Bản án số 306/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 306/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 306/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 306/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 306/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 306/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS ngày 09/5/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. 1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 13/3/2025 của Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre, giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Chí Đức
Ông Phạm Văn Tỉnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Yến Mai - Thẩm tra viên chính Tòa án nhân
dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre: Bà Trần Thị Kim Ngân -
Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án đã thụ lý số: 138/2025/TLPT-DS ngày 06 tháng 5 năm
2025 về việc
“
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2025/DS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1973/2025/QĐ-PT ngày 05
tháng 6 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Bà Ngô Thị H, sinh năm 1969;
1.2. Ông Ngô Văn D, sinh năm 1971; (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số A ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
- Bà H ủy quyền cho ông Trần Nhật Long H, sinh năm: 1978. Địa chỉ: Số C,
B, phường D, thành phố T, tỉnh Bến Tre tham gia tố tụng (văn bản ủy quyền ngày
21/5/2021). (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Số 133/2 ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1960; (chết)
- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Đức: Ông Nguyễn Văn P, sinh
năm 1984. Địa chỉ: Số N ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 306/2025/DS-PT
Ngày: 25/6/2025
V/v “
Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
- Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Ông Lê Văn T, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số 02C ấp T, xã P, thành phố T, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
* Người kháng cáo: Bà Ngô Thị H là nguyên đơn; ông Nguyễn Văn P là bị
đơn trong vụ án.
* Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hoà giải cùng các tài liệu, chứng
cứ cung cấp cho Tòa án, đại diện bà Ngô Thị H trình bày:
Mẹ bà H là bà Ngô Thị X, sinh năm: 1948 (mất năm 2016) có 02 người con là
Ngô Thị H và Ngô Văn D được thừa hưởng phần đất số 511, tờ bản đồ số 6, diện tích
1.099m
2
(có 300m
2
đất thổ cư) do bà X để lại. Năm 1972, cha bà H có vợ khác không
về với gia đình và không liên quan đến phần đất này, hộ bà X được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào ngày 27/6/2006.
Năm 2018, sau khi bà X mất 02 năm thì Nguyễn Văn P (em bà con với bà H)
đưa ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn P cấp ngày
16/7/2007 với diện tích 876m
2
thuộc thửa 547 (thuộc 01 phần của thửa 511), cho rằng
lúc bà X còn sống đã cắt chuyển cho ông từ lâu. Hồ sơ thể hiện bà X lập hợp đồng
chuyển nhượng cho ông P vào năm 2007 có chữ ký của Ngô Văn D, đồng thời không
thể hiện thửa đất chuyển nhượng.
Việc chuyển nhượng không có sự đồng thuận của bà H và các thành viên khác
trong gia đình làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H và các thành viên khác trong
gia đình và việc chuyển nhượng đất cho ông P là không đúng với quy định của pháp
luật.
Nay bà H yêu cầu:
- Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngô Thị
X, ông Ngô Văn D với ông Nguyễn Văn P được chứng thực ngày 28/6/2007 đối với
thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh
Bến Tre.
- Buộc ông Nguyễn Văn P trả lại phần đất ký hiệu 547a, 547b; đồng ý để ông P
tiếp tục sử dụng thửa 547, 547c.
- Đối với tài sản trên phần đất tranh chấp: Trường hợp yêu cầu của bà H không
được chấp nhận, phần căn nhà xây dựng của gia đình, bà H sẽ tự tháo dỡ, di dời
không yêu cầu ông P phải bồi thường thiệt hại hoặc hỗ trợ chi phí tháo dỡ di dời. Đối
với căn nhà cho thuê trên thửa đất 547b, bà H không yêu cầu ông P phải tháo dỡ di
dời, trường hợp ông P tháo dỡ bà H không hỗ trợ chi phí tháo dỡ, di dời.
3
- Kiến nghị điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 751150 do
Ủy ban nhân dân huyện P cấp cho Nguyễn Văn P ngày 16/7/2007 đối với thửa đất số
547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
* Theo yêu cầu khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, ông Ngô Văn D
trình bày:
Ông là em ruột bà Ngô Thị H, phần đất tranh chấp có nguồn gốc do ông ngoại
để lại cho mẹ ông và mẹ ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
gồm có mẹ ông, bà H và ông. Khi mẹ ông và ông P làm hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ông không hề hay biết và cũng không có ký tên trong hợp đồng vì
ông không biết chữ.
Nay ông yêu cầu hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà Ngô Thị X với ông Nguyễn Văn P được chứng thực ngày 28/6/2007 đối với
thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P,
tỉnh Bến Tre; yêu cầu ông P trả lại phần đất ký hiệu 547a; đồng ý để ông P tiếp tục
quản lý, sử dụng thửa 547b, 547, 547c. Đối với tài sản trên phần đất tranh chấp,
trường hợp yêu cầu của ông không được chấp nhận, phần căn nhà xây dựng của gia
đình, ông sẽ tự tháo dỡ, di dời không yêu cầu ông P phải bồi thường thiệt hại hoặc hỗ
trợ chi phí tháo dỡ, di dời.
* Theo biên bản hòa giải và tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn P trình bày:
Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông bà nội để lại cho cha ông là Ngô
Văn Đ vào năm nào thì ông không nhớ. Khi đo đạc gia đình ông không có ở địa
phương nên bà X (chị ruột ông Đ) đứng tên kê khai đo đạc và được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Việc bà X đứng tên dùm gia đình ai cũng biết nên vào năm
2007 gia đình ông và bà X thống nhất bà X sẽ chuyển trả lại đất và ông được đứng
tên trên giấy chứng nhận vào ngày 16/7/2007 cho đến nay thuộc thửa đất số 547, tờ
bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre. Hồ sơ quy trình cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông là do cơ quan có thẩm quyền thực hiện
và đúng quy định của pháp luật. Khi lập hợp đồng chuyển trả đất, ông D cũng biết và
ký tên vào hợp đồng, nay ông D không thừa nhận có ký tên ông không đồng ý. Tuy
nhiên, ông không yêu cầu giám định chữ viết, chữ ký. Sau khi được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, do ông đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh nên để toàn bộ
thửa đất cho ông Đức quản lý, cho người khác thuê đất và xây dựng công trình kiến
trúc, hiện nay người thuê đã nghỉ và trả lại đất, riêng căn nhà xây dựng của người
thuê trước đây hiện nay ông đang cho ông Đào Văn Hiếu thuê để sửa xe Honda.
Nay bà H, ông D yêu cầu hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã ký kết giữa bà Ngô Thị X, ông Ngô Văn D đối với ông được chứng thực
ngày 28/6/2007 đối với thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện
P, tỉnh Bến Tre thì ông không đồng ý, đề nghị Tòa án xem xét hồ sơ cấp giấy chứng
4
nhận quyền sử dụng đất cho ông là đúng quy định của pháp luật và để ông tiếp tục
quản lý, sử dụng đúng diện tích đất đã được cấp. Đối với căn nhà của gia đình bà X
xây dựng trước đây có lấn qua phần đất của ông thì ông không yêu cầu phải tháo dỡ,
di dời, riêng phần nhà sau ông D xây dựng thì ông D phải tháo dỡ, di dời, ông không
phải bồi thường thiệt hại hoặc hỗ trợ chi phí tháo dỡ. Trường hợp việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông là không đúng quy định của pháp luật thì ông
đồng ý trả lại đất và không yêu cầu bà H, ông D phải bồi thường công sức đóng góp
trên đất cũng như hỗ trợ chi phí tháo dỡ, di dời công trình đã xây dụng trên đất. Đối
với việc cho người khác thuê để sửa xe, ông sẽ tự thanh lý hợp đồng cho thuê với ông
Hiếu, ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.
* Theo biên bản lấy lời khai, ông Đào Văn H trình bày: Ông thuê phần đất này
để sửa xe, có làm hợp đồng, khi thuê có biết phần đất này đang có tranh chấp nên chỉ
thuê 01 năm với số tiền là 30.000.000 đồng. Trường hợp Tòa án giải quyết vụ án có
ảnh hưởng đến phần đất ông thuê với người cho thuê thì người cho ông thuê có trách
nhiệm giải quyết hợp đồng với ông, ông không có ý kiến hoặc yêu cầu gì trong vụ án
này nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
* Theo đơn yêu cầu độc lập ông Ngô Văn Đ trình bày:
Phần đất tranh chấp này là của cha tôi ông Ngô Văn Cây để lại cho tôi, khi cha
tôi mất tôi đi làm ăn xa nên không về kê khai được mà nhờ chị của tôi là bà Ngô Thị
X (mẹ ruột bà H, ông D) đi kê khai và đứng tên quyền sử dụng đất thay tôi vào năm
2006. Đến năm 2007, bà X đồng ý giao trả phần đất này cho ông theo ý nguyện của
ông Ngô Văn Cây. Tuy nhiên, lúc này tôi đi làm ăn xa nên không về nhận chuyển
quyền sử dụng được nên đồng ý để con tôi là Nguyễn Văn P đứng tên 02 phần (tôi 01
phần và P 01 phần), phần còn lại đồng ý để bà X quản lý, sử dụng. Do đó, phần đất P
đứng tên là thửa 547, tờ bản đồ số 6, diện tích 876m
2
, ông cũng đồng ý. Hiện trên đất
có 01 căn nhà do ông quản lý và cho thuê. Nay ông yêu cầu chia thửa 547, 511, tờ
bản đồ số 6 thành 03 phần bằng nhau gồm con bà X 01 phần, ông 01 phần và P 01
phần. Con của bà X nhận 01 phần gồm thửa 547a, 511a, 511; P nhận thửa 547b và
ông nhận thửa 547, 547c theo họa đồ thửa đất đo ngày 26/9/2023.
Do hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 13/3/2025 của Tòa án
nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre, tuyên xử:
1. Chấp nhận một yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị H, ông Ngô
Văn D đối với bị đơn ông Nguyễn Văn P.
Cụ thể tuyên:
1.1. Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngô
Thị X, ông Ngô Văn D với ông Nguyễn Văn P được chứng thực ngày 28/6/2007 đối
5
với thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P,
tỉnh Bến Tre.
1.2. Bà Ngô Thị H, ông Ngô Văn D được quyền quản lý, sử dụng phần đất ký
hiệu thửa 547a (151.5m
2
), 511a (33.1m
2
), 511 (189.9m
2
), cùng tờ bản đồ số 6, tọa lạc
tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
1.3. Ông Nguyễn Văn P được quyền quản lý, sử dụng phần đất ký hiệu thửa
547b (342.5m
2
), 547 (345.8m
2
), 547c (38.1m
2
), cùng tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp B,
thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Kiến nghị điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 751150 do Ủy
ban nhân dân huyện P cấp cho Nguyễn Văn P ngày 16/7/2007 đối với thửa đất số
547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Đương sự căn cứ nội dung quyết định của bản án để liên hệ cơ quan có thẩm
quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. (Có họa đồ
kèm theo)
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/3/2025, nguyên đơn bà Ngô Thị H có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản
án sơ thẩm theo hướng hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và buộc ông
P trả đất cho nguyên đơn.
Ngày 24/3/2025, bị đơn ông Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo, yêu cầu hủy bản
án sơ thẩm.
Ngày 09/5/2025, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre có Quyết
định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số
30/2025/DS-ST ngày 13/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre theo
hướng hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre trình bày:
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị,
đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-
VKS-DS ngày 09/5/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Ngô Thị H là ông Trần
Nhật Long H trình bày:
Nguyên đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, buộc bị đơn giao thêm thửa 547b cho nguyên đơn.
* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Văn T trình bày:
Theo đơn kháng cáo, ông P đề nghị hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm
có những thiếu sót, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay ông P xin thay thay đổi yêu cầu
kháng cáo là yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
6
của nguyên đơn.
* Nguyên đơn ông Ngô Văn D trình bày: Ông thống nhất với ý kiến của người
đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị H.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày
13/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bến Tre, xét kháng cáo của nguyên đơn bà Ngô Thị H, bị đơn ông
Nguyễn Văn P và đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà Ngô Thị X, Ngô Văn D với ông Nguyễn Văn P đối với
thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh
Bến Tre; buộc ông P trả lại phần đất ký hiệu 547a, 547b cho nguyên đơn. Bị đơn ông
P không đồng ý vì ông cho rằng việc ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa đất số 547, tờ bản đồ 6, diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P,
huyện P, tỉnh Bến Tre là đúng quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Ngô Văn Đ có yêu cầu độc lập là chia thửa 547, 511, tờ bản đồ số 6
thành 03 phần bằng nhau cho các con bà X, ông P và ông, cụ thể con bà X nhận một
phần gồm thửa 547a, 511a, 511; ông P nhận thửa 547b và ông nhận thửa 547, 547c
theo họa đồ thửa đất đo ngày 26/9/2023.
[2] Xét thấy, ngày 27/6/2006, hộ bà Ngô Thị X được Ủy ban nhân dân huyện P
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 551, tờ bản đồ số 6, diện tích
1099m
2
. Sau đó bà X lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P và
ông P được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 457 (một phần của
thửa 551), diện tích 876m
2
, tọa lạc tại ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre. Căn cứ
đơn yêu cầu độc lập sửa đổi, bổ sung ngày 03/6/2024 của ông Ngô Văn Đ thì ông có
yêu cầu Tòa án giải quyết là chia hai thửa đất là thửa 547 và thửa 511, cùng tờ bản đồ
6, thành 03 phần bằng nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ ra Thông báo thụ lý yêu
cầu độc lập của ông Đức đối với thửa đất số 547, tờ bản đồ số 6 là thụ lý chưa đầy đủ
yêu cầu của đương sự.
Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ông Đức chết; mặc
dù theo lời trình bày của ông P thì ông Đ không có đăng ký kết hôn với bà Hồ Thị N
7
là mẹ của ông P nhưng căn cứ thời gian sinh của ông P là vào năm 1984 thì có cơ sở
xác định ông Đ và bà N đã chung sống như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nên
được xem là hôn nhân thực tế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông P là người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng duy nhất của ông Đ là chưa đầy đủ, đã bỏ sót người
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của ông Đ là bà N. Ngoài ra, sau khi ông Đ
chết, Tòa án cấp sơ thẩm cũng không làm việc với những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của ông Đức để xem những người này có tiếp tục yêu cầu độc lập
của ông Đ hay không mà chỉ căn cứ vào yêu cầu độc lập của ông Đ khi còn sống là
không đảm bảo quy định về tố tụng.
[3] Theo hiện trạng chỉ ranh của nguyên đơn và bị đơn tại họa đồ thửa đất ngày
26/9/2023 thì nguyên đơn và bị đơn đều không có quản lý, sử dụng các thửa 511a,
547c nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên cho bà H, ông D được quyền quản lý, sử dụng
thửa 511a, còn ông P được quyền quản lý, sử dụng thửa 547c mà không có ý kiến các
chủ sử dụng đất liền kề hai phần đất này là ông Nguyễn Văn C, ông Ngô Văn B là
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người này.
Ngoài ra, theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 22/11/2021 thể hiện có căn
nhà (ký hiệu g) nằm một phần trên thửa 511, một phần trên thửa 547a và một phần
trên thửa 547 do ông D đang quản lý, sử dụng nhưng họa đồ thửa đất ngày 26/9/2023
đính kèm theo bản án sơ thẩm lại không thể hiện vị trí, kích thước của căn nhà này;
đồng thời, tuyên cho bà H, ông D được quyền quản lý, sử dụng phần đất có ký hiệu
thửa 547a (151.5m
2
), 511a (33.1m
2
), 511 (189.9m
2
), cùng tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại
ấp B, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre nhưng không đề cập đến các tài sản có trên đất
(căn nhà) là giải quyết chưa toàn diện vụ án và khó khăn cho việc thi hành án. Do có
những thiếu sót nêu trên mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên Hội đồng
xét xử xét thấy cần phải hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày
13/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre, giao hồ sơ vụ án về Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung. Kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là có căn cứ nên được chấp nhận. Do bản án sơ
thẩm bị hủy nên Hội đồng xét xử không xem xét đối với nội dung kháng cáo của bà
H, ông P.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-
VKS-DS ngày 09/5/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, hủy
Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 13/3/2025 của Tòa án nhân dân
huyện P, tỉnh Bến Tre, giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án
theo thủ tục chung.
8
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên bà H, ông P
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuyên xử:
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS ngày
09/5/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.
1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 13/3/2025 của Toà án
nhân dân huyện P, tỉnh Bến Tre, giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục chung.
2. Bà Ngô Thị H, ông Nguyễn Văn P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả cho bà H, ông P mỗi người 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010973 ngày 08/4/2025 và số 0010967 ngày 04/4/2025
của Chi cục Thi hành dân sự huyện P, tỉnh Bến Tre.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bến Tre (1b); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện P (1b);
- Chi cục THADS huyện P (1b);
- Phòng TT, KT và THA; VP (3b);
- Các đương sự (3b);
- Lưu hồ sơ (1b).
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm