căn cứ vào khoản 1 Điều 35, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227, Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các điều 116, 117, 122, 124, 131, 133, 138, 142, và Điều 565 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 188 Luật đất đai năm 2013. Điều 122 Luật Nhà năm
2014. Điều 42 Luật Công chứng năm 2014.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị V về việc yêu
cầu:
- Hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền số công chứng 186714, quyển số 67UQ
ngày 26/12/2018 ký kết giữa bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị Thu H;
- Hủy hợp đồng ủy quyền scông chứng 194704, quyền s47/UQ giữa
Nguyễn Thị Thu H - đại diện cho Nguyễn Thị V ông Nguyễn Thanh T
ngày 21/8/2019 tại Văn phòng C1;
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất số công chứng 16259, quyển số 01 ngày 11/9/2019 giữa ông Nguyễn Thanh T
ông Quách Văn H2 tại Văn phòng C2 kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Quách Văn H2.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị Thu H về việc
yêu cầu hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền số công chứng 194704, quyền số 47/UQ
giữa Nguyễn Thị Thu H - đại diện cho Nguyễn Thị V ông Nguyễn
Thanh T ngày 21/8/2019 tại Văn phòng C1; hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số công chứng 16259, quyển số 01 ngày
11/9/2019 giữa ông Nguyễn Thanh T và ông Quách Văn H2 tại Văn phòng C2
kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với
đất cấp cho ông Quách Văn H2.
3. Buộc Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Nguyễn Thanh T có nghĩa vụ hoàn trả
lại cho Nguyễn Thị V giá trị nhà quyền sử dụng đất thuộc thửa số 255,
TBĐ số 15, diện tích 434m
2
; căn nhà diện tích 164,8m
2
tại số A, ấp C, T,
thành phố M, tỉnh Tiền Giang 8.905.943.000 đồng.Thực hiện khi án hiệu
lực pháp luật.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm thi hành thì hàng tháng phải chịu tiền lãi chậm trả theo
khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng số tiền thời gian chậm
thi hành án.
4. Về chí phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thu H nghĩa vụ hoàn trả lại cho
Nguyễn Thị V 50.000.000 đồng chi phí thu thập chứng cứ, xem xét thẩm định,
thẩm định giá.
15
5. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyễn Thị V được miễn nộp án phí dân sự thẩm án phí dân sự
phúc thẩm.
- Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000đồng án phí DSST đối với yêu
cầu phản tố, được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí thẩm
đã nộp theo biên lai thu số 0004904 ngày 11/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố MTho.
- Nguyễn Thị Thu H ông Nguyễn Thanh T phải chịu 116.905.000
đồng án phí DSST.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Lut
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6, 7 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND thành phố M;
- Chi cục THADS thành phố M;
- Các đương sự;
- Cổng thông tin điện tử:
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Nn
Tải về
Bản án số 466/2024/DS-PT Bản án số 466/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 466/2024/DS-PT Bản án số 466/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất