Bản án số 417/2024/DS-ST ngày 23/07/2024 của TAND Quận 12, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 417/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 417/2024/DS-ST ngày 23/07/2024 của TAND Quận 12, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 12 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 417/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Xét xử về tranh chấp quyền về sở hữu tài sản của ông Nguyễn Quốc H và bà Lê Thị T1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
______________________________
Bản án số: 417/2024/DS- ST.
Ngày : 23/ 7/ 2024.
V/v:“Tranh chấp quyền về sở hữu tài
sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
__________________________________
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Minh Trí
Các Hội thẩm nhân dân:
1/ Ông Võ Văn Tốt
2/ Ông Nguyễn Văn Quản
Thư ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thống - cán bộ Tòa án
nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 12 tham gia phiên tòa: Trương
Thị Huyền- Kiểm sát viên.
Ngày 23/7/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Tp . Hồ Chí Minh, xét
xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 178/2023/TLST-DS 14 tháng 4 năm
2023 về việc
Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 670/2024/QĐXXST-DS ngày 04/6/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số
835/2024/QĐST-DS ngày 27/6/2024 giữa:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1962;
Địa chỉ thường trú: số E N, phường T, quận T, Tp ..
Đại diện ủy quyền: Ông Nguyễn Sỹ T ( Có mặt);
Địa chỉ: số G đường số A, KDC N, phường T, Quận G, Tp ..
- Bị đơn: Lê Thị T1, sinh năm 1977;
Địa chỉ thường trú: B3T2 Chung cư H P, Phường A, quận T, Tp ..
Nơi cư trú hiện nay: G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp ..
Đại diện ủy quyền: Ông Vũ Quốc H1, sinh năm 1969( Vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lê Thị T1- Luật sư Đào Duy
C thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H ( Có mặt);
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1./ Ông Ninh Văn T2, sinh năm 1970 Âu Dương Mỹ P, sinh năm 1976
( Vắng mặt);
Địa chỉ: 1 T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2./ Đỗ Thị Mỹ D, sinh năm 1998; Đỗ Thị Thảo V, sinh năm 2006;
2
Trẻ Đỗ Nguyễn Huy M, sinh ngày 12/9/2021 ( Người giám hộ của trẻ Đỗ Nguyễn
Huy M là bà Đỗ Thị Mỹ D).
Đia chỉ: G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp ..
Đại diện ủy quyền của bà D, bà V là ông Vũ Quốc H1 ( Vắng mặt);
3./ Công ty TNHH T4 Cường Thịnh
Địa chỉ: 7 P, phường B, quận B, Tp ..
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn C1 ( Có đơn xin xét xử vắng mặt);
4./ Ông Đoàn Văn C2, sinh năm 1984 ( Có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ thường trú: Thôn M, xã C, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.
5./ Bà Trần Thị Mộng T3, sinh năm 1972; ( Có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: E H, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG CỦA VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện ngày 09/3/2023, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa
nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H ( Đại diện ủy quyền ông Nguyễn Sỹ T) trình bày:
Trước đây, ông Ninh Văn T2 Âu Dương Mỹ P, chủ sở hữu nhà đất
tại địa chỉ: Một phần nhà số C, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp . ( nay là địa chỉ
G P, phường T, Quận A, Tp . ) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất sCH04774 do Ủy ban nhân dân Quận
A cấp ngày 02/5/2018 có chuyển nhượng cho ông H phần nhà đất nêu trên.
Thị T1 người quen thân thiết của ông H, vì quá tin tưởng bà T1 nên
ông H nhờ bà T1 đứng tên ký kết trên hợp đồng chuyển nhượng với bên ông T2, bà
P cập nhật sang tên T1 trên Giấy chứng nhận. Bà T1 ông H thỏa thuận
với nhau, sau này khi nào ông H cần bà sẽ sang tên trả lại nhà đất trên cho ông H.
Sau khi nhờ bà T1 đứng tên giùm, do T1 đứng tên trên Giấy chứng nhận
nhà đất n ông nhờ T1 đứng ra hợp đồng thi ng số 05/HĐ/2022 ngày
09/11/2022 với Công ty TNHH T4 để sửa chữa căn nhà tại địa chỉ số G P, Khu
phố C, phường T, Quận A, Tp .. Ông H người trực tiếp đứng ra thanh toán toàn
bộ chi phí sửa chữa căn nhà này, chỉ đợt thanh toán cuối cùng thì ông đưa
tiền cho ĐThị Mỹ D con của T1 để chuyển tiền thanh toán cho Công ty
TNHH T4.
Hiện tại, do nhu cầu nên ông H đề nghị T1 thực hiện lời hứa sang tên
trả lại nhà đất nêu trên thì T1 không thực hiện lời hứa sang tên trả lại nhà đất
nêu trên cho ông H.
Đến nay, mặc hai bên đã thương lượng tự hòa giải nhưng không thể
giải quyết tranh chấp trên. Do vậy, nay ông H làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án
nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tranh chấp nhà đất giữa ông
H với bà Lê Thị T1 như sau:
3
- Công nhận nhà đất tại địa chỉ một phần nhà số C, Khu phố C, phường T,
Quận A, Tp . ( nay là địa chỉ G P, phường T, Quận A, Tp . ) theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH04774
do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 thuộc quyền sở hữu của ông H.
- Buộc Thị T1 những người đang sinh sống trên nhà đất Đỗ Thị
Mỹ D, Đỗ Thị Thảo V; Cháu Đỗ Nguyễn Huy M ( Người giám hộ Đỗ Thị
Mỹ D) là phải giao trả lại nhà đất tại địa chỉ nêu trên cho ông H theo đúng quy định
pháp luật.
* Bị đơn bà Lê Thị T1 ( Đại diện ủy quyền ông Vũ Quốc H1) trình bày:
T1 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Quốc H, toàn bsố tiền mua bán nhà ở, tiền cải tạo, sửa chữa, các chi
phí khác đều do phía bà T1 dành dụm, vay mượn để thanh toán cho bên bán và bên
thi công cải tạo, sửa chữa.
Đối với ý kiến phía nguyên đơn cho rằng hai bên đã thương lượng cũng
không chính xác, vì từ lúc bị đơn dọn vào ở căn nhà cho đến nay thì không có tranh
chấp giữa hai bên, gia đình bà T1 cũng không nhận được bất cứ giấy tờ hay thông
báo gì từ phía Ủy ban nhân dân phường T5 nên đề nghị hòa giải lại.
Nay T1 thiện chí hòa giải với ông H nên nếu ông H muốn hòa giải thì
T1 sẵn sàng đồng ý.
Biên bản hoà giải tại UBND phường T, Quận A vào các ngày 13/01/2023 (
lần 1); 19/01/2023 ( lần 02) Thông báo số 20/TB-UBND ngày 30/01/2023 của
Ủy ban nhân dân phường T, Quận A về việc giải quyết đơn tranh chấp của ông
Nguyễn Quốc H tiến nh khi T1 không nhận được bất kỳ tmời, thông báo
nào, không sự tham gia của bà T1 là không khách quan, ảnh hưởng đến quyền
lợi ích hợp pháp của T1. Đề nghị Toà án xem xét tính khách quan, hợp pháp
trong nội dung của đơn khởi kiện ông Nguyễn Quốc H ai, sao đã tiến hành
buổi hop hoà giải tại cơ sở không theo đúng trình tự, quy định của pháp luật để đơn
kiện của ông H được Toà án thụ lý. Ngoài ra, không coi các biên bản này chứng
cứ đối với các ý kiến của ông H trong các biên bản. Biên bản cuộc họp hoà giải
tại Ủy ban nhân dân phường T, Quận A vào các ngày 15/9/2023 (lần 1) và
28/9/2023 (lần 2) về bản chất chhợp thức hoá cho việc thụ đơn khởi kiện đã
không phù hợp ngày từ thời điểm nộp đơn cho Toà.
Ông H1 yêu cầu Toà án đình chỉ giải quyết vụ án do việc khởi kiện với đơn
khởi kiện đề ngày 09/3/2023 các biên bản hoà giải không thành được thực hiện
sự gian dối, không đúng quy định của pháp luật vhoà giải tại sở nguyên
đơn có 02 lần được triệu tập hợp lệ mà không đến tham dự, không lý do.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Mỹ D trình bày:
Đỗ Nguyễn Huy M, sinh ngày 12/9/2021 con của bà ông Nguyễn
4
Quốc H. Cháu M do bà chămc từ nhỏ cho đến nay. Mẹ là người mua nhà của
ông T2, P. Sau khi mua xong đã sửa chữa lại đưa gia đình vào từ đó cho
đến nay. Tiền mua nhà của mẹ nên ông H kiện mẹ là không căn cứ,
không có đạo lý cũng không có trách nhiệm. Bà yêu cầu Tòa án bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc nguyên đơn trả lại giấy tờ nhà đất bản chính
cho mẹ bà.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Thảo V trình bày:
Mẹ bà là người mua nhà của ông T2, bà P. Sau khi mua xong đã sửa chữa lại
đưa gia đình vào từ đó cho đến nay. Tiền mua nhà của mẹ nên ông H
kiện mẹ không căn cứ, không đạo cũng không trách nhiệm. Bà
yêu cầu Tòa án c toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc nguyên đơn
trả lại giấy tờ nhà đất bản chính cho mẹ bà.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH T4 ( Đại diện theo
pháp luật ông Nguyễn C1) trình bày: Vào ngày 09/11/2022 Công ty TNHH T4
ký hợp đồng thi ng số 05/HĐ/2022 với bà Lê Thị T1 để sửa chữa căn nhà tại địa
chỉ số G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp . với tổng giá trị hợp đồng
230.200.000đ. Nhưng sau khi thi công xong thì phát sinh thêm 22.450.000đ, nên
tổng giá trị hợp đồng là 252.650.000đ.
Ông C1 chỉ biết T1 khi hợp đồng thi công, còn tất cả mọi việc từ lúc
ban đầu liên hệ với ông để hợp đồng, đứng ra giám sát, thiết kế thi công mua
sắm vật thanh toán tiền sửa chữa nhà đều do ông H thực hiện hết, ngoại trừ
lần thanh toán tiền cuối cùng thì Đỗ Thị Mỹ D người chuyển khoản trực tiếp
cho ông theo yêu cầu của ông H với số tiền là 42.650.000đ.
Ông C1 cam kết toàn bộ lời khai của ông hoàn toàn đúng sự thật, cam kết
không thắc mắc khiếu nại gì về sau và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đoàn Văn C2 trình bày:
Ngày 28/10/2022, ông nhận một bhồ đối với căn nhà tại địa chỉ số G
P, Khu phố C, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh từ ông Nguyễn Quốc H
để làm thủ tục sang tên, đóng thuế cho căn nhà nêu trên. Trong quá trình làm hồ sơ,
tất cả các giấy tờ liên quan đến căn nhà, cũng như các loại thuế, phí, lệ phí nộp cho
Nhà nước ông đều nhận trực tiếp tông Nguyễn Quốc H. Sau khi hoàn tất thủ tục,
ông đưa lại toàn bộ bản chính các giấy tờ có liên quan đến căn nhà nêu trên cho ông
H. Ông cam kết không biết bên bán bên mua, tất cả mọi vấn đề phát sinh trong
quá trình làm hồ ông đều liên hệ trực tiếp với ông Nguyễn Quốc H. Ông không
biết Thị T1 ai, toàn bộ số tiền chi phí dịch vụ làm hồ sơ, ông đều nhận từ
ông H.
Ông C2 cũng đề nghị được phép xin vắng mặt trong quá trình giải quyết hồ
sơ vụ án và đề nghị Tòa án giải quyết vụ kiện theo quy định pháp luật.
5
* Người quyền lợi nghĩa vliên quan Trần Thị Mộng T3 tại bản tự
khai ngày 13/5/2024 trình bày:
Nguyên trước đây ông Nguyễn Quốc H nhận mua bán, chuyển nhượng
nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một phần nhà số C), khu phố C, Phường T,
Quận A, Thành phố HCMinh từ ông Ninh Văn T2 Âu Dương Mỹ P.
Thời điểm mua, nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Quốc H nhờ Thị T1
đứng tên dùm. Tuy nhiên, hiện nay giữa ông Nguyễn Quốc H và bà Lê Thị T1 đang
tranh chấp về quyền s hữu đối với nhà đất, nêu trên.
biết việc ông Nguyễn Quốc H người bỏ tiền mua, nhận chuyển
nhượng nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một phần nsố C), khu phố C,
Phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh từ ông Ninh Văn T2 Âu Dương
Mỹ P.
Toàn bộ số tiền ông Nguyễn Quốc H sử dụng để mua, nhận chuyển nhượng
nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một phần nsố C), khu phố C, Phường T,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh từ ông Ninh Văn T2, Âu Dương Mỹ P số
tiền để sửa chữa nhà sau khi mua, nhận chuyển nhượng là nguồn tiền riêng của ông
Nguyễn Quốc H. hoàn toàn không liên quan đến khoản tiền này, ông Nguyễn
Quốc H toàn quyền sở hữu, sử dụng định đoạt đối với khoản tiền nêu trên
nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một phần nhà số C), khu phố C, Phường T,
Quận A, Thành phố HChí Minh mà ông Nguyễn Quốc H đã mua của ông Ninh
Văn T2, bà Âu Dương Mỹ P mà hiện tại đang nhờ bà Lê Thị T1 đứng tên.
cam kết sẽ không bất kỳ khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến việc
giải quyết vụ án nêu trên của Toà án nhân dân Quận 12, Tp ..
Những lời khai của hoàn toàn đúng sự thật xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.
* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Thị T1- Luật Đào
Duy C trình bày: Ông thống nhất với phần trình bày của ông Quốc H1 đại
diện uỷ quyền của Thị T1, đề nghị Toà án nhân dân Quận 12 giải quyết vụ
kiện chấp nhận theo yêu cầu của ông H1, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Nguyễn Quốc H.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì
Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án, người tham gia tố tụng dân sự chấp hành đúng quy định
6
của pháp luật. Về thời hạn giải quyết vụ án thì chưa đảm bảo theo quy định, cần
xem xét rút kinh nghiệm.
- Về việc giải quyết nội dung ván, kiểm sát viên nhận thấy yêu cầu của
nguyên đơn sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Các đương sự tranh chấp với nhau về quyền sở hữu tài sản đối với nhà đất tại
địa chỉ G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp . nên đây quan hệ “Tranh chấp
về quyền sở hữu tài sản”.
Nhà đất tranh chấp tọa lạc tại phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh
nên theo Khoản 1 Điều 35 Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Về thủ tục tố tụng : Đại diện uỷ quyền của bị đơn ông Vũ Quốc H1 vắng
mặt; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ninh Văn T2 và bà Âu Dương Mỹ
P vắng mặt, Công ty TNHH T4, ông Đoàn Văn C2, Trần Thị Mộng T3, đơn
xin xét xử vắng mặt. vậy, Tòa án căn cứ Điều 227, khoản 1 điều 228 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015, xét xử vắng mặt ông Quốc H1, ông Ninh Văn T2 bà Âu
Dương Mỹ P, Công ty TNHH T4, ông Đoàn Văn C2, Trần Thị Mộng T3 theo
quy định pháp luật.
2. Về các yêu cầu của các đương sự :
- Xét yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H:
Ông H trình bày ông nhờ bà ThT1 người quen thân thiết của ông
H, đứng tên kết trên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất với bên bán ông Ninh
Văn T2, Âu Dương Mỹ P đối với nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một
phần nhà số C), khu phố C, Phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất
số CH04774 do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 và cập nhật sang tên
T1 trên Giấy chứng nhận. T1 ông H thỏa thuận với nhau, sau này khi
nào ông H cần sẽ sang tên trả lại nhà đất trên cho ông H. Tuy nhiên, ông H cần
thì bà T1 không thực hiện lời hứa sang tên và trả lại nhà đất nêu trên cho ông H.
Căn cứ theo Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số công chứng 007545, quyển số 04/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/10/2022
tại Văn phòng C3 thì ông Ninh Văn T2, bà Âu Dương Mỹ P có chuyển nhượng cho
7
Thị T1 đối với nhà đất tại địa chỉ: G đường P (số cũ: Một phần nhà sC),
khu phố C, Phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH04774
do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018.
Theo Giấy nhận tiền ngày 28/10/2022 , thì ông Ninh Văn T2 ký tên và
xác nhận rằng ông đã nhận của ông H số tiền 3.000.000.00để giải chấp căn
nhà số G đường P, khu phC, Phường T, Quận A, Thành phố HChí Minh tại
Ngân hàng A1 số 130 C, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Số tiền này
được cấn trừ vào số tiền mua nhà mà hai bên đã thỏa thuận, vchồng ông đã nhận
đủ số tiền bán nhà 4.700.000.000đ. Như vậy, ông H người trực tiếp giao tiền
cho bên bán ông T2, P, mặc người nhận chuyển nhượng nhà đất
Thị T1.
Trong quá trình giải quyết vụ kiện, ông H cung cấp cho Tòa án các Giấy
nộp tiền, lĩnh tiền tại Ngân hàng TMCP Á ( A1) chi nhánh C4 và Phòng G.
Tại Công văn số 1640/2023/TAQ12 ngày 21/8/2023, Tòa án nhân dân Quận
12 có đề nghị Ngân hàng TMCP Á- Phòng G1 :
1./ Vào ngày 28/10/2022 tại Ngân hàng TMCP Á- Phòng giao dịch C, ông
Nguyễn Quốc H có phải là người trực tiếp rút tiền tiết kiệm và nộp tiền để giải chấp
nhà nđất địa chỉ: Một phần nhà số C, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp.HCM
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số CH04774 do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 đã thế
chấp của ông Ninh Văn T2 hay không? Số tiền là bao nhiêu?
2./ Cung cấp cho Tòa án nhân dân Quận 12 bản sao đóng dấu của các
Giấy rút tiền, nộp tiền nêu trên.
Theo công văn số 205/CV- CVL.23 ngày 13/11/2023 của Ngân hàng TMCP
Á- Phòng G1 có phúc đáp theo yêu cầu của Tòa án như sau:
- Ngày 28/10/2022 ông Nguyễn Quốc H có thực hiện 02 giao dịch: lĩnh tiền
tiết kiệm và nộp tiền tại A1- CN Châu Văn L.
- A1- CN Châu Văn L cung cấp cho Tòa án nhân dân Quận 12 bản sao của
Giấy lĩnh tiền tiết kiệm và giấy nộp tiền”
Theo Giấy lĩnh tiền tiết kiệm số giao dịch 18 ngày 28/10/2022 thì ông
Nguyễn Quốc H có rút số tiền là 1.007.511.149đ.
Theo Giấy nộp tiền số giao dịch 19 ngày 28/10/2022 thì ông Nguyễn Quốc H
nộp vào Ngân hàng TMCP Á- Phòng G1 số tiền 1.000.000.000đ với nội dung
nộp tiền giải chấp nhà. Điều này phù hợp với phần xác nhận của ông Ninh Văn
T2 về việc ông người nhận tiền của ông H để giải chấp căn nhà nhà đất địa chỉ:
8
Một phần nhà số C, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp . tại Giấy nhận tiền ngày
28/10/2022.
Đối với 02 Giấy lĩnh tiền tiết kiệm số giao dịch 02, 04 ngày 28/10/2022 để
rút số tiền mỗi số tiết kiệm là 1.014.267.221 tại Phòng G, Tòa án cũng đã tiến hành
xác minh Phòng G ng xác nhận ông Nguyễn Quốc H người trực tiếp rút số
tiền này. Điều này phù hợp với lời khai của ông H khi ông cho rằng ông rút số
tiền này là để đưa cho ông T2, bà P thanh toán việc mua bán nhà.
Sau khi nhà đất tranh chấp đứng tên T1 thì T1 cũng chỉ người đứng
tên hợp đồng thi công sửa chữa nhà, tất cả mọi việc sửa chữa căn nhà này đều
do ông H thực hiện và ông H cũng người trực tiếp thanh toán stiền sửa chữa
cho bên thi ng Công ty TNHH T4. Theo các Phiếu thu số 01 ngày 11/11/2022
của Công ty TNHH T4 ông H đã cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu
cầu của mình tông H đã thanh toán stiền đợt 01 70.000.000đ; Phiếu thu số
02 ngày 25/11/2022 thì ông H đã thanh toán số tiền đợt 02 100.000.000đ, Phiếu
thu số 03 ngày 10/12/2022 thì ông H đã thanh toán số tiền đợt 03 40.000.000đ;
Phiếu thu số 04 ngày 25/12/2022 thì ông H đã thanh toán số tiền đợt 04 số tiền
45.000.000đ ( chuyển khoản). Điều này phù hợp với trình bày của Công ty
TNHH T4, khi Công ty TNHH T4 trình bày chỉ biết bà T1 khi ký hợp đồng, còn tất
cả mọi việc đều làm việc trực tiếp với ông H.
Sau khi hợp đồng chuyển nhượng với bên bán thì thủ tục làm giấy tờ nhà
đất cũng chỉ ông H thực hiện bàn giao bản chính chứng nhận Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH04774
do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 từ người làm dịch vụ là ông Đoàn
Văn C2 cũng bàn giao cho ông H. Bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu ntài sản khác gắn liền với đất giấy tờ pháp rất quan
trọng, tuy nhiên bà T1 không phải là người nhận trực tiếp, mà người nhận ông H
ông H đang giữ trực tiếp, điều này không hợp lý, không phợp với thực tế
nếu bà T1 cho rằng mình là người sở hửu hợp pháp nhà đất nói trên.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy lời trình bày của
ông H hoàn toàn hợp lý, yêu cầu của ông H phù hợp với quy định của pháp
luật, có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
- Xét yêu cầu của bị đơn bà Thị T1 ( Đại diện ủy quyền ông Vũ Quốc H1)
:
Sau khi được Tòa án tống đạt Thông báo thụ vụ án, phía Thị T1
( Đại diện ủy quyền ông Quốc H1) nộp Đơn yêu cầu phản tố đề ngày
22/5/2023.
Tại Biên bản giải thích pháp luật ngày 06/7/2023 và Quyết định yêu cầu cung
cấp chứng cứ số 100/2023/TB-BSCC ngày 29/11/2023 của Tòa án nhân dân Quận
9
12 yêu cầu Thị T1 ( Đại diện ủy quyền ông Quốc H1) sửa chữa nội
dung Đơn yêu cầu phản tố theo đúng quy định về hình thức, nội dung theo đúng
như quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và cung cấp chứng cứ,
đóng tiền tạm ứng án phí theo quy định pháp luật.
Nhưng bà Lê Thị T1 ( Đại diện ủy quyền ông Quốc H1), không thực hiện
yêu cầu này nên nội dung theo như Đơn yêu cầu phản tố đngày 22/5/2023 Hội
đồng xét xử không xem xét.
Phía T1 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Quốc H, T1 cho rằng toàn bộ số tiền mua bán nhà ở, tiền cải tạo, sửa
chữa, các chi phí kc đều do phía T1 dành dụm, vay mượn để thanh toán cho
bên bán và bên thi công cải tạo, sửa chữa. Tòa án nhân dân Quận 12 đã nhiều lần
ban hành Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 40/2023/TB-BSCC ngày
06/7/2023; Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 99/2023/TB-BSCC ngày
29/11/2023; Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 75/2024/TB-BSCC ngày
27/3/2024 yêu cầu bà T1 ( đại diện ủy quyền ông Vũ Quốc H1):
- Cung cấp chứng cứ chứng minh số tiền mà bà Thị T1 dùng để mua nhà
đất tại địa chỉ số G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp.HCM là của bà T1.
- Cung cấp chứng cứ về số tiền cải tạo, sửa chữa đối với nhà đất tại địa chỉ số
G P, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp.HCM là của bà Lê Thị T1
Tuy nhiên, phía bị đơn không cung cấp bất chứng cứ nào theo yêu cầu của
Tòa án, ngoại trừ bản photo Giấy thông tin giao dịch Đỗ Thị Mỹ D chuyển cho
ông Nguyễn C1 đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH T4 Cường Thịnh số
tiền 45.000.000đ, đây số tiền thanh toán đợt cuối sửa chữa nhà như các n đã
trình bày 02 bản phôtô chứng từ giao dịch số hoá đơn 10101209000002 ngày
21/10/2022; số hoá đơn 102702090000030 ngày 27/10/2022, thể hiện loại giao dịch
đóng sớm, nhưng không thể hiện việc T1 sử dụng stiền này vào việc chuyển
nhượng nhà đất tại địa chỉ: Một phần nhà số C, Khu phố C, phường T, Quận A, Tp
. ( nay là địa chỉ G P, phường T, Quận A, Tp.HCM ).
Do vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của Lê Thị T1 không có
sở xem xét.
Trước khi tiến hành nộp Đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân Quận 12, nguyên
đơn ông Lê Quốc H2 đã tiến hành nộp đơn hoà giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đúng theo quy
định tại Điều 202 Luật đất đai 2013. Ủy ban nhân dân phường T đã tiến hành hoà
giải vào c ngày 13/01/2023 ( lần 1); 19/01/2023 ( lần 02), vì T1 không đến
nên các buổi hoà giải không thành, do đó Ủy ban nhân dân phường T đã ban hành
10
Thông báo số 20/TB-UBND ngày 30/01/2023. Dựa theo kết quả hoà giải nêu trên,
ông H2 đã tiến hành nộp Đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân Quận 12.
Tuy nhiên, đại diện uỷ quyền của bị đơn ông Quốc H1 cho rằng
Thị T1 không nhận được giấy mời hoà giải, thông báo về việc giải quyết đơn tranh
chấp nên ông Đơn kiến nghị ngày 17/5/2023 đề nghị Toà án nhân dân Quận 12
xem xét về quá trình hoà giải tại Ủy ban nhân dân phường T, Quận A thực hiện
thủ tục hoà giải tại cơ sở để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn.
Theo yêu cầu của ông H1, Toà án nhân dân Quận 12 đã công văn số
1642/2023/TAQ12 ngày 21/8/2023 đề nghị Ủy ban nhân dân phường T tiến hành
hòa giải lại việc tranh chấp nhà đất giữa ông Nguyễn Quốc H và bà Lê Thị T1.
Sau đó, Ủy ban nhân dân phường T đã tiến hành hoà giải lại theo Biên bản
cuộc họp hoà giải vào các ngày 15/9/2023 (lần 1) và 28/9/2023 (lần 2). Do các bên
không thống nhất nên việc hoà giải tiến hành không thành.
Ông H đã thực hiện đúng mọi quy trình thủ tục về tranh chấp đất đai trước
khi gửi đơn kiện đến Toà án, Toà án Quận 12 cũng đã thực hiện đúng theo yêu cầu
hoà giải lại của phía bị đơn, nên việc phía bị đơn cho rằng các Biên bản cuộc họp
hoà giải tại Ủy ban nhân dân phường T, Quận A vào các ngày 15/9/2023 (lần 1)
28/9/2023 (lần 2) về bản chất chỉ hợp thức hoá cho việc thụ đơn khởi kiện đã
không phù hợp ngày từ thời điểm nộp đơn cho Toà án là không đúng.
Đại diện uỷ quyền của bị đơn ông Vũ Quốc H1 yêu cầu Toà án đình chỉ giải
quyết vụ án do nguyên đơn 02 lần được triệu tập hợp lệ mà không đến tham dự,
không do, nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H đã Đơn xin vắng mặt ngày
26/5/2023 nên yêu cầu của bị đơn là không có cơ sở để xem xét.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm :
- Do yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H được chấp nhận nên phía
bị đơn bà Lê Thị T1 phải chịu án phí là 300.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 146; Điều 147; khoản 2
Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 163, 164, 221, 223 của Bộ luật dân sự 2015;
- Căn cứ Điều 166, 203 Luật đất đai 2013;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí tòa án.
- Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2014;
11
Tuyên xử:
1./ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H:
Công nhận nhà đất tại địa chỉ một phần nhà số C, Khu phố C, phường T,
Quận A, Tp . ( nay là địa chỉ G P, phường T, Quận A, Tp . ) theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH04774
do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 thuộc quyền sở hữu của ông
Nguyễn Quốc H.
Thị T1 những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan hiện đang
trú trên nhà đất là bà Đỗ Thị Mỹ D, bà Đỗ Thị Thảo V; Cháu Đỗ Nguyễn Huy M (
Người giám hộ là bà Đỗ Thị Mỹ D) phải giao trả lại nhà đất tại địa chỉ nêu trên cho
ông Nguyễn Quốc H ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Nếu những người tên nêu trên không thực hiện việc bàn giao trả lại nhà
đất thì ông Nguyễn Quốc H quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự Quận A
tiến hành thực hiện việc cưỡng chế để lấy lại phần nhà đất thuộc quyền sở hữu của
mình.
Thị T1 phải trách nhiệm cùng ông Nguyễn Quốc H liên hệ quan
Nhà nước thẩm quyền để làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CH04774 do Ủy ban
nhân dân Quận A cấp ngày 02/5/2018 sang tên ông Nguyễn Quốc H.
Trường hợp bà Thị T1 không hợp tác làm thủ tục sang tên nhà đất nêu
trên sang n ông Nguyễn Quốc H thì ông Nguyễn Quốc H được quyền tự liên hệ
quan Nhà nước thẩm quyền để thực hiện thủ tục hợp thức hóa phần nhà đất
đã được công nhận này sang tên ông Nguyễn Quốc H.
2./ Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Lê Thị T1 chịu án phí là 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng).
- Ông Nguyễn Quốc H sinh năm 1962, nên ông Nguyễn Quốc H là người cao
tuổi thuộc trường hợp quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ông H
đã có Đơn xin miễn giảm tạm ứng án phí, án phí ngày 30/01/2023 nên thuộc trường
hợp được miễn tiền án phí.
3./ Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi nh án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
12
4./ Các đương sự mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ
ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Viện kiểm sát nhân dân Quận12 ; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Thi hành án dân sự Quận 12;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Minh Trí
Tải về
Bản án số 417/2024/DS-ST Bản án số 417/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 417/2024/DS-ST Bản án số 417/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất