Bản án số 150/2024/DS-ST ngày 26/08/2024 của TAND Q. Long Biên, TP. Hà Nội về tranh chấp đòi nhà cho thuê
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 150/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 150/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 150/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 150/2024/DS-ST ngày 26/08/2024 của TAND Q. Long Biên, TP. Hà Nội về tranh chấp đòi nhà cho thuê |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đòi nhà cho thuê |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Long Biên (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 150/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng thuê ki ốt |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN LONG BIÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
————————
Bản án số: 150/2024/DS-ST
Ngày: 26/8/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Trần Anh Tuấn
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Xuân Luyện
Bà Nguyễn Thị Cúc
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Tuấn Hiệp - Thư ký Tòa án nhân dân quận
Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Thành phố Hà Nội tham
gia phiên toà: Ông Bùi Bách Thành - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên,
Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 88/2024/TLST-
DS ngày 16/4/2024 về việc "Tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt" theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 56/2024/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2024 và Quyết
định hoãn phiên tòa số 72/2024/QĐST-DS ngày 31 tháng 7 năm 2024, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N.
Địa chỉ: Số 1 đường N, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Thiều Hữu H – Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chiến T (Có mặt).
(Văn bản ủy quyền số 234/UQ-HUDS ngày 22/4/2024)
2. Bị đơn: Ông Đặng Ngọc T
Địa chỉ: Số 8 phố L, phường T, quận H, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội
Địa chỉ : Số 12 phố Lê Lai, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội (Vắng
mặt).
2
Tổng công ty đầu tư phát triển N
Địa chỉ: Toà nhà HUD Tower, số 37 đường L, phường N, quận T, Thành phố Hà
Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoài Đ – Tổng giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trịnh Phú C (Có mặt).
(Văn bản uỷ quyền số 1680/UQ-HUD ngày 03/6/2024)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai và các lời khai tiếp
theo, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Tổng công ty đầu tư phát triển N được giao là chủ đầu tư xây dựng khu đô thị V
tại Quyết định số 3819/QĐ-UB ngày 18/6/2004 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà
Nội.
Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N được giao quản lý, khai thác tài
sản Nhà nước là các Ki ốt tầng 1 các chung cư tại khu đô thị Việt Hưng.
Ngày 01/5/2009 Công ty N ký hợp đồng cho thuê Ki ốt số 123/09/HĐTKÔ
với ông Đặng Ngọc T. Theo hợp đồng, Công ty N cho ông T thuê Ki ốt số 02, nhà
chung cư K1, khu đô thị V, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Diện tích thuê
ban đầu là 29m2, sau điều chỉnh lên 35m2; Thời hạn thuê từ ngày 01/5/2009 đến
hết ngày 15/3/2012; Giá thuê ban đầu 50.000 đồng/m2/tháng.
Sau đó hai bên ký các phụ lục hợp đồng về việc điều chỉnh đơn giá thuê
hàng tháng và diện tích thuê. Sau khi hết thời hạn thuê, hai bên không ký hợp đồng
mới tuy nhiên ông T vẫn tiếp tục sử dụng trái phép mặt bằng Ki ốt. Công ty N đã
nhiều lần yêu cầu ông T thanh toán tiền thuê, bàn giao mặt bằng nhưng ông T
không thực hiện.
HUDS yêu cầu Toà án giải quyết:
- Buộc ông Đặng Ngọc T phải di dời tài sản (nếu có) và trả lại mặt bằng Ki
ốt số 2 tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V;
- Bồi thường cho Công ty N số tiền sử dụng trái phép Ki ốt số 2, tầng 1,
chung cư K1 Khu đô thị V tạm tính từ ngày 01/6/2016 đến ngày 31/7/2020 là
261.486.533 đồng;
- Số tiền bồi thường sẽ tính tiếp kể từ ngày 01/8/2020 cho đến ngày xét xử
cộng với lãi suất chậm trả thi hành án (Nếu có).
- Sau ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn vẫn phải bồi thường cho Công ty N số
tiền phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản thuê cho đến ngày Công
ty N thu hồi xong mặt bằng Ki ốt số 02, tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V.
3
Trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật mà bị đơn chậm thi hành án thì bị đơn
phải trả số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tính
đến ngày Công ty N thu hồi xong mặt bằng Ki ốt số 02, tầng 1, chung cư K1 Khu
đô thị V. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành án được xác định theo quy định của
pháp luật.
Tại bản tự khai, người đại diện theo uỷ quyền của Tổng công ty N trình
bày: Hợp đồng thuê Ki ốt đã hết hạn, các bên không ký hợp đồng mới nhưng bị
đơn vẫn sử dụng trái phép Ki ốt. Nguyên đơn khởi kiện là có cơ sở, đề nghị chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút yêu cầu buộc ông T
phải thanh toán số tiền lãi chậm trả trên số tiền phải thanh toán do sử dụng trái
phép mặt bằng Ki ốt.
Yêu cầu Toà án giải quyết:
- Buộc ông Đặng Ngọc T phải di dời tài sản và trả lại mặt bằng Ki ốt số 2
tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V;
- Bồi thường số tiền sử dụng trái phép Ki ốt số 2, tầng 1, chung cư K1 Khu
đô thị V tạm tính từ ngày 01/6/2016 đến ngày 26/8/2024 là 437.439.225 đồng;
- Sau ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn vẫn phải bồi thường cho Công ty N số
tiền phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản thuê cho đến ngày HUDS
thu hồi xong mặt bằng Ki ốt số 02, tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V. Trường
hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật mà bị đơn chậm thi hành án thì bị đơn phải
trả số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tính đến
ngày Công ty N thu hồi xong mặt bằng Ki ốt số 02, tầng 1, chung cư K1 Khu đô
thị V. Lãi suát phát sinh do chậm thi hành án được xác định theo quy định của
pháp luật.
Đại diện theo uỷ quyền của Tổng công ty N vẫn giữ nguyên ý kiến như đã
trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên toà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử
nghị án đảm bảo thẩm quyền và xác định đúng quan hệ tranh chấp.
Về nội dung: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc
bị đơn phải trả lại Ki ốt và thanh toán cho nguyên đơn số tiền sử dụng Ki ốt từ
ngày 01/6/2016 đến ngày 26/8/2024 là 437.439.225 đồng.
4
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn đã rút tại phiên toà.
Không chấp nhận yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán số tiền sử dụng Ki ốt
phát sinh sau ngày 26/8/2024.
Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh
toán. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được
chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt được quy định
tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, nơi thực hiện hợp đồng tại quận Long Biên,
Thành phố Hà Nội. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng
dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Long
Biên.
Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng đối với bị đơn và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn
cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về yêu cầu trả lại mặt bằng Ki ốt:
Theo Quyết định số 3819/QĐ-UB ngày 18/6/2004 của Uỷ ban nhân dân
Thành phố Hà Nội về việc thu hồi 1.980.233m2 đất tại các phường Việt Hưng,
Giang Biên, Thượng Thanh, Đức Giang giao cho Tổng HUD để đầu tư xây dựng
khu đô thị mới Việt Hưng.
Công ty N được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với các ngành
nghề: Kinh doanh bất động sản, kinh doanh phát triển nhà, khu đô thị và khu công
nghiệp, cung cấp các dịch vụ nhà ở cao tầng, quản lý khu công cộng trong nhà
chung cư, khai thác các dịch vụ Ki ốt …
Sau khi hoàn thành xây dựng dự án và đưa vào sử dụng khu đô thị mới Việt
hưng, Tổng công ty N đã giao cho Công ty N quản lý, vận hành các chung cư bao
gồm quản lý và cho thuê Ki ốt theo Hợp đồng số 114/HĐKT-TCT ngày
14/11/2006 và văn bản số 2836/HUD-PCTT ngày 12/9/2019. Do đó Công ty N đã
ký hợp đồng thuê Ki ốt số 02 chung cư K1 khu đô thị Việt Hưng với ông Đặng
Ngọc T.
Theo hợp đồng cho thuê Ki ốt số 123/09/HĐTKÔ ngày 01/5/2009 Công ty
N cho ông Tuyến thuê Ki ốt số 02, nhà chung cư K1, khu đô thị V, quận Long
Biên, Thành phố Hà Nội. Diện tích thuê ban đầu là 29m2, sau điều chỉnh lên
5
35m2; Thời hạn thuê từ ngày 01/5/2009 đến hết ngày 15/3/2013. Sau khi hết hạn
hợp đồng, hai bên không gia hạn hợp đồng, không ký hợp đồng thuê mới nên xác
định hợp đồng thuê Ki ốt giữa HUDS và ông T đã chấm dứt. Công ty N đã nhiều
lần yêu cầu ông T bàn giao Ki ốt nhưng ông Tuyến không thực hiện mà vẫn tiếp
tục sử dụng. Do đó yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải di dời tài sản
(nếu có) và bàn giao mặt bằng Ki ốt là phù hợp với quy định tại Điều 256 Bộ luật
dân sự năm 2005 nên được chấp nhận.
[3] Về yêu cầu thanh toán số tiền thuê Ki ốt và bồi thường thiệt hại tương
ứng với số tiền sử dụng Ki ốt từ ngày 01/6/2016:
Hợp đồng thuê Ki ốt đã hết hạn và hai bên không ký hợp đồng thuê mới
nhưng bị đơn vẫn tiếp tục sử dụng mà không trả lại tài sản thuê đã gây thiệt hại cho
nguyên đơn do không bàn giao được mặt bằng cho Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà
Nội để kinh doanh khai thác, do đó cần buộc bị đơn phải thanh toán số tiền thuê Ki
ốt và bồi thường thiệt hại tương ứng với tiền thuê mặt bằng đến ngày xét xử.
[4] Về diện tích Ki ốt: Theo hợp đồng, diện tích thuê ban đầu là 29m2, sau
điều chỉnh lên 35m2, sau đó Công ty N đã đo đạc lại và xác định diện tích Ki ốt là
31,3m2 để làm cơ sở tính tiền thuê. Việc điều chỉnh giảm diện tích thuê có lợi cho
bị đơn nên ghi nhận sự tự nguyện của Công ty N.
[5] Về đơn giá để truy thu tiền thuê: Công ty N căn cứ vào đơn giá tại Phụ
lục kèm theo văn bản số 462/UBND-ĐT ngày 17/02/2021 của UBND thành phố
Hà Nội để làm cơ sở truy thu tiền thuê kiốt, theo đó giá thuê kiốt là 141.359
đồng/m2/tháng, đơn giá này đã được UBND Thành phố tham khảo trên cơ sở
Chứng thư số 72201/CT-VVGC/BAN5 ngày 22/7/2020 của Công ty Cổ phần
Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam. Do vậy, Công ty Công ty N thực hiện
việc áp giá truy thu theo văn bản số 462/UBND-ĐT ngày 17/02/2021 của UBND
thành phố Hà Nội là có cơ sở.
[6] Về số tiền truy thu: Công ty N yêu cầu Toà án buộc ông T phải trả số
tiền tính từ ngày 01/06/2016 đến ngày 26/8/2024 là 437.439.225 đồng là có căn
cứ nên được chấp nhận.
[7] Về yêu cầu buộc bị đơn phải bồi thường số tiền phát sinh sau ngày xét
xử sơ thẩm cho đến khi thu hồi xong mặt bằng Ki ốt: Xét thấy trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế thành tiền do bên vi phạm gây ra. Tuy nhiên sau ngày xét
xử chưa có tổn thất thực tế nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu này của
nguyên đơn.
Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án, cần áp dụng Điều 357,
468 Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất trong thời gian chậm thi hành án.
6
[8] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải
thanh toán.
Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được
chấp nhận.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40;
Điều 146, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 256, 305, 401,
402, 490 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 280, 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành
viên dịch vụ N đối với ông Đặng Ngọc T.
Buộc ông Đặng Ngọc T phải di dời tài sản ra khỏi Ki ốt, trả lại mặt bằng Ki
ốt số 02, nhà chung cư K1, khu đô thị V, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội cho
Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N.
Buộc ông Đặng Ngọc T phải thanh toán tiền sử dụng Ki ốt số 02, nhà chung
cư K1, khu đô thị V, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội từ ngày 01/6/2016 đến
ngày 26/8/2024 cho Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N với số tiền là
437.439.225 (Bốn trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm ba mươi chín ngàn hai trăm hai
mươi lăm) đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu nguyên đơn đã rút tại phiên toà.
Không chấp nhận yêu cầu buộc bị đơn phải bồi thường số tiền phát sinh sau
ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thu hồi xong mặt bằng Ki ốt của nguyên đơn.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, người phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Ông Đặng Ngọc T phải chịu 11.497.569 (Mười một triệu bốn trăm chín mươi
bảy ngàn năm trăm sáu mươi chín) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N phải chịu 300.000 đồng án phí dân
sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 6.537.000 (Sáu triệu năm trăm ba
mươi bảy ngàn) đồng đã nộp tại biên lai số 18635 ngày 10/4/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự quận Long Biên. Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N được
nhận lại 6.237.000 (Sáu triệu hai trăm ba mươi bảy ngàn) đồng.
7
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội;
- Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên;
- Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên;
- Đương sự;
- Lưu VP, HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Anh Tuấn
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
8
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội;
- Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên;
- Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên;
- Đương sự;
- Lưu VP, HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Anh Tuấn
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO XÉT XỬ VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Kính gửi: Lãnh đạo Toà án nhân dân quận Đống Đa
Tôi là Trần Anh Tuấn, Thẩm phán
Báo cáo vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 41/2022/TLST-KDTM ngày
16/5/2022 về việc "Tranh chấp hợp đồng tín dụng", giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
2. Bị đơn: Công ty TNHH Sơn Phúc
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Ngọc Sơn, ông
Nguyễn Quốc Cường
NỘI DUNG VỤ ÁN
9
Ngày 09/10/2018 Công ty TNHH Sơn Phúc và Ngân hàng TMCP Việt
Nam Thịnh Vượng ký hợp đồng cho vay số 011018-5107984-01-SME. Theo hợp
đồng, Ngân hàng cho Công ty vay số tiền hạn mức 1.000.000.000 đồng
Ngày 09/10/2018 ông Bùi Ngọc Sơn và Ngân hàng đã ký hợp đồng bảo
lãnh số 5107984/HĐBL/VPBANK-01-SME. Ngày 09/10/2018 ông Nguyễn
Quốc Cường và Ngân hàng đã ký hợp đồng bảo lãnh số
5107984/HĐBL/VPBANK-02-SME. Theo hợp đồng bảo lãnh, ông Sơn và ông
Cường đồng ý bằng toàn bộ tài sản của mình bảo lãnh vô điều kiện và không huỷ
ngang cho bên được bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cho vay số
011018-5107984-01-SME ngày 09/10/2018.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán
theo thỏa thuận.
Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty phải thanh toán toàn bộ
số tiền còn nợ; Tiếp tục tính lãi, phạt chậm trả lãi theo thỏa thuận của hợp đồng
tín dụng; Trường hợp Công ty không trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản thuộc quyền sở hữu của Công ty, ông
Bùi Ngọc Sơn, ông Nguyễn Quốc Cường để thu hồi nợ.
Thẩm phán đề xuất:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Về án phí : Bị đơn phải chịu án phí KDTM
Người báo cáo
Trần Anh Tuấn
10
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
11
Độc lập - Tự do - Hạnh phỳc
-------- --------
BÁO CÁO
XẫT XỬ VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Kính gửi: lãnh đạo Tòa án nhân dân quận Đống Đa
Tôi là: Trần Anh Tuấn, thẩm phán
Xin báo cáo vụ án Kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số 139/2020/TLST-KDTM
ngày 17/11/2020 về việc "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" giữa:
12
1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
2. Bị đơn: Công ty TNHH Đá Trường Gia
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hữu Trường
Nội dung vụ án
Ngày 21/6/2018 Công ty TNHH Đá Trường Gia (Sau đây viết tắt là Công ty) và Ngân
hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (Sau đây viết tắt là Ngân hàng) ký hợp đồng cho vay hạn
mức số 200618-4802701-01-SME. Theo hợp đồng, Ngân hàng cho Công ty vay số tiền hạn
mức 1.000.000.000 đồng, mục đích vay: Bổ sung vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh,
thời hạn vay 12 tháng.
Ngày 21/6/2018 ông Trịnh Hữu Trường và Ngân hàng đã ký hợp đồng bảo lãnh số
200618-4802701/HĐBL/VPBANK. Theo hợp đồng, ông Trường đồng ý bằng toàn bộ tài sản
của mình bảo lãnh vô điều kiện và không huỷ ngang cho bên được bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng cho vay hạn mức số số 200618-4802701-01-SME ngày 21/6/2018.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty thông qua 04 khế ước nhận
nợ:
- Khế ước nhận nợ số 210618 ngày 21/6/2018: Số tiền vay 1.000.000.000 đồng, thời
hạn vay 12 tháng, lãi suất 21,9%/năm;
- Khế ước nhận nợ số 220818 ngày 22/8/2018: Số tiền vay 165.000.000 đồng, thời hạn
vay 12 tháng, lãi suất 24,9%/năm;
- Khế ước nhận nợ số 280918 ngày 28/9/2018: Số tiền vay 95.040.000 đồng, thời hạn
vay 12 tháng, lãi suất 25,2%/năm, điều chỉnh 03 tháng 1 lần + biên độ 9%;
- Khế ước nhận nợ số 251018 ngày 25/10/2018: Số tiền vay 99.990.000 đồng, thời hạn
vay 12 tháng, lãi suất 25,2%/năm.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận.
Ngày Ngân hàng đã chuyển toàn bộ khoản nợ của Công ty sang nợ quá hạn.
Tính đến ngày 28/6/2021 Công ty còn nợ Ngân hàng số tiền 1.403.031.670 đồng trong
đó nợ gốc là 622.941.213 đồng, nợ lãi là 683.167.503 đồng, phạt chậm trả lãi là 96.922.503
đồng.
Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty phải thanh toán toàn bộ số tiền còn
nợ; Tiếp tục tính lãi, phạt chậm trả lãi theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng cho đến khi
thanh toán xong khoản nợ; Trường hợp Công ty không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh, kê biên, phát
mại tài sản thuộc quyền sở hữu của Công ty và ông Trịnh Hữu Trường để thu hồi nợ.
13
y 21/6/2018 Công ty TNHH Đá Trường Gia (Sau đây viết tắt là Công ty) và
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (Sau đây viết tắt là Ngân hàng) ký hợp
đồng cho vay hạn mức số 200618-4802701-01-SME. Theo hợp đồng, Ngân hàng
cho Công ty vay số tiền hạn mức 1.000.000.000 đồng, mục đích vay: Bổ sung vốn
lưu động cho hoạt động kinh doanh, thời hạn vay 12 tháng.
Ngày 21/6/2018 ông Trịnh Hữu Trường và Ngân hàng đã ký hợp đồng bảo
lãnh số 200618-4802701/HĐBL/VPBANK. Theo hợp đồng, ông Trường đồng ý
bằng toàn bộ tài sản của mình bảo lãnh vô điều kiện và không huỷ ngang cho bên
được bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cho vay hạn mức số số
200618-4802701-01-SME ngày 21/6/2018.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty thông qua 04 khế
ước nhận nợ:
* Ngày 15/9/2010 Công ty cổ phần công nghệ Tinh hoa Châu Á (Sau đây
viết tắt là Công ty) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (Sau đây viết tắt
là Ngân hàng) ký hợp đồng tín dụng số LD1025700023. Theo hợp đồng, Ngân
hàng cho Công ty vay số tiền 300.000.000 đồng, mục đích vay: Thanh toán tiền
mua xe ô tô, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất vay
Tài sản đảm bảo cho khoản vay là ô tô nhãn hiệu Toyota Yaris, biển kiểm
soát 31F-4229 thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Công ty.
Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty số tiền 300.000.000 đồng thông qua
khế ước nhận nợ số LD1025700023 ngày 15/9/2010
* Ngày 01/3/2011 Công ty cổ phần công nghệ Tinh hoa Châu Á (Sau đây
viết tắt là Công ty) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (Sau đây viết tắt
là Ngân hàng) ký hợp đồng tín dụng hạn mức số LD1106000120/ LD1106100199.
Theo hợp đồng Ngân hàng cho Công ty vay 30.000.000.000 đồng, thời hạn vay 12
tháng, mục đích vay: Bổ sung vốn lưu động kinh doanh, lãi suất vay quy định theo
từng khế ước nhận nợ.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay là:
- Căn hộ 101 và 201 nhà C1 tập thể Vĩnh Hồ, phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội, tổng diện tích 38,8 m2. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10109355479 do UBND Thành phố Hà Nội
cấp ngày 05/6/2003 cho ông Trần Bình Thuận và bà Vũ Thị Hòa.
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ
số 00, diện tích 103 m2, địa chỉ: Số 24 ngõ 19 đường Thanh Bình, phường Mộ
Lao, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 167540 do UBND quận
Hà Đông cấp ngày 01/12/2010 cho ông Trần Bình Thuận.
14
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số ..., tờ bản đồ
số ......., diện tích........., địa chỉ: Số 56 ngõ 203 Tôn Đức Thắng, phường Hàng Bột,
quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở số 10109092802 do UBND quận Đống Đa cấp ngày 28/10/2003 cho
ông Trần Bình Thuận và bà Vũ Thị Hòa.
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 86, tờ bản đồ
số 5, diện tích 229 m2, địa chỉ: Xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 432663 do UBND huyện Từ Liêm cấp
ngày 16/12/2003 cho hộ gia đình ông Lưu Đức Tuyển, sang tên cho ông Trần Bình
Thuận ngày 02/12/2010.
- Căn hộ số 15 Đường Thành, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Thành
phố Hà Nội, diện tích 17,1 m2. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở số 10105255065 do UBND Thành phố Hà Nội cấp ngày 16/10/2000
cho ông Nguyễn Đức Thành và bà Trần Thị Tuyết Trinh.
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 181, 182, tờ
bản đồ số 35, địa chỉ: Xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất sô BI
169029 do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 28/11/2011 cho ông Nguyễn Đức
Tiến.
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ
số....., địa chỉ: Số 38/198 Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
số 101110511837 do UBND Thành phố Hà Nội cấp ngày 06/10/2003 cho ông
Thiều Nhật Tình và bà Bùi Thị Thanh.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đó giải ngân 30.000.000.000 đồng cho
Công ty thông qua 16 khế ước nhận nợ:
Tính đến ngày 11/10/2012 Công ty còn nợ Ngân hàng số tiền
35.972.308.518 đồng trong đó nợ gốc là 30.164.000.000 đồng, nợ lãi là
4.391.937.923 đồng, phạt chậm trả lãi là 1.416.370.595 đồng.
Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty phải thanh toán toàn
bộ số tiền còn nợ; Tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng cho đến
khi thanh toán xong khoản nợ; Trường hợp Công ty không trả nợ thì Ngan hàng có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
Tại bản tự khai, Công ty trình bày: Công ty có ký 02 hợp đồng tín dụng với
Ngân hàng để vay tiền. Do kinh tế khó khăn nên Công ty chưa thanh toán được
khoản nợ. Công ty đề nghị Ngân hàng cho thêm thời gian để tìm phương án trả nợ.
Tại bản tự khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Thiều Nhật
Tình, bà Bùi Thị Thanh trình bày: Ông, bà thống nhất dùng tài sản thuộc quyền sở
hữu là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ
15
số....., địa chỉ: Số 38/198 Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội để đảm bảo cho khoản vay của Công ty. Ông đề nghị Ngân
hàng cho ông trả tiền và Giải chấp tài sản trên.
Ông Nguyễn Đức Thành và bà Trần Thị Tuyết Trinh trình bày: Ông, bà
thống nhất dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình là căn hộ số nhà 15 Đường
Thành, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội thế chấp cho
Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của Công ty. Ông, bà sẽ trả tiền và đề nghị
Ngân hàng giải chấp tài sản trên.
Ông Trần Bình Thuận, bà Vũ Thị Hòa trình bày: Ông, bà có ký hợp đồng thế
chấp tài sản với Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của Công ty. Tài sản thế
chấp là căn hộ 101 và 201 nhà C1 tập thể Vĩnh Hồ, phường Thịnh Quang, quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Ông, bà đề nghị sẽ đưa tài sản khác thế chấp cho
Ngân hàng thay thế cho tài sản trên.
Ông Nguyễn Đức Tiến trình bày: Ông có ký hợp đồng thế chấp với Ngân
hàng để đảm bảo cho khoản vay của Công ty. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 181, 182, tờ bản đồ số 35, địa chỉ: Xã
Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Do Công ty khó khăn nên ông đề
nghị Ngân hàng bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Ông Lưu Đức Tuyển trình bày: Ông đồng ý cho chị Trần Thị Nguyệt mượn
tài sản là nhà đất của ông để vay tiền làm ăn. Ông cùng vợ và 2 con lập hợp đồng
ủy quyền cho chị Nguyệt nhưng có thỏa thuận miệng là chị Nguyệt chỉ được vay 1
tỷ đồng. Ông cho rằng tài sản đang thế chấp cho Ngân hàng được cấp cho hộ gia
đình ông trong đó có anh Phạm Văn Huy, tuy nhiên hợp đồng ủy quyền cho chị
Nguyệt không có chữ ký của anh Huy. Ông đề nghị xem xét.
Chị Trần Thị Nguyệt khai chị có mượn nhà đất của ông Tuyển để vay tiền
chị Trần Thị Kim Xuân. Chị có ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất với chị Xuân
nhưng chỉ nhằm mục đích vay tiền. Chị đề nghị Tòa án để chị trả chị Xuân tiền vay
và trả lại tài sản cho ông Tuyển.
Chị Trần Thị Kim Xuân khai : Chị có mua bán nhà đất với chị Trần Thị
Nguyệt. Khi mua chị đã kiểm tra thấy chị Nguyệt có giấy ủy quyền cho chị Nguyệt
nên chị mới mua. Việc mua bán đã làm đầy đủ thủ tục và đã sang tên chị. Chị
khẳng định chị không cho chị Nguyệt vay tiền mà chỉ mua bán nhà đất với chị
Nguyệt
Ông Lưu Đức Tuyển có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu
hợp đồng ủy quyền của ông với chị Nguyệt và các hợp đồng chuyển nhượng nhà
đất của ông và hợp đồng thế chấp
Quá trình giải quyết vụ án, Công ty đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ
của hợp đồng tín dụng số LD1025700023 ngày 15/9/2010. Ngân hàng đã giải chấp
cho công ty tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô Toyota Yaris, biển kiểm soát 31F-
4229.
16
Ngân hàng giải chấp tài sản thế chấp ở 15 Đường Thành và thửa đất số
181,182 xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm và có đơn xin rút 1 phần yêu cầu khởi kiện
Thẩm phán đề xuất :
- Về yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ gốc:
Căn cứ hợp đồng tín dụng, Ngõn hàng đó cho giải ngân cho Công ty vay
30.000.000.000 đồng theo 16 khế ước nhận nợ. Do đó chấp nhận yêu cầu của Ngân
hàng về số tiền nợ gốc.
- Đối với yêu cầu tính lãi: hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ quy định về
lãi suất cho vay, lãi suất quá hạn, cách thức tính lãi. Quá trình thực hiện hợp đồng,
Công ty đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Ngân hàng đã chuyển toàn
bộ khoản vay sang nợ quá hạn là đúng quy định của hợp đồng tín dụng đó ký kết. Do
đó yêu cầu về khoản nợ lãi là phự hợp với quy định của pháp luật và được chấp
nhận.
Do vậy cần buộc ụng Cường, bà Hạnh phải trả cho Ngõn hàng số tiền cũn nợ.
- Đối với yêu cầu độc lập của người liên quan: Thời điểm ký hợp đồng ủy
quyền, anh Phạm Văn Huy chưa đủ 15 tuổi nên theo quy định tại Điều 109 BLDS
hợp đồng ủy quyền có hiệu lực pháp luật. Do đó không chấp nhận yêu cầu của opong
Tuyển
Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí KDTM.
Ông Tuyển phải chịu án phí do yêu cầu độc lập không được chấp nhận
Người báo cáo
Trần Anh Tuấn
Tải về
Bản án số 150/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 150/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 12/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm