Bản án số 390/2024/DS-PT ngày 31/05/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đòi nhà cho thuê

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 390/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 390/2024/DS-PT ngày 31/05/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đòi nhà cho thuê
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đòi nhà cho thuê
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 390/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/05/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: * Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Trần Thị Ngọc N; sửa một phần bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 390/2024/DS-PT
Ngày 31 tháng 5 năm 2024
V/v Tranh chấp đòi nhà cho
nhờ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Ngọc Huynh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Phan Tô Ngọc
- Thư ký phiên tòa: Ông Minh Anh - Thư Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấpcao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đức - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số 517/2023/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi nhà
cho ở nhờ”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 1822/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm
2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 763/2024/QĐPT-DS
ngày 13 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:Trần Ngọc T, sinh năm 1953.
Địa chỉ: A Ironwood Dr C USA. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp:Lê Thị T1, sinh năm 1978.
Địa chỉ: B N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
Bị đơn: Trần Thị Ngọc N, sinh năm 1956.
Địa chỉ: 3 Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Ngọc N:
- Ông Lê Ngọc L;
2
- Bà Võ Thị Anh L1;
- Bà Lê Thị Như Q;
- Bà Lê Thị Như Q y quyền lại cho bà Nguyễn Lê Ngọc T2 (có mặt)
Cùng địa chỉ: tầng F - B Đ, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Ông L, bà L1, bà Q vắng mặt)
- Ông Trần Văn S, sinh năm 1954;
Địa chỉ: 3 Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
- Ông Trần Văn S1(Chết ngày 01/02/2015).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trần Văn S1: Thị
Ánh N1, sinh năm 1963.
Địa chỉ: 3 Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Thị Ánh N1, sinh năm
1963.
Địa chỉ: 3 Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
- Người kháng cáo: Bị đơn là Bà Trần Thị Ngọc N, Lê Thị Ánh N1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn - Trần Ngọc T và người đại diện theo ủy quyền trì nh
bày:
Căn nhà 372/45 B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh có nguồn gốc thuộc sở hữu của Trần Thị D theo Bản án phúc thẩm dân sự
số 81/DS ngày 23/10/1982 (BL.303).
Năm 1990 bà D chết, để lại nhà đất trên cho cháu là bà Trần Thị Ngọc T3 theo
Di chúc ngày 20/7/1984. Năm 1990 T3 khai thừa kế theo di chúc đóng
thuế trước bạ (BL.301, 300). Năm 1991 bà T3 xin phép xây dựng lại căn nhà trên
(Giấy phép xây dựng số 3269/GPXD91 ngày 28/12/1991) tiến hành xây mới lại
thành nhà một trệt hai lầu, sàn mái bê tông cốt thép.
Năm 1997 T3 xuất cảnh đi Mỹ (nhưng vẫn thường về Việt Nam và trong
căn nhà này), nhờ em gái Trần Thị Ngọc N trông coi nhà 372/45 B (số mới
372/21) Đ, Phường A, Quận A.
Đến năm 2012 T3 về Việt Nam thì phát hiện N ông Trần Văn S1
trong nhà không cho T3 vào nhà. báo chính quyền địa phương giải
quyết nhưng bà N không đến làm việc. Ngày 26/9/2013 bà T3 có làm thông báo đòi
nhà cho ở nhờ đối với N và có nhờ Văn phòng T5 lập Vi bằng làm chứng cứ.
3
N hiện cũng đang ngụ tại nhà số C (số 372/48bis) Đ, Phường A,
Quận A di sản của cha mẹ để lại, thể hiện tại Tờ khai gia đình năm 1973 (số
nhà cũ là 372/48bis đường P, phường P, Khóm G, L Quận A); Giấy chứng nhận hộ
khẩu thường trú 1976, Giấy thông hành của Trần Thị Ngọc N được phép xuất
cảnh đi đến Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ngày 10/05/1885. Do đó, không thể nói
N không có chỗ ở khác để yêu cầu bà T3 tạo lập cho bà N chỗ ở khác.
Giữa T3N không hợp đồng nào về việc trông coi dùm căn nhà
trên. Việc sửa chữa nhà nếu thì cũng do N tự ý sửa chữa để phục vụ cho bà
N, không có sự đồng ý của T3. Do đó, bà T3 không đồng ý yêu cầu đòi tiền sửa
chữa nhà tiền công sức giữ gìn bảo quản nhà của bà N. T3 tự nguyện hỗ trợ
cho phía bị đơn số tiền 100.000.000 đồng cho việc dọn nhà.
Bị đơn - Trần Thị Ngọc N người đại diện theo ủy quyền trình
bày:
N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Trần Ngọc T3. không
nhờ nhà của T3.
Căn nhà 372/45 B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A nơi từ năm
1951 của Trần Thị D cùng với cha mẹ Trần Văn S2 Thị H cùng với
các anh chị của bà gồm: Trần Thị T4, Trần Thị K, Trần Ngọc T3, Trần Văn S, Trần
Thị Ngọc N. Năm 1990, Trần Thị D chết, gia đình gồm cha mẹ mười anh
chị em vẫn ở trong căn nhà trên.
Đến năm 1997, T3 xuất cảnh đi Mỹ, trước khi xuất cảnh bà T3 lập giấy
xác nhận không tài sản Việt Nam chứng thực của địa phương. o
thời điểm này thì tám anh chị em của đã định nước ngoài, chỉ còn bà, ông
Trần Văn S1 cùng vợ Thị Ánh N1 mẹ ruột của N vẫn tiếp tục trong
căn nhà trên.
Do đó việc bà Trần Ngọc T3 khởi kiện đòi nhà, bà N không đồng ý.
Ngày 10/6/2015 nga đơn yêu cầu phản tố (BL.153-155) đề nghị Tòa án
giải quyết:
- Tuyên vô hiệu vì Tờ di chúc ngày 20/7/1984 vì không hợp pháp về nội dung
lẫn hình thức.
- Tuyên hủy bỏ đơn xin thừa kế di sản ngày 22/5/1990 vì không có cơ sở pháp
lý.
- Sau khi bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị Tòa án nhân dân tối cao hủy
và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án để giải quyết lại. Tại đơn
trình bày ngày 30/11/2020 bà N lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền
của bà N trong quá trình giải quyết vụ án xác định lại cầu phản tố của N như
sau: Năm 2012 - 2013, bà N hợp đồng kinh tế sửa chữa nhà với giá trị hợp đồng
4
670.000.000đ, không biên bản thanh lý/ tất toán hợp đồng nhưng hợp đồng
thể hiện N đưa trước 120.000.000đ, còn lại 550.000.000đ thanh toán khi thi
công. Bà N ng chi số tiền 782.088.800đ để mua sắm đồ nội thất như giường, rèm,
máy nước nóng, bộ bình trà. Đối với tiền công sức bảo quản nhà, bà N yêu cầu tính
10.000.000đ/tháng vì bà N không lao động được nên phải nhờ bà N1 chăm sóc, tuy
không phải thực tế bà N đã trả cho N1 10.000.000đ/tháng nhưng N1 phải
hỗ trợ N để bà N giữ gìn, bảo quản căn nhà. Yêu cầu công sức sức bảo quản tài
sản từ tháng 1/1976 đến tháng 8/2022 559 tháng với tổng số tiền yêu cầu tính
công sức 5.590.000.000 đồng. Tổng cộng N yêu cầu T3 phải trả số tiền
6.562.688.800đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Bà Lê Thị Ánh N1 trình bày:
Bà N2 là vợ ông Trần Văn S1, bà ở trong căn nhà trên từ năm 2000.
Thực tế căn nhà trên là nơi ở của của gia đình chồng bà từ năm 1951 gồm cha
mẹ chồng và tất cả 10 anh chị em của T3 đều sinh ra và lớn lên tại đây.
Năm 1997, một số anh chị em đi xuất cảnh sang Mỹ nên những người lại
gồm cha mẹ chồng N2, ông Trần Văn S1, Trần Thị Ngọc N sau này N2
và con bà N2.
Căn nhà trước đây chỉ căn nhà trệt, vách mượn được sửa chữa khang trang
như ngày hôm nay để làm nơi thờ cúng ông nơi dừng chân của những
người anh chị em của bà T3 mỗi khi về Việt Nam. Trong quá trình sử dụng căn nhà
đã xuống cấp nên đã qua 2 lần sửa chữa:
Lần 1: Năm 1991, tiền sửa chữa do cha mẹ chồng bà N2 bỏ ra, ngoài ra còn có
sự đóng góp của chị chồng bà là bà Trần Thị T4 số tiền 5.000 USD.
Lần 2: Năm 2012, tiền sửa chữa do T4 và các anh em ở Mỹ và ở Việt Nam
cùng đóng góp, số tiền bỏ ra sửa chữa khoảng 600.000.000 đồng.
N2 không đồng ý với yêu cầu đòi nhà của T3 vì không việc nhờ
chính trong căn nhà của cha mẹ chồng bà N2.
N2 đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Thị Ngọc N. N2 đề
nghị Tòa án xem xét quyền lợi của những người đóng góp tiền sửa chữa căn nhà
nói trên.
- Sau khi bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị Tòa án nhân dân tối cao hủy
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ vụ án để giải quyết lại, N2
trình bày không có yêu cầu gì.
Người làm chứng - bà Trần Thị Đ trình bày:
chị em ruột với Trần Thị D. D độc thân, không chồng con.
Trước đây bà có tranh chấp quyền sở hữu nhà 372/45 B (số mới 372/21) Đ, Phường
5
A, Quận A, kết quả bà D thắng kiện và quản lý sử dụng căn nhà trên. Lúc bà D còn
sống do Trần Ngọc T3 nuôi dưỡng, lúc D chết để lại di chúc căn nhà trên
cho bà T3. Sau khi bà T3 xây dựng lại nhà và xuất cảnh có bà Trần Thị Ngọc No
ở, N chỉ nhờ không thuê mướn hay mua bán gì. Theo D việc đòi nhà
372/45 B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A của Trần Ngọc T3 đúng
T3 được bà D di chúc cho nhà đất, bà T3 bỏ tiền xây dựng nhà.
Tại Bản án dân sự thẩm số 955/2017/DS-ST ngày 31/7/2017, Toà án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Ngọc T3.
Buộc Trần Thị Ngọc N Thị Ánh N1 đang trú tại nhà đất số
C B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phải giao
trả toàn bộ nguyên trạng nhà đất số C B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Trần Ngọc T3.
Ghi nhận stự nguyện của Trần Ngọc T3 hỗ trợ cho Trần Thị Ngọc
N và bà Lê Thị Ánh N1 tiền bảo quản, giữ gìn nhà đất số C B (số mới 372/21) Đ,
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 100.000.000 (Một trăm
triệu) đồng.”
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thấm, quyền kháng cáo của các
đương sự theo luật định.
Ngày 02/8/2017, bị đơn bà Trần Thị Ngọc N đơn kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại Bản án phúc thẩm số 43/2018/DS-PT ngày 28/3/2018, Tòa án nhân
dân Cấp Cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Chấp nhận yêu cầu của Trần Ngọc T3.
Buộc Trần Thị Ngọc N Thị Ánh N1 đang trú tại nhà đất số
C B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phải giao
trả toàn bộ nguyên trạng nhà đất số C B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Trần Ngọc T3.
Ghi nhận stự nguyện của Trần Ngọc T3 hỗ trợ cho Trần Thị Ngọc
N Thị Ánh N1 tiền bảo quản, giữ gìn nhà đât số 372/45 B (smới
372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 100.000.000
(Một trăm triệu) đồng.”
Bản án phúc thẩm còn tuyên xử vphần án phí hiệu lực pháp luật kể
từ ngày tuyên án.
Sau đó, bà Trần Thị Ngọc N có đơn ngày 31/5/2018 đề nghị giám đốc thẩm
bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 23/2019/DS-GĐT ngày 20/8/2019 của
Tòa án nhân dân Tối cao đã quyết định:
“1.Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 34/2019/KN-DS
ngày 20/6/2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
6
2.Hủy một phần Bản án dân sự phúc thẩm s 43/2018/DS-PT ngày
28/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy một
phần Bản án dân sự thẩm số 955/2017/DS-ST ngày 31/7/2017 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với phần “Ghi nhận sự tự nguyện của
Trần Ngọc T3 hỗ trợ cho Trần Thị Ngọc N Thị Ánh N1 tiền bảo
quản, giữ gìn nhà đất số C B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố
H sổ tiền 100.000.000 đồng” trong vụ án “Tranh chấp đòi nhà cho nhờ”
giữa nguyên đơn là Trần Ngọc T3 với bị đơn Trần Thị Ngọc N, ông
Trần Văn S1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Ánh N1.
3.Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
lại về phần công sức, giữ gìn, bảo quản của Trần Thị Ngọc N, Thị Ánh
N1 đối với căn nhà số 372/45 B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.”
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lại vụ án để giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự thẩm s1822/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm
2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ Khoả n 2 Điề u 26, Điều 34, Điể m a Khoả n 1 Điề u 37, Khoản 1
Điều 47, Điều 244, Điều 271, 272, 273, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
Chấ p nhậ n một phần yêu cầ u củ a bị đơn bà Trần Thị Ngọc N về tiền công
sức, không chấp nhận yêu cầu tính chi phí sửa chữa nhà của Trần Thị Ngọc
N:
1. Trần Ngọc T3 tch nhiệm trả cho Trần Thị Ngọc N tiền công
sức gìn giữ tài sản là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
Thi hành sau khi án hiệu lực pháp luật tại quan thi hành án thẩm
quyền.
Kể từ ngày phải thi hành án, nếu bà T3 không thi hành số tiền trên thì phải
chịu thêm tiền lãi trên số tiền chậm thi hành theo Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự năm 2015.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về chi ptố tụng, án phí
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 15 tháng 10 năm 2022 , Trần Thị Ngọc N đơn kháng cáo đề
nghị sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu của N đối với phần
7
công sức gìn giữ, bảo quản, chi phí sửa chữa căn nhà số C Đ, Phường A, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 6.562.688.800 đồng.
Ngày 15 tháng 10 năm 2022 , Thị Ánh N1 đơn kháng cáo đề
nghị xem xét, giải quyết đối với phần công sức của N1 và đề nghị chấp nhận
yêu cầu của bà N đối với phần công sức gìn giữ, bảo quản, chi phí đóng góp căn
nhà số C Đ, phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền
6.562.688.800 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Thị T1 trình bày: Căn nhà số C Đ, Phường A, Quận A, Thành phố
Hồ Chí Minh đã được xác định là của bà T3. Tiền xây dựng nhà năm 1991 là do
T3 bỏ ra chứ không ai đóng góp. N hiện cũng đang ngụ tại nhà số C
(số 372/48bis) Đ, Phường A, Quận A di sản của cha mẹ để lại, nên
không thể nói N không chỗ khác để yêu cầu T3 tạo lập cho N
chỗ khác. T3 N không hợp đồng nào vviệc trông coi căn nhà
trên. Việc sửa chữa nhà nếu có thì cũng do bà N tự ý sửa chữa phục vụ cho bà N
khi đang tại nhà đó, không sự đồng ý của nên T3 nên không đồng ý
yêu cầu đòi tiền sửa chữa nhà tiền công sức giữ gìn bảo quản nhà của N.
T3 chỉ tự nguyện hỗ trợ cho phía bị đơn số tiền 100.000.000 đồng cho việc
dọn nhà. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo của N, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
Nguyễn Ngọc T2 trình bày: Bản án thẩm xét xử là chưa phù
hợp khi chưa xem xét các tài liệu, chứng cứ. Căn nhà đã trải qua 02 đợt xây
dựng sự đóng góp của N cùng các anh chị em. N đã đóng góp cho
quá trình giữ gìn năm 2012-2013 ngoài ra từ đó đến nay N là người trông
coi căn nhà. Bà N hiện nay đã già cả và là người khuyết tật, nên cần xem xét cho
hoàn cảnh của N, N chỉ căn nhà căn nhà hương hỏa của gia đình,
thờ cúng tổ tiên, không ý định chiếm hữu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
về công sức giữ gìn, bảo quản căn nhà tiền chi phí sửa chữa tổng cộng
6.562.688.800 đồng để hỗ trợ cho bà N vì bà N không có chỗ ở khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
nêu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục : Thẩ m phá n và ̣ i đồ ng xé t xử đã th ực hiện theo đúng quy
đị nh củ a Bộ luậ t tố tụ ng dân sự . Các đương sự thự c hiệ n quyề n , ngha vụ theo
đú ng quy đị nh phá p luậ t.
Về nội dung: Tòa án cấp thẩm đã xem xét toàn diện các tài liệu, chứng
cứ của vụ án, xét xử chấp nhận buộc bà Trần Ngọc T3 có trách nhiệm trả cho
8
Trần Thị Ngọc N tiền công sức gìn giữ tài sản là 100.000.000 đồng là có căn cứ.
Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Việc kháng cáo của đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của
pháp luật.
[1.2] Tại phiên tòa, một số đương sự vắng mặt nhưng những người này đã
văn bản ủy quyền cho người được ủy quyền tham gia tố tụng, việc ủy quyền
này đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
vụ án.
[1.3] Thị Ánh N1 có kháng cáo, đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
2 nhưng vẫn vắng mặt, như vậy N1 đã từ bỏ kháng cáo. Do đó Hội đồng xét
xử đình xử xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà N1.
[1.4] Tại bản án thẩm bản án phúc thẩm lần một thể hiện các anh chị
em của N ông Trần Văn S, ông Trần Văn S3, ông Trần Văn S4, ông Trần
Văn S5, ông Trần Văn S6, Trần Thị T4, Trần Thị K hiện đang định tại
nước ngoài không tham gia tố tụng. Sau khi bản án thẩm bản án phúc thẩm
lần một bị Tòa án nhân dân tối cao hủy a án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh thụ lý vụ án để giải quyết lại thì những người này đã gửi cho Tòa án cấp
thẩm văn bản ý kiến ngày 23/6/2022 (có hợp pháp hóa lãnh sự) với nội dung xác
định họ có đóng góp 800.000.000 đồng để sửa chữa nhà năm 2012 và yêu cầu bà
T3 đền cho N số tiền 2.000.000.000 đồng họ yêu cầu được hưởng
quyền lợi chính đáng của căn nhà cho rằng hđã sinh ra, lớn lên chung
góp tiền để xây dựng và gìn giữ ngôi nhà này.
Thực tế nguyên đơn cùng bà N các anh chị em đều thống nhất thừa nhận
việc xây nhà mới năm 1991 và sửa chữa nhà vào năm 2012. Như vậy, theo
văn bản trình bày của ông S, ông S3, ông S4, ông S5, ông S6, T4, K nêu
trên thì họ cho rằng sự đóng góp tiền của những người này vào để xây dựng
căn nhà số C B họ yêu cầu “… anh chị em chúng tôi được hưởng quyền
lợi chính đáng của căn nhà chúng tôi sinh ra, lớn lên chung góp tiền để
xây dựng gìn giữ ngôi nhà”, đây được coi yêu cầu mới phát sinh khi Tòa
án cấp thẩm thụ lại vụ án. theo bản án thẩm, bản án phúc thẩm lần
một đã hiệu lực pháp luật (không bị quyết định Giám đốc thẩm hủy) thì chỉ
9
tuyên buộc bà Trần Thị Ngọc N Thị Ánh N1 đang trú tại nhà đất số
C B (số mới 372/21) phải giao trả toàn bộ nguyên trạng nhà đất này choTrần
Ngọc T3 chứ chưa phát sinh yêu cầu tranh chấp mới này của của ông S, ông S3,
ông S4, ông S5, ông S6, T4, K. Mặc văn bản của những người này
chưa thể hiện cụ thể số tiền công sức đóng góp tôn tạo tài sản bao nhiêu,
nhưng đây yêu cầu của đương sự phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án
nên Tòa án phải xem xét giải quyết. Lẽ ra, Tòa án cấp thẩm phải đưa những
người này vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi ngha vụ
liên quan, làmyêu cầu cụ thể của họ, đồng thời yêu cầu họ cung cấp chứng cứ
chứng minh cho lời trình bày của mình. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không
đưa họ vào tham gia tố tụng làm mà lại nhận định: “Các anh chị em của N
ông Trần Văn S, ông Trần Văn S3, ông Trần Văn S4, ông Trần Văn S5, ông
Trần Văn S6, Trần Thị T4, Trần Thị K hiện đang định tại nước ngoài
đơn trình bày về việc đóng góp tiền để xây dựng căn nhà 372/21 Đ vào
năm 1991 và bảo dưỡng sửa chữa căn nhà năm 2013, nay yêu cầu bà T3 đền bù
công lao gìn giữ ngôi nhà từ năm 1997 cho bà N số tiền là 2.000.000.000đ. Đơn
tường trình của các ông được gởi đến Tòa án sau khi Tòa án đã mở phiên
họp công khai chứng cứ quyết định đưa vụ án ra xét xử (gởi Tòa án ngày
29/8/2022 theo dấu bưu điện), các ông tên trên cũng không yêu cầu
Tòa án giải quyết về số tiền đóng góp xây dựng sửa chữa nhà. Trong suốt
quá trình tố tụng từ khi bà T3 khởi kiện đến nay, c ông trên không yêu
cầu tranh chấp về chi phí đóng góp xây dựng sửa chữa nhà với T3. Chỉ đề
nghị T3 trả tiền cho bà N như công lao gìn giữ tài sản. Do vậy, việc giải
quyết vụ án không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của các ông trên nên
không cần thiết đưa họ vào tham gia tố tụng” không đúng quy định của pháp
luật, những người này không được đưa vào tham gia tố tụng, chưa phải
đương sự thì họ cũng không thbiết được Tòa án thụ giải quyết yêu cầu
của họ hay không. Họ cũng không thể biết được các giai đoạn tố tụng diễn tiến
ra sao đhọ nộp đơn yêu cầu độc lập đúng thời hạn, đúng quy định của pháp
luật. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa hvào tham gia tố tụng nên họ không
thực hiện được các quyền, ngha vụ chính đáng của mình. Tuy nhiên, yêu này
được xác định yêu cầu độc lập của những người quyền lợi ngha vụ liên
quan, nên nếu ông S, ông S3, ông S4, ông S5, ông S6, T4, K còn tranh
chấp thì họ sẽ được quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu tính công sức giữ gìn nhà đất của bà Trần Thị Ngọc N:
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 23/2019/DS-GĐT ngày 20/8/2019 của
Tòa án nhân dân Tối cao đã quyết định: 3. Giao hvụ án cho Tòa án nhân
10
dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại về phần công sức, giữ gìn, bảo quản của
Trần Thị Ngọc N, Thị Ánh N1 đối với căn nhà số 372/45 B (số mới
372/21) Đ, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục thẩm,
đúng quy định của pháp luật.”
Hội đồng xét xử xét thấy, căn nhà 3 B (số mới 372/21) Đ, Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc thuộc sở hữu của bà Trần Thị D theo Bản án
phúc thẩm dân sự số 81/DS ngày 23/10/1982. Năm 1990 D chết, để lại nhà đất
trên cho cháu bà Trần Thị Ngọc T3 theo Di chúc ngày 20/7/1984. Năm 1990
T3 khai thừa kế theo di chúc và đóng thuế trước bạ (BL.301, 300). Năm 1991
T3 xin phép xây dựng lại căn nhà trên (Giấy phép xây dựng số 3269/GPXD91
ngày 28/12/1991) tiến hành xây mới lại thành nhà một trệt hai lầu, sàn mái bê
tông cốt thép. Như vậy, tài sản này thuộc sở hữu của T3 từ năm 1990.
Từ năm 1990 đến năm 1997 bà T3 vẫn trong căn nhà này. Đến năm 1997,
T3 mới xuất cảnh khỏi Viết Nam sang trú tại Mỹ, nên thời điểm trước năm
1997, nếu N trong nhà cũng chỉ nhờ, không thể tính công sức giữ gìn
nhà, đất cho N. Bà N yêu cầu tính công sức giữ gìn tài sản 10.000.000đ/tháng
từ năm 1975. T3 cho rằng chỉ cho N vào nhờ liên quan đến việc thờ
tự cho cha mẹ, không phải nhờ bà N quản tài sản. Tuy nhiên, tại giai đoạn giải
quyết vụ án thẩm trước đây bà T3 trình bày khi T3 đi xuất cảnh nhờ
N giữ nhà giùm nên căn cứ xác định giao dịch thể hiện T3 yêu cầu N
trong coi nhà này. Do đó, cần phải tính cho N công sức quản lý, gìn giữ tài sản
cho bà T3. Thực tế từ năm 2013, T3 về Việt Nam yêu cầu N trả lại nhà,
nhưng N ngăn cản không cho T3 o trong chính căn nhà của mình. Từ
năm 2013 đến nay bà N vẫn chiếm dụng không giao nhà và không cho T3 vào ở
trong căn nhà nêu trên nên giai đoạn này bà N không được tính công sức gìn giữ
bảo quản tài sản cho bà T3. Vì vậy, công sức của bà N gìn giữ, bảo quản tài sản cho
bả T3 được chấp nhận tính từ năm 1997 đến năm 2013. Theo định giá thì giá trị tài
sản bà N quản lý cho bà T3 là nhà, đất số 372/45 B bằng là 8.902.000.000đ. Do đó
cần tính công sức bảo quản tài sản cho N 5% giá trị tài sản bằng 445.000.000đ.
[2.2] Xét yêu cầu tính chi phí sửa chữa nhà:
Đối với số tiền 115.000.000đ bà T4 gởi về để cơi nới thêm tầng 1 năm 1991,
đây năm căn nđược xây mới lại và xây dựng theo giấy phép xây dựng, do
đó việc cơi nới (nếu có) ngoài Giấy phép xây dựng là không hợp pháp. Hơn nữa, bà
T4 không tranh chấp trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu
cầu này của N.
Đối với số tiền 700.000.000đ của các anh chị em gởi về bị đơn dùng để mua
sắm nội thất ngờng, rèm để sử dụng từ tầng 1 đến tầng 3. Tại phiên tòa, đại
diện bị đơn cho rằng số tiền này sử dụng trong đợt sửa chữa năm 2012-2013, và
N đã dùng các khoản tiền của các anh, chị, em gởi về để tu bổ lại nhà cửa, trong đó
11
160.600.000đ tiền của N. Tại hợp đồng kinh tế số tiền sửa chữa gtrị
670.000.000đ, trong đó 120.000.000đ đã được N giao trước, số còn lại
550.000.000đ thanh toán khi thi công. Tại bản trình bày ngày 10/6/2022 N trình
bày: năm 2012 căn nhà xuống cấp ngập ớc mỗi khi trời mưa, dẫn tới việc
tường bị lún, nền thấm nước, đường dây điện hỏng nên các anh chị (không
T3) đóng góp khoảng 800.000.000đ trong đó N bỏ ra số tiền 160.600.00
để xây dựng sửa chữa nhà theo hợp đồng kinh tế ngày 08/11/2012”. Tại biên bản
định giá ngày 24/8/2022, người đại diện theo ủy quyền của bà T3 trình bày “số tiền
chi phí xây dựng N thực tế bra theo hợp đồng kinh tế ngày 08/11/2022
160.000.000đ bà T3 đồng ý hỗ trợ cho bà N (BL 619). Tuy các chứng từ bà N đưa
ra làm chứng cứ chưa đảm bảo đúng quy định về hóa đơn, chứng từ, nhưng việc bà
N bỏ tiền ra để sửa chữa nhàsố C B (số mới 3) là thật. Trong quá trình giải
quyết vụ án tại tòa án cấp thẩm, T3 cũng nhiều ý kiến đồng ý thanh toán
khoản tiền 160.000.000đnày cho N. Thực tế đến năm 2013 T3 mới đòi nhà,
nên bà N sửa chữa vào năm 2012 cũng là để phục vụ cho việc gìn giữ tài sản cho bà
T3. Do đó, cần buộc T3 trả cho bà N khoản 160.000.000đ.
[2.3] Như vậy, T3 phải trả cho N tổng cộng 2 khoản 605.000.000đ.
Đối với các yêu cầu khác, N không đưa ra được chứng cứ căn cứ pháp
chứng minh cho yêu cầu của mình nên có căn cứ chấp nhận.
[2.4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu
cầu kháng cáo của bà Trần Thị Ngọc N, sửa bản án sơ thẩm.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị N1 và bà Trần Thị Ngọc N
người cao tuổi nên được miễn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 308, Điều 309, Điều 312 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015;
Căn cứ Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Ánh
N1. Bản án thẩm hiệu lực pháp luật đối với phần giải quyết liên quan đến
N1.
2. Chấp nhận một phần kháng cáo của Trần Thị Ngọc N; sửa một phần
bản án sơ thẩm.
12
3. Ć p nhậ n một phần yêu cầ u khởi kiện củ a bị đơn bà Trần Thị Ngọc N
đối với yêu cầu tính công sức, giữ gìn, bảo quản tài sản yêu cầu tính chi phí
sửa chữa nhà 372/45 B (số mới 372/21) Đ, phường A, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh.
3.1. Bà Trần Ngọc T3 có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Ngọc N tiền công
sức, giữ gìn, bảo quản tài sản tọa lạc tại số C B (số mới 3), Đ, phường A, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh là 445.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi lăm triệu
đồng).
3.2. Trần Ngọc T3 trách nhiệm trả cho Trần Thị Ngọc N số tiền
sửa chữa căn nhà 372/45 B (số mới 3), Đ, phường A, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh là 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng).
3.3. Tổng số Trần Ngọc T3 trách nhiệm trả cho Trần Thị Ngọc N
2 khoản nêu trên là 605.000.000 đồng (Sáu trăm lẻ năm triệu đồng).
4. Kể từ ngày phải thi hành án, nếu bà Trần Ngọc T3 không thi hành số tiền
phải trả cho N nêu trên thì T3 phải chịu thêm tiền lãi đối với số tiền chậm
thi hành án theo quy định của pháp luật.
5. Chi phí tố tụng bị đơn bà Trần Thị Ngọc N chịu và đã nộp đủ.
6. Án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm : Trần Ngọc T3, Thị Ánh
N1 và bà Trần Thị Ngọc N được miễn.
Trả lại cho Thị Ánh N1 tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo Biên lai
thu tiền tạm ứng án phí, lphí số 0003341 ngày 28/10/2022 của Cục Thi hành
án dân sự Thành phố Hồ chí Minh.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 9 Luật Thi hành án n sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND Thành phố Hồ Chí Minh (1);
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (1);
- Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh (1);
- Các đương sự (6);
- Lưu HSVA (1), VP (5), 17b (LMA);
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Vũ Ngọc Huynh
13
Tải về
Bản án số 390/2024/DS-PT Bản án số 390/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 390/2024/DS-PT Bản án số 390/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất