Bản án số 06/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam về tranh chấp đòi nhà cho thuê

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam về tranh chấp đòi nhà cho thuê
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đòi nhà cho thuê
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Kim Bảng (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 06/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Phạm Văn Mai khởi kiện yêu cầu bà Y, anh Long tháo dỡ nhà mái bằng hai tầng để trả lại ông nguyên trang hai gian nhà cấp 4
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Nguyệt.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Vũ Thị Tình và ông Nguyễn Bá Đoàn.
- Thư phiên tòa: Ông Trần Quang Tất - Thư a án nhân dân huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Nam tham
gia phiên tòa: Bà Đinh Thị An - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng,
tỉnh Nam xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ s05/2023/TLST- DS
ngày 19 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
10/2024/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 6 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số
28/2024/QĐST-DS ngày 11/7/2024, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn M, sinh năm 1950. Địa chỉ: Snhà 28, ngõ 40,
phố C, phường N, quận T, thành phố Hà Nội; có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1953. Địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà Nam; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Anh Phạm Hoàng L, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ngách 27, ngõ 40, phố C, phường
N, quận T, thành phố Hà Nội; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi ngĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Xuân Đ, sinh năm 1948. Địa chỉ: Số 40, 17 Thị H, quận G,
thành phố Hồ C Minh.
2. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1964. Địa chỉ: Tổ 6, phường M, thành phố P,
tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
3. Ông Phạm Văn T, sinh năm, 1958. Địa chỉ: Số 128, Đức T, phường 6,
quận G, thành phố H Chí Minh.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIM BẢNG
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 06/2024/DS-ST
Ngày 25-7-2024
V/v:“Kiện đòi nhà, đất cho mượn
và bồi thường thiệt hại”.
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
4. Chị Phạm Thị T, sinh m 1978. Địa chỉ: Z17, T, huyện T, thành phố
Nội; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
5. Chị Phạm Thị Kim O, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 128, Lê Đức T, phường 6,
quận G, thành phố H Chí Mnh.
6. Anh Phạm Ngọc C, sinh năm 1984; Địa chỉ: Số 96 Hồ Văn T, khu phố 2,
phường T, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
7. UBND T, huyện Kim Bảng, tỉnh Nam. Người đại diện theo pháp luật:
Ông Phạm Văn T, chức vụ: Chủ tịch; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Ông Đ, ông T ủy quyền cho ông Phạm Văn M.
Chị O, anh C ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Y.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai tại Tòa án, ông Phạm Văn M bị đơn
trình bày: Bố mẹ ông cụ Phạm Văn Th, sinh năm 1924 chết năm 1986 cụ
Phạm Thị T, sinh năm 1924 chết năm 1986. Bố mẹ ông sinh ra được năm người
con gồm ông Phạm Xuân Đ; ông Phạm Văn Đ (ông Đ chết năm 2013), ông Đ
vợ Nguyễn Thị Y bốn người con Phạm Hoàng L, Phạm Thị T, Phạm Thị
Kim O Phạm Ngọc C; ông Phạm Văn Đ1; ông Phạm Văn T và ông Phạm Văn
M. Bố mông không con nuôi, con riêng và bố mẹ nuôi, c cụ sinh ra bố m
ông đều đã chết. Trong thời gian chung sống bố mẹ ông được cha ông để lại diện
tích đất 839m
2
, trong đó có 627m
2
sử dụng chung ngoài ra đất vườn tại thửa đất
số 317, tờ bản đồ PL5 tại thôn , T, huyện Kim Bảng, tỉnh Nam. Trên đất
10 gian nhà ngói, trong đó 5 gian quay hướng Tây 5 gian quay hướng Nam.
Trước khi chết bố mẹ ông không để lại di chúc, sau này ông nghe bà cô ruột ông là
Phạm Thị M (đã chết) nói lại bố mẹ ông di chúc bằng miệng ba gian quay
hướng tây làm nhà thờ, 02 buồng cho ông Phạm Xuân Đ. Đối với 5 gian nhà quay
hướng Nam thì 02 gian đầu giáp nhà ông Phạm Xuân Đ cho ông sử dụng, 02 gian
tiếp theo cho ông Đ, 01 gian còn lại cho ông Đ1 một phần đất trống bên cạnh,
tiếp theo là ba gian bếp cho ông T. Năm 2017 bà Y, cháu L đến hỏi ông để ông
cho mượn hai gian nhà cấp 4 lợp ngói mà bố mẹ ông đã cho ông để Y, cháu L
phá đi xây nhà hai tầng như hiện nay. Ông đồng ý và cùng bà Y, cháu L thoả thuận
với nhau khi xây nhà mái bằng phải để lại cho ông một buồng để ông chỗ
ngh chân đi về thắp hương các cụ, việc thoả thuận này được lập bằng giấy uỷ
quyền ngày 07/5/2017 chữ của ông cháu L. Sau khi xây dựng nhà xong
đến khi khánh thành ông hỏi Y, cháu L về việc ông phải đóng góp
không tY và các con bà Y nói không phải đóng góp bác cứ về ở. Tháng
7/2020, ông mang n thờ của con trai ông về để thờ cúng thì Y không đồng ý
cho để vào trong nhà khoá cửa bỏ đi. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
Nguyễn Thị Y và anh Phạm Hoàng L tháo dỡ nhà mái bằng trên đất để trlại cho
ông 02 gian nhà cấp 4 cũ trên diện tích đất khoảng 20m
2
tại thửa đất số 317, tờ bản đ
3
PL5, diện tích 839m
2
tại thôn G, T, huyện K, tỉnh Nam mà Yvà anh L đã
mượn của ông bi thường thiệt hại giá trị 08 m ông kng được n
150.000.000đồng.
- Bị đơn Phạm ThY trình y: Bà con dâu của cụ Phạm Văn Th cụ
Phạm ThT. CTh cT sinh được năm nời con gồm ông Phạm Xuân Đ; ông
Phạm Văn Đ chồng bà; ông Phạm Văn Đ1, Phạm Văn T; ông Phạm Văn M. Bố
mẹ chồng bà không con nuôi, con riêng bố mẹ nuôi, các cụ sinh ra bố mẹ
chồng đều đã chết. Chồng ông Phạm Văn Đ chết năm 2013, không để lại
di chúc, ông Đ sinh được bốn người con gồm Phạm Hoàng L, Phạm Thị T,
Phạm Thị Kim O Phạm Ngọc C, chồng không con nuôi, con riêng. Theo
bà được biết bố mẹ chồng bà được các cụ để lại diện tích 839m
2
, số thửa, tờ bản đồ
không biết trên diện ch đất này 05 gian nhà thờ 03 gian nhà ngang,
khi chết bố mẹ bà không để lại di chúc gì. Trước khi chết bố mẹ bà có nói bằng lời
sẽ cho mỗi người con một gian nhà còn vị trí cụ thể chỗ nào tbố mẹ chồng
không nói các anh em đi thoát ly chỉ còn lại vợ chồng chung sống cùng bố
mẹ chồng. Sau khi bố mchồng chết thì vợ chồng bà là trực tiếp ở, sử dụng
đóng thuế đất hàng năm từ đó cho đến nay, số tiền cụ thể không nhớ. Tháng 6
năm 2017 xin các anh em chồng để phá ba gian nhà cấp 4 của bmchồng
và bốn anh em chồng đã đồng ý trong đó cả ông Phạm Văn M để bà xây nhà
mái bằng hai tầng diện tích khoảng 30m
2
trên diện tích đất của hai gian nhà cấp 4
để thờ cúng ông Đ, còn một gian sau khi phá đi thì diện tích đất này
đang để không. Khi xây nhà thì các anh em chồng đồng ý và ông M viết một
giấy uỷ quyền nếu khi ông M về thì để cho ông một chỗ để ngủ qua đêm, khi
ông M đi thì mẹ con tôi lại sử dụng bình thường nên tôi đồng ý nên tôi ký thay anh
L còn thực chất chữ ký, chữ chữ viết trong giấy uỷ quyền ngày 07/5/2017
không yêu cầu giám định, khi hoàn thành nhà khi ông M về quê tôi
mời ông M xuống đngủ nghỉ nhưng ông M không xuống ông M đòi để bàn
thờ con trai ông o trong nhà, còn anh L con trai không liên quan gì. Nay ông
M khởi kiện yêu cầu bà và anh Phạm Hoàng L phải tháo dỡ nhà mái bằng để trả lại
cho ông M 2 gian nhà cấp 4 trên diện tích đất khoảng 20m
2
và bồi thường thiệt
hại không đồng ý nhà do các cụ xây cũng không căn cứ nào nhà đã
chia cho từng người con và gian nhà nào của ông M.
Bị đơn anh Phạm Hoàng L trình bày: Anh là con trai ông Phạm Văn Đ và bà
Nguyễn Thị Y. Bố anh chết năm 2013, không để lại di chúc. Từ khi sinh ra lớn
lên anh sống cùng ông nội bố mcác em anh trên nhà đất các cụ để lại.
Năm 1986 ông nội anh chết không để lại di chúc. Khi ngôi nhà ngang xuống
cấp, dột nát trầm trọng thì bác cả anh ông Phạm Văn Đ nói anh xây nhà thờ
cúng bố mẹ anh sử dụng nên mẹ con anh xin phép các bác, các chú tháo dỡ
ngôi nhà cấp 4 xây ngôi nhà mái bằng như hiện nay. Mặc mẹ con anh chỉ
xây trên phần đất của hai gian nhà cấp 4, còn lại 1 gian hiện nay để đất trống. Tiền
xây nmái bằng do mẹ anh em gái anh Phạm Thị T đóng góp xây dựng.
4
Nay ông M khởi kiện mẹ con anh phải dỡ bỏ ngôi nhà hai tầng được xây trên nền
đất của 2 gian nhà ngang cấp 4 để trả lại cho ông M ngôi nhà cấp 4 anh
không đồng ý. Đối với giấy ủy quyền ông M cung cấp cho Tòa án thì anh không
được biết do ai lập, ai ký. Anh không thỏa thuận với ông M diện tích đất
nhà anh không có quyền thừa hưởng. Chữ viết Phạm Hoàng L trong giấy ủy quyền
không phải chữ viết chữ ký của anh, còn ai ai viết anh không biết, anh không
yêu cầu giám đinh, chchữ viết. Do công việc anh bận nên đề nghị Tòa án
được vắng mặt tại các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ hòa giải, anh đ
nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Ông Phạm Xuân Đ trình bày: Ông là anh ruột của ông Phạm Văn M người
khởi kiện đòi hai gian nhà cấp 4 trên thửa đất 317, tờ PL5, địa chỉ tại xóm 1, T,
huyện K, tỉnh Hà Nam. Bố ông là cụ Phạm Văn Th, mông cụ Phạm Thị T, đều đã
chết năm 1986. Bố mẹ ông sinh ra được năm người con gồm ông Phạm Xuân Đ,
ông Phạm Văn Đ (ông Đ chết năm 2013); ông Phạm Văn Đ1; Phạm Văn T ông
Phạm Văn M. Trước khi chết bố mông để lại cho 5 anh em thửa đất trên. Trên
thửa đất có hai nhà 5 gian, nhà bếp 3 gian. Từng nhà được phân chia theo các giấy
tờ xác nhận nhà ông đã ngày 29/11/2020 ông đã gửi cho ông M để gửi tới
Tòa án. Hai gian nhà của ông M mà bố mông cho ông M chịu trách nhiệm. Ông
không ý kiến gì, đề nghị giải quyết theo pháp luật. Do tuổi cao nên ông uỷ
quyền cho ông M tham gia tố tụng.
- Ông Phạm Văn T trình bày: Ông anh ruột của ông Phạm Văn M người
khởi kiện đòi hai gian nhà cấp 4 tại thửa 317, tờ PL5, địa chỉ tại xóm 1, xã T,
huyện K, tỉnh Hà Nam. Bố ông là cụ Phạm Văn Th, mông cụ Phạm Thị T, đều đã
chết năm 1986. Bố mẹ ông sinh ra được năm người con gồm ông Phạm Xuân Đ;
ông Phạm Văn Đ (ông Đ chết năm 2013); ông Phạm Văn Đ1; ông Phạm Văn T
ông Phạm Văn M. Trước khi chết bố mông để lại cho 5 anh em thửa đất trên.
Trên thửa đất có hai nhà 5 gian, nhà bếp 3 gian. Từng nhà được phân chia theo các
giấy txác nhận nhà của ông đã ngày 29/11/2020 mà ông đã gửi cho ông M đ
gửi tới Tòa án. Hai gian nhà của ông M bố mẹ ông cho ông M chịu trách
nhiệm. Ông không có ý kiến đề nghị giải quyết theo pháp luật. Do sức khỏe
và ở xa nên ông ủy quyền cho ông M tham gia tố tụng tại Tòa án.
- Ông Phạm Văn Đ1 trình bày: Ông đã nhận được thông báo thụ vụ án.
Bố ông cụ Phạm Văn Th, mẹ ông cụ Phạm Thị T, đều đã chết năm 1986. Bố mẹ
ông sinh ra được năm người con gồm ông Phạm Xuân Đ, ông Phạm Văn Đ ng Đ
chết năm 2013); ông Phạm Văn Đ1, Phạm Văn T ông Phạm Văn M. Bố mẹ ông
không con nuôi, con riêng. Khi còn sống bố mẹ ông được các cụ để lại 10
gian nhà, trong đó 5 gian nquay hướng Tây, 5 gian nhà quay hướng Nam bố
mẹ ông xây thêm 3 gian nhà ngói nữa trên diện tích đất ông không nhớ. Khi còn
sống bố mông nói với ruột ông Phạm Thị M ã chết) 5 gian hướng Tây
để cho con cả thờ cúng 2 gian. Năm gian hướng cho ông M 2 gian giáp năm
5
gian trên, ông Đ hai gian giữa, ông Đ1 một gian phần còn trống, mỗi gian rộng
2,2m trên đất. Năm 2008 diện tích đất được cấp sổ đỏ đứng tên 5 anh em ông. Sau
khi cấp sổ đỏ nền đất vẫn như cũ, năm 2017 bà Y xây nhà trên gian nhà cũ, khi xây
cháu L hỏi xin phá dỡ gian nhà cấp 4 để xây nhà như hiện tại. Nay ông M
khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Y, cháu L phải tháo dỡ nhà mái bằng để trả lại
hai gian nhà cấp 4 bố mẹ ông đã cho ông M. Quan điểm của ông đề nghị
Tòa án hòa giải để anh em vui vẻ, nếu không đề nghị giải quyết theo pháp luật.
- Chị Phạm Thị Kim O anh Phạm Ngọc C cùng trình bày: Tôi con đẻ
của ông Phạm Văn Đ Nguyễn Thị Y. Bố tôi chết năm 2013, không để lại di
chúc gì. Từ lúc sinh ra và lớn lên, tôi ở với bố mẹ tôi trên khu đất được kế thừa của
tổ tiên, ông bà để lại. Năm nào tôi không nhớ, khi ngôi nhà dột nát, xuống cấp trầm
trọng thì bác Phạm Văn Đ nói mẹ con tôi xây lại làm nơi thờ cúng bố tôi và
sử dụng nên mcon tôi đã xin phép các bác các chú để tháo dỡ căn nhà cấp 4 trên
diện tích đất khoảng 20m
2
và xây nhà mái bằng. Số tiền xây nhà mái bằng là do mẹ
tôi, anh L và chị T đóng góp xây dựng. Nay ông Phạm Văn M kiện mẹ con tôi phải
tháo dỡ nmái bằng hai tầng để trả lại 2 gian nhà ngang cấp 4 cho ông M bồi
thường thiệt hại tôi không đồng ý yêu cầu khởi kịên của ông M. Do điều kiện công
việc, đường xá xa xôi nêni ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Y tham gia tố tng.
- Đại diện UBND xã T trình bày: Theo hồ sơ quản lý đất đai do UBND xã T
lưu giữ thì thửa đất số 317, tờ PL5 tổng diện tích 839m
2
. Trong đó sử dụng
chung 627m
2
, còn lại đất do ủy ban quản lý, diện tích đất này đứng tên đồng sở
hữu ông Đ, ông Đ (ông Đ chết năm 2013); ông Đ1; ông T ông M. Quan điểm
của UB T xác định phần đất Nhà nước đã cấp cho các đồng sở hữu thì đề nghị
Tòa án giải quyết theo pháp luật. Đối với phần diện tích 212m
2
do Ủy ban quản
nằm trong thửa số 317, tờ PL5 quan điểm của không đề nghị giải quyết vụ
án này. Sau này Ủy ban slàm việc trực tiếp các đồng sở hữu đất liên quan để
xử lý, giải quyết theo quy định. Do công việc bận, đại diện UBND T đề nghị
Tòa án xét xử vắng mặt.
Tại phiên toà, nguyên đơn đã trình bày yêu cầu khởi kiện đòi nhà ở, diện
tích đất 20m
2
và bồi thường thiệt hại stiền 150.000.000đng. Kiểm sát viên phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thư phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng
theo quy định pháp luật. Căn cứ khoản 2, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều
39; Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự. Điều 175;
Điều 176; Điều 165, 166, 221, 584 Bộ luật n sự. Điều 170; Điều 203 Lut đất
đai; Nghị quyết s 326 của Ủy ban tờng vụ Quốc hội quy định vmức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lphí Tòa án đ ngh a án
xử: c yêu cu khởi kiện ca ông Phạm Văn M. Về án phí chi phí thẩm định,
định giá tài sản: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân svà quan điểm đề nghị về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Vtố tụng quan htranh chấp: Theo đơn khởi kiện, lời trình bày của
nguyên đơn tại phiên tyêu cầu Tòa án giải quyết bị đơn phải trả lại hai gian nhà
cấp 4 trên diện tích đất khoảng 20m
2
tại thửa đất s 317, tờ bản đồ PL5, diện tích
đất 839m
2
tại thôn G, xã Thụy L, huyện K, tỉnh Hà Nam bồi thường thiệt hại 08
năm không được số tiền 150.000.000đồng. n cứ khoản 2, 6 Điều 26; khoản 1
Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Nam quan hệ
pháp luật được xác định tranh chấp kiện đòi nhà, đất cho mượn bồi thường
thiệt hại. Bị đơn bà Y, anh L và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị
T, Ủy ban nhân dân T đơn đnghị xét xử vắng mặt. Ông Đ1 đã được triệu
tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt. Chị O, anh C ủy quyền cho bà Y. Ông Đ,
ông T ủy quyền cho ông M. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn
tiến hành xét xử vụ án.
[2] Vnội dung: CPhạm Văn Th, sinh năm 1924 chết năm 1986 cụ
Phạm Thị T, sinh năm 1924 chết năm 1986. Các cụ sinh ra được năm người con
gồm ông Phạm Xuân Đ; ông Phạm Văn Đ (ông Đ chết năm 2013), ông Đ vợ
Phạm Thị Y bốn người con anh Phạm Hoàng L, chị Phạm Thị T, chị Phạm
Thị Kim O anh Phạm Ngọc C; ông Phạm Văn Đ1; ông Phạm Văn T ông
Phạm Văn M. Cụ Th cụ T không con nuôi, con riêng bố mnuôi, bố m
các cụ đều đã chết. Trong thời gian chung sống cụ Th, cụ T được cha ông để lại
diện tích đất 839m
2
, trong đó 627m
2
sử dụng chung ngoài ra đất do Ủy ban
quản lý tại thửa đất số 317, tờ bản đồ PL5 tại thôn G, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam.
Trên đất 10 gian nngói, trong đó 5 gian quay hướng Tây 5 gian quay
hướng Nam. Ngày 30/7/2008 UBND huyện Kim Bảng cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AL 812136 tên người sử dụng đất Phạm Văn Đ, Phạm Xuân Đ,
Phạm Văn M, Phạm Văn Đ1, Phạm Văn T, diện tích đất 839m
2
, thửa 317, tờ PL5,
hình thức sử dụng chung 627m
2
tại xóm 1 thôn G, T, huyện K, tỉnh Nam.
Tháng 6/2017 Y đã tháo dỡ 03 gian nhà cấp 4 để xây dựng ngôi nhà 02 tầng
trên diện tích 30m
2
để ở. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không bị cầm cố thế
chấp không ai khiếu nại thắc mắc về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
[3] Xét yêu cầu của ông Phạm Văn M yêu cầu Y, anh L phải trả lại 02
gian nhà cấp 4 thấy: 02 gian nhà cấp 4 lợp ngói (đã dỡ bỏ) có nguồn gốc của các cụ
để lại và là di sản sau khi cụ Th cụ T chết. Các đồng thừa kế đều thống nhất sau
khi các cụ chết không để lại di chúc, nay xảy ra tranh chấp bị đơn không thừa nhận
7
02 gian nhà cấp 4 trên là của ông Phạm Văn M được sở hu vậy việc phân chia
di sản tài sản trên đất trong đó các gian nhà chưa được thực hiện theo quy
định của pháp luật nên không căn cứ khẳng định 02 gian nhà cấp 4 tài sản
thuộc sở hữu của ông Phạm Văn M.
Đối với yêu cầu trả lại 20m
2
đất trên đất 02 gian nhà cấp 4 (đã dỡ bỏ)
thấy: Thửa đất số 317 tờ bản đồ PL5, diện tích đất 839m
2
đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tên người sử dụng ông Phạm Văn Đ, Phạm Xuân Đ, Phạm
Văn M, Phạm Văn Th, Phạm Văn Đ1 được quyền sử dụng chung 627m
2
, còn lại
đất do ủy ban quản lý. Qua lời khai của các đương sự các tài liệu chứng cứ
đã thu thập được thì diện tích đất nguồn gốc do cụ Th, cụ T sau khi chết để lại
hiện nay đứng tên quyền sử dụng đất của các đồng thừa kế nhưng không thể hiện
vị trí đất ca từng người, mỗi người được sử dụng là bao nhiêu mét vuông. Do
việc phân chia tài sản chung chưa được thực hiện theo quy định của pháp luật để
xác định phần quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn M đối với diện tích đứng tên
chung là bao nhiêu mét vuông và ở vị trí nào ông là người được quản lý sử dụng.
Đối với bản phô tô giấy ủy quyền lập ngày 07/5/2017, không có công chứng,
chứng thực do ông M xuất trình và cho rằng giữa ông và bà Y, anh L đã thỏa thuận
việc ông cho mượn 02 gian nhà cấp 4 trên diện tích đất 20m
2
nhưng nội dung giấy
ủy quyền không thể hiện việc ông Mai cho mượn nhà đất mà thể hiện nội dung ông
Mai đồng ý cho tháo dnhà. Mặt khác Y, anh L không thừa nhận việc thỏa
thuận mượn nđất, chữ viết trong giấy y quyền ghi Phạm Hoàng L không phải
do anh L viết tên nên không căn cứ khẳng định 02 gian nhà cấp 4 trên diện tích
đất 20m
2
thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông M.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại 8 năm ông M không đượcnhà đất với
số tiền 150.000.000đồng nhưng ông M không đưa ra được các tài tiệu chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của ông căn cứ hợp pháp nên không được chấp
nhận.
Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ biên bản định giá tài sản ngày
15/11/2023: Diện tích đất 627m
2
x 530.000đồng/m
2
= 332.310.000đồng; 212m
2
đất
trồng cây lâu năm x 72.000đồng/m
2
= 15.264.000đồng. Tài sản trên đất gồm: 01
nhà cấp 4 năm gian đã được sửa chữa giá trị 20.407.200đồng; 01 nhà mái bằng
hai tầng kích thước rộng 5,2m dài 9m xây năm 2017, giá trị 167.865.984
đồng; 01 nhà vệ sinh, 01 bnước đã hết khấu hao. Cây cối trên đất gồm: 02 cây
gạo có giá trị 420.000đồng, 01 cây mít giá trị 1.082.000đồng, 10 cây nhãn chưa
ra quả có giá trị 610.000đồng, 10 cây bưởi giá trị 580.000đồng. Đối với 2 gian nhà
cấp 4 lợp ngói ông M yêu cầu bà Y anh L phải trả lại thì qua xem xét, thẩm định tại
chỗ, kiểm tra hiện trạng thì không còn đã được dbỏ để xây dựng nhà mái
bằng hai tầng do gia đình Y xây, do đó không tiến hành xem xét, thẩm định và
định giá được. Về công sức đóng góp, cải tạo, sửa chữa, trông nom bảo quản 02
gian nhà cấp 4 (đã dỡ bỏ) các đương sự thừa nhận, không có.
8
Từ những nhận định trên căn cứ các Điều 165; Điều 166; Điều 221; Điều
584 Bộ luật Dân sự. Ông Phạm Văn M khởi kiện đòi nhà, đất cho mượn bồi
thường thiệt hại không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận n nguyên
đơn phải chịu án phí dân sự thẩm. Tuy nhiên nguyên đơn người cao tuổi
có đơn xin miễn nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Về chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án
xem xét, thẩm định, định giá tài sản. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng và đã chi phí với
số tiền 3.000.000đồng. Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên
nguyên đơn phải chịu. Nguyên đơn đã nộp đủ.
[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo bản án theo quy
định tại Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147;
Điều 157; Điều 165; Điều 228 Bộ luật t tụng Dân s. Điều 175; Điều 176;
Điều 165; Điều 166; Điều 221; Điều 584 B luật Dân sự. Điều 170; Điu 203
Luật đt đai; Nghquyết s 326 của y ban tờng v Quốc hội quy định v
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên
xử:
1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Phạm n M v yêu cầu buộc bà
Nguyễn Thị Y và anh Phạm Hng L phải tháo dỡ n mái bằng 2 tng đtr li 2 gian
n cấp 4 trên diện tích đất 20m
2
tại thửa đất số 317, tờ bản đồ PL5, diện tích
839m
2
tên người sdụng chung Phạm Văn Đ, Phạm Xuân Đ, Phạm Văn M, Phạm
Văn T, Phạm Văn Đ1, địa chỉ thửa đất: Thôn G, T, huyện K, tỉnh Nam và yêu
cầu bồi thường thiệt hại.
2. Về chi p t tụng: Ông Phạm Văn M phải chịu 3.000.000đồng. Ông M đã
np đ.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phạm Văn M được miễn án phí.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, ktừ ngày tuyên án. Bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính tngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết.
Tng hợp bản án đưc thi hành theo quy định tại Điu 2 Lut thi hành án dân
sự, thì ni được thi nh án dân sự, người phải thi hành án n scó quyền tho
thuận thi hành án, quyn yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
9
- TAND tỉnh Hà Nam (để b/c);
- VKSND huyện Kim Bảng;
- Chi cc THADS huyn Kim Bng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Nguyệt
10
Tải về
Bản án số 06/2024/DS-ST Bản án số 06/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2024/DS-ST Bản án số 06/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất