Bản án số 326/2024/DS-PT ngày 20/11/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 326/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 326/2024/DS-PT ngày 20/11/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 326/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 13/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 326/2024/DS-PT
Ngày: 20/11/2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tào
Các thẩm phán: Ông Trần Đức Kiên
Ông Phạm Tồn
- Thư ký phiên tòa: Bà Văn Thị Mỹ Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Quách Hòa Bình - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên
tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 116/2024/TLPT-DS ngày
28/6/2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2031/2024/QĐ-PT ngày 01
tháng 11 năm 2024; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1961; địa chỉ: thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh
Quảng Bình. Có mặt.
- Đồng bị đơn: Ông Hồ Xuân H, sinh năm 1950 và bà Lê Thị L1, sinh năm 1959;
địa chỉ: thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Bà L1, có mặt; ông H, V.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Minh T - Văn
phòng L6, địa chỉ: Số G T, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Trần Thị H1, sinh năm 1985; địa chỉ: phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình. Vắng.
Hiện tạm trú tại: 300-2706, thành phố J, IBARAKI, Nhật Bản; có văn bản ủy quyền
tham gia tố tụng cho bà Lê Thị L. Có mặt.
2
2. Anh Trần Lê H2, sinh năm 1991; địa chỉ: thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Quảng
Bình; văn bản ủy quyền tham gia tố tụng cho bà Lê Thị L. Có mặt.
3. Ông Nguyễn Quang C, sinh năm 1959; địa chỉ: 3 B, phường A, thành phố V,
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vắng.
Người kháng cáo: Hồ Xuân H và bà Lê Thị L1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị L
trình bày:
Năm 1995, vợ chồng bà được ông Nguyễn Quang C là người cùng thôn Quốc lộ A
A, xã H (xã H cũ), huyện B, tỉnh Quảng Bình nhượng lại thửa đất mà trước đó ông
Nguyễn Quang C đã đăng ký mua tại UBND xã H. Ngày 30/12/2003, vợ chồng bà
được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối
với thửa đất số 245, tờ bản đồ số 11, diện tích 84,0 m
2
tại xã H (nay là xã H), huyện
B, tỉnh Quảng Bình theo GCNQSDĐ số Y 347790, số vào số cấp giấy chứng nhận
số 00289 QSDĐ/2598/QĐ-UB mang tên hộ ông, bà Trần Quốc B, Lê Thị L. Thửa
đất có vị trí tiếp giáp các cạnh cụ thể như sau: Phía Bắc giáp đường đi; phía Đông
giáp thửa số 244 (hiện tại là nhà bà H3), phía Nam giáp thửa số 272 (hiện tại là nhà
ông H, bà L1) và thửa số 271 (hiện tại là nhà ông Lê Minh L2), phía Tây giáp thửa
số 246 (hiện tại là nhà bà Trần Thị H4). Năm 2010, ông H, bà L1 đã lấn chiếm 8m
2
đất hình tam giác của ông, bà ở vị trí cạnh phía Đông dài 8m giáp thửa số 244 (hiện
tại là nhà bà H3), cạnh phía Nam dài 2m giáp thửa số 272 (hiện tại là nhà ông H,
bà L1). Trên phần đất lấn chiếm này ông H, bà L1 xây tường gạch bao quanh cao
khoảng 1,5m để làm nơi rửa và nơi phơi quần áo. Vào năm 2000 khi phát hiện ông
H, bà L1 rào dây thép gai bao chiếm phần đất của gia đình, bà đã nhiều lần yêu cầu
ông H, bà L1 phá bỏ trả lại diện tích đất thì ông H, bà L1 hứa hẹn sẽ trả lại phần
đất này khi gia đình bà xây nhà, nhưng sau đó ông H, bà L1 không thực hiện mà
tiếp tục tháo dỡ dây thép gai và xây bằng tường gạch kiên cố. Ngày 25/12/2019,
UBND xã tổ chức hoà giải về việc lấn chiếm đất đai tại các cuộc hòa giải gia đình
ông H5 nói sẽ tháo dỡ tường xây trả lại đất cho gia đình bà nhưng sau đó không
thực hiện. Năm 2022, bà gửi tiếp đơn đến UBND xã yêu cầu giải quyết tranh chấp
thì tại cuộc hòa giải ngày 27/10/2022, ông H, bà L1 lại xuất trình Giấy bán đất của
ông Nguyễn Quang C cho người chủ trị hoả giải và bỏ ra về. Theo bà tìm hiểu thì
ông H, bà L1 có mua của ông C 1 miếng đất hình tam giác giáp với cạnh phía Nam
thửa đất số 245 của gia đình bà và diện tích đất này đã được ông H, bà L1 làm nhà
ở kiên cố từ trước năm 2000. Hiện nay, thửa đất số 145 đã được UBND huyện B
cấp GCNQSDĐ cho gia đình bà có tổng diện tích 84m
2
, nhưng ông H, bà L1 đã lấn
chiếm 8m
2
nên hiện tại thửa đất này chỉ có 76m
2
. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu buộc
ông H, bà L1 phải trả lại 8m
2
đất đã lấn chiếm, đồng thời tháo dỡ, di dời toàn bộ
các tài sản trên phần diện tích đất đã lấn chiếm.
* Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Hồ Xuân H và bà Lê
Thị L1 thống nhất trình bày:
3
Trên thực tế phần diện tích 8m
2
đất mà bà L2 khởi kiện và cho rằng gia đình ông,
bà bà lấn chiếm là không đúng, bởi vì toàn bộ phần đất này ông, bà nhận chuyển
nhượng của ông Nguyễn Văn C1 (ông C1 hiện đang sinh sống tại M nhưng không
rõ địa chỉ) vào ngày 16/11/1995 và việc chuyển nhượng được lập bằng giấy viết
tay giữa các bên (BL:43). Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình đã thuê thợ xây
là ông Phan Văn H6, Trần Văn Đ tiến hành xây dựng công trình phụ một cách công
khai và có sự chứng kiến của vợ chồng ông B, bà L2. Do đó, vào khoảng năm 2002
bà L2 và ông B cũng đã tiến hành xây dựng móng nhà bao quanh phần đất đã mua
của ông C1. Hiện tại, phần móng nhà do gia đình bà L2 tự xây dựng vẫn còn tồn
tại trên thửa đất, vì vậy ông bà đề nghị Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ
đối với phần móng này để làm cơ sở giải quyết vụ án khách quan, đúng thực tế sử
dụng đất của các bên. Ngoài ra ông bà cho rằng vào năm 2019-2020 ông B chồng
bà L2 đã bán cho vợ chồng ông bà L2, Thấy khoảng 6m
2
. Do đó ông, bà đề nghị
Tòa án bác đơn khởi kiện.
* Tại bản tự khai ngày 13/5/2024, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Quang C trình bày: Vào khoảng năm 1991, sau khi nhà ông bị giải tỏa để
làm chợ L7 thì Ban đền bù giải tỏa có cấp lại một mảnh đất hình tam giác ngay phía
sau lô đất của mệ T (mẹ của ông), bà L3 (vợ ông H, ông L2, ông L4…Khoảng đầu
năm 1992, ông có nhượng lại cho bà L3 một mảnh đất nhỏ ngày phía sau đất của
chị L5 đã trúng đấu giá với số tiền 1.000.0000 đồng. Về diện tích, hình dạng phần
đất đã bán ông không nhớ rõ, không có giấy tờ, bản vẻ gì mà chỉ xếp đá làm mốc
giới. Cuối năm 1992, ông nhượng lại cho ông B (chồng bà L2) phần đất còn lại
sau khi đã trừ phần ông đã lấy lại (phần sau lưng nhà mẹ ông) và phần đã nhượng
lại cho bà L3. Với việc ông B nộp đủ phần tiền của cả mảnh đất cấp cho ông là
5.000.000 đồng. Sau khi vào làm việc tại Vũng Tàu từ năm 1992, thì năm 1994 ông
đã vào Vũng Tàu sinh sống và không biết gì về chuyển nhượng đất đai và không
viết giấy sang nhượng đất cho ai.
* Những người làm chứng ông Trần Văn Đ, Phan Văn H6 đều trình bày với nội
dung (BL:44-45): Vào khoảng 07 giờ ngày 12/8/2002 âm lịch, gia đình ông H đã
thuê các ông xây dựng bức tường làm ranh giới giữa hai nhà. Sau khoảng 01 giờ
tiến hành đo đạc, các ông mới căng dây và xây tường ngăn cách giữa hai thửa đất
trước sự chứng kiến của ông B, bà L2 và bà con lối xóm; đến nay đã 21 năm bức
tường ngăn vẫn còn nguyên vẹn và không có gì thay đổi.
* Tại giấy xác nhận đề ngày 18/12/2023 (BL:134) người làm chứng bà Lê Thị
T1 trình bày: Năm 1995, gia đình bà có mua một mảnh đất của ông Nguyễn Quang
C diện tích 25m
2
, trong đó 01 cạnh chung với mảnh đất của gia đình ông H 8m
2
đã
mua của ông C. Mảnh đất của bà và mảnh đất ông H có phần sau tiếp giáp với móng
phía sau của ông H và ông Lê Minh L2. Vào năm 2002, ông H làm nhà và xảy ra
tranh chấp nhưng các bên đã đồng thuận giải quyết, chính ông B và bà L2 đứng ra
cho người đo đạc, căng dây để cho gia đình ông H thuê thợ xây tường ngăn giữa
hai nhà và hiện trạng đến nay không thay đổi.
4
* Tại giấy xác nhận đề ngày 18/12/2023, người làm chứng ông Lê Minh L2 và
bà Hoàng Thị T2 trình bày: Năm 1992, gia đình ông bà có mua 03m
2
đất của ông
B, bà L2 trước khi được cấp GCNQSDĐ.
* Theo kết quả đo vẽ xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ngày 28/11/2023:
- Về vị trí đất tranh chấp:
+ Theo chỉ dẫn của bà L2 xác định thửa đất số 27 (thửa 245 cũ) có tổng diện tích
83,2m
2
(tính từ các điểm 1-2-3-4-5-6-7-8-9-10 trên sơ đồ).
+ Theo chỉ dẫn của ông H, bà L1 thì tổng diện tích sử dụng trên thực tế là 129,8m
2
;
tính từ các điểm 2-3-4-5-6-7-11-12-13-14-15-16 trên sơ đồ. Trong đó có 21,5m
2
thuộc đất hành lang giao thông; tính từ các điểm 13-14-15-16 trên sơ đồ và 9,8m
2
mà các bên đang xảy ra tranh chấp, tính từ các điểm 2-3-4-5-6-7-12-11 trên sơ đồ
(BL:93) nằm trong thửa đất số 27 (thửa 245 cũ) đã được cấp GCNQSDĐ cho hộ
ông B, bà L2.
- Về giá đất: Hội đồng định giá căn cứ Quyết định số 40/2019/QĐ-UBND ngày
20/12/2019 của UBND tỉnh Q quy định bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2020 - 2024 xác định đất thuộc vị trí 1, khu vực 2 nông thôn,
xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có giá trị đất ở: 142.000 đồng/m
2
; đất vườn có
giá: 33.000 đồng/m
2
.
Các tài sản hiện có trên phần diện tích 9,8m
2
đất tranh chấp gồm có: Mái be tầng
1, 2 xây bằng bê tông gắn liền với nhà ở của ông H, bà L1 tại tầng, diện tích mỗi
sàn (2,57x1,37) x 2 x 828.000 đồng/01m
2
; có tổng giá trị 5.830.610 đồng. Hàng rào
xây bằng bê tông cốt thép, cọc bê tông lưới B40 bao quanh (từ điểm 2-11-12-7) cao
1.8m, dài 5,5m x 1.130.000 đồng = 6.215.000 đồng; 01 cây lá vối trồng năm 2002
có giá: 171.000 đồng/cây. Toàn bộ tài sản trên do ông H và bà L1 xây dựng.
* Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/01/2024: Thể hiện 01 đoạn
móng nhà dài 8,40m, rộng 0,3m do gia đình ông B, bà L2 xây dựng năm 2000 tiếp
giáp với phần tường rào nhà ông H, bà L1 xây dựng năm 2002.
Sau khi nhận được biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả đo vẽ và định giá
tài sản các bên đương sự đều thống nhất và không có ý kiến yêu cầu gì thêm. Tuy
nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án bà L2 cho rằng kết quả định giá của Hội
đồng định giá là quá thấp so với giá thị trường, cho nên bà L2 cung cấp Chứng thư
thẩm định giá số: 0408.4/CT/TVĐN.QB ngày 08/4/2024 của Công ty Cổ phần Đ1
xác định 01m
2
đất tại thửa đất số 245, tờ bản đồ số 11 (nay là thửa đất số 27, tờ bản
đồ số 8) tại xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình có giá là 15.230.000 đồng/01m
2
và
yêu cầu Tòa án sử dụng kết quả định giá độc lập để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024, Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26; Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 157, 158;
khoản 2 Điều 479 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 163,164, 166, 169 Bộ luật
dân sự 2015; Điều 50 Luật đất đai 2003; các Điều 100, 166, 170, 202, 203 Luật đất
đai 2013; điểm đ Điều 12, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
5
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Buộc ông Hồ Xuân H và bà Lê Thị L1 trả lại 9,8m
2
đất lấn chiếm tại thửa đất số
245 (nay là thửa đất số 27), tờ bản đồ số 11 (nay là tờ bản đồ số 8), diện tích 84m
2
đất ở lâu dài, tại xã H (nay là xã H), huyện B, tỉnh Quảng Bình đã được UBND
huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ số phát hành: Y347790, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận 00280 QSDĐ/2598/QĐ-UB cho hộ ông, bà Trần Quốc B- Lê Thị
L vào ngày 31/12/2003. Trong đó:
Buộc ông Hồ Xuân H và bà Lê Thị L1 phải tháo dỡ, phá bỏ hàng rào và di dời,
chặt bỏ 01 cây vối và các tài sản khác trên diện tích 6,27m
2
đất (tính từ các điểm 2-
3-4-12-11-2 trên sơ đồ) để trả lại nguyên hiện trạng đất cho bà Lê Thị L.
Đối với phần diện tích đất còn lại 3,5209m
2
(tính từ các điểm 4-5-6-12 trên sơ đồ)
do có công trình xây dựng kiên cố không thể tháo dỡ nên buộc ông Hồ Xuân H và
bà Lê Thị L1 phải trả lại giá trị đất cho bà bà Lê Thị L bằng tiền là 53.623.000
đồng.
(Kèm theo bản án là bản đồ đo vẽ thửa đất vào ngày 28/11/2023 là một phần không
thể tách rời của bản án)
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm
và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/5/2024, bị đơn ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 kháng cáo cho rằng tại đơn
khởi kiện của bà Lê Thị L chỉ yêu cầu vợ chồng ông bà trả lại diện tích đất lấn
chiếm là 8m
2
nhưng Tòa án sơ thẩm buộc vợ chồng ông bà phải trả 9,8 m
2
là không
đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm không
áp dụng bản giá đất của UBND tỉnh Q mà áp dụng giá của Chứng thư thẩm định
giá của Công ty cổ phần Đ1 do nguyên đơn cung cấp làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông bà.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan
điểm về giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham
gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ
Xuân H, bà Lê Thị L1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, án sơ thẩm không
tuyên vợ chồng ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 được quyền sở hữu, sử dụng diện
tích đất 3,5209m
2
là thiếu sót, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bổ sung nội
dung này vào phần quyết định để đảm bảo việc thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên
tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:
6
[1]. Xét kháng cáo của ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1:
[1.1]. Về nội dung cho rằng tại đơn khởi kiện của bà Lê Thị L chỉ yêu cầu vợ chồng
ông bà trả lại diện tích đất lấn chiếm là 8m
2
nhưng Tòa án sơ thẩm buộc vợ chồng
ông bà phải trả 9,8m
2
là không đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xét
thấy:
Tại Đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, bà L xác định vợ chồng ông Hồ
Xuân H, bà Lê Thị L1 lấn chiếm diện tích đất của bà là 8m
2
. Tuy nhiên ngày
28/11/2023, Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ kèm theo Sơ đồ hiện trạng
thửa đất số 27 và thửa đất số 46 tờ bản đồ số 8, xác định diện tích đất lấn chiếm và
tranh chấp là 9,8m
2
. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc vợ chồng ông Hồ Xuân
H, bà Lê Thị L1 trả 9,8m
2
cho bà L là đúng pháp luật, không vượt quá yêu cầu khởi
kiện.
[1.2]. Về nội dung Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng bản giá đất của UBND tỉnh
Q mà áp dụng giá của Chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần Đ1 do nguyên
đơn cung cấp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng ông bà; xét thấy:
- Đối với giá trị đất thì tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản
ngày 28/11/2023 (BL:94-95); trong đó có giá trị về đất theo kết luận của Hội đồng
định giá là 142.000.000 đồng/01m
2
. Nhưng tại phiên tòa 21/3/2024 phía nguyên
đơn lại có ý kiến phản đối cho rằng giá đất của Hội đồng định giá theo tố tụng dân
sự là quá thấp và đề nghị tạm ngưng phiên tòa để cung cấp giá thị trường. Ngày
08/4/2024, nguyên đơn cung cấp Chứng thư thẩm định giá số:
0408.4/CT/TVĐN.QB của Công ty Cổ phần Đ1 xác định 01m
2
đất tại thửa đất số
245, tờ bản đồ số 11 (nay là thửa đất số 27, tờ bản đồ số 8) tại xã H, huyện B, tỉnh
Quảng Bình có giá là 15.230.000 đồng/01m
2
và yêu cầu Tòa án sử dụng kết quả
định giá độc lập để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Xét thấy, theo quy định của pháp luật thì tại thời điểm xét xử Tòa án phải căn cứ
vào giá thị trường để làm cơ sở giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Như vậy, Hội đồng định giá do Tòa án cấp sơ thẩm thành
lập căn cứ Quyết định số 40/2019/QĐ-UBND quy định bảng giá các loại đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2020 - 2024 khi thực hiện công tác đền bù, giải
phóng mặt bằng là không sát với giá trị trường nên áp dụng kết quả định giá độc
lập do nguyên đơn cung cấp, được Công ty Cổ phần Đ1 là đơn vị có tư cách pháp
nhân, có đủ điều kiện tiêu chuẩn để thực hiện việc định giá. Mặt khác, kết luận định
giá của Công ty đưa ra là có căn cứ và phù hợp với giá thị trường tính đến thời điểm
xét xử vụ án, nên án sơ thẩm chấp nhận để làm căn cứ giải quyết vụ án là có cơ sở.
- Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 16/9/2024, ông Hồ Xuân H yêu cầu được định giá
lại diện tích đất tranh chấp.
- Ngày 08/10/2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định số
10/2024/QĐ-UTTP, ủy thác đến Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện việc
định giá lại;
7
- Tại Biên bản thỏa thuận lựa chọn trung tâm định giá ngày 22/10/2024 do Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình lập; trong đó bà Lê Thị L1 (bị đơn) nhất trí lựa chọn
Công ty TNHH T3 – Chi nhánh Đ2 để định giá lại. Nguyên đơn bà Lê Thị L đề
nghị giữ nguyên kết quả định giá trước đây; tuy nhiên cũng đồng ý nếu bị đơn muốn
định giá lại và lựa chọn trung tâm định giá nào thì tùy bị đơn. Nhưng sau đó bà Lê
Thị L1, ông Hồ Xuân H cho rằng chi phí thẩm định quá cao nên từ chối không yêu
cầu thẩm định giá lại.
- Tại Đơn kiến nghị ngày 04/11/2024 và tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị L1, đề
nghị lấy giá do Hội đồng định giá do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện
cộng giá do Công ty Đ1 độc lập trước đây chia đôi; tuy nhiên yêu cầu này không
được phía nguyên đơn đồng ý, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có
cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị L1, ông Hồ Xuân H; giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
[1.3]. Án sơ thẩm buộc vợ chồng ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 trả giá trị quyền
sử dụng đất với diện tích 3,5209m
2
cho bà Lê Thị L, nhưng không tuyên vợ chồng
ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 được quyền sở hữu, sử dụng diện tích đất 3,5209m
2
nêu trên là thiếu sót, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bổ sung nội dung này vào
phần quyết định để đảm bảo việc thi hành án.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Hồ
Xuân H, bà Lê Thị L1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên ông H, bà L1
là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên đủ điều kiện được miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1; giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 13/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Buộc ông Hồ Xuân H và bà Lê Thị L1 trả lại 9,8m
2
đất lấn chiếm tại thửa đất số
245 (nay là thửa đất số 27), tờ bản đồ số 11 (nay là tờ bản đồ số 8), diện tích 84m
2
đất ở lâu dài, tại xã H (nay là xã H), huyện B, tỉnh Quảng Bình đã được UBND
huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ số phát hành: Y347790, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận 00280 QSDĐ/2598/QĐ-UB cho hộ ông, bà Trần Quốc B- Lê Thị
L vào ngày 31/12/2003. Trong đó:
Buộc ông Hồ Xuân H và bà Lê Thị L1 phải tháo dỡ, phá bỏ hàng rào và di dời,
chặt bỏ 01 cây vối và các tài sản khác trên diện tích 6,27m
2
đất (tính từ các điểm 2-
3-4-12-11-2 trên sơ đồ) để trả lại nguyện hiện trạng đất cho bà Lê Thị L.
8
Đối với phần diện tích đất còn lại 3,5209m
2
(tính từ các điểm 4-5-6-12 trên sơ đồ)
do có công trình xây dựng kiên cố không thể tháo dỡ nên buộc ông Hồ Xuân H và
bà Lê Thị L1 phải trả lại giá trị đất cho bà bà Lê Thị L bằng tiền là 53.623.000
đồng. Vợ chồng ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 được quyền sở hữu, sử dụng diện
tích đất 3,5209m
2
(tính từ các điểm 4-5-6-12 trên sơ đồ).
(Kèm theo bản án là bản đồ đo vẽ thửa đất vào ngày 28/11/2023 là một phần không
thể tách rời của bản án).
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành
theoBản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 13/5/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Bình.
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Hồ Xuân H, bà Lê Thị L1 được miễn án phí dân sự
phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Nguyễn Văn Tào
9
Tải về
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 326/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 566/2024/DS-PT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 569/2024/DS-PT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 937/2024/DS-PT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 942/2024/DS-PT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 29/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm