Bản án số 296/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 296/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 296/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 296/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 296/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 296/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Trần Văn Phụng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng với ông Trần Văn Cảnh |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 296/2025/DS-PT
Ngày: 19 - 6 - 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
đòi tài sản là quyền sử dụng đất"
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán:Ông Nguyễn Thế Hồng
Bà Lê Thị Thu Hương
- Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Vũ Duy Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 107/2025/TLPT- DS ngày 08 tháng 4 năm
2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi tài
sản là quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1527/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 5 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Trần Văn P, sinh năm 1969
1.2. Bà Nguyễn Thị Lệ C, sinh năm 1968
Cùng địa chỉ: Số E ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Ông Phạm Kim C1, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Ông Nguyễn Trung N, sinh năm
2
1969; Địa chỉ: Số A L, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Trần Văn C2, sinh năm 1966
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông C2: Bà Trương Thị T, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Số D, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh
năm 1969; Địa chỉ: Số G, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Bà Trương Thị T, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Số D, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt).
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn và người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Năm 1992 ông P và bà C nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn C2 phần
đất với diện tích 1880m
2
thuộc thửa 227, tờ bản đồ số 1 (nay thửa mới là thửa 31,
tờ bản đồ số 1). Khi nhận chuyển nhượng đất do là chỗ anh em ruột nên chỉ thỏa
thuận miệng, không có làm giấy tờ, ông P và bà C quản lý sử dụng từ năm 1992.
Năm 1995, ông C2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất
trên do đã kê khai trước đó nhưng ông P không hay biết. Sau đó, nhiều lần ông P
và bà C yêu cầu ông C2 làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng cho vợ chồng
ông P nhưng ông C2 không thực hiện nên ông P, bà C khởi kiện yêu cầu ông C2
tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P, bà C
đối với thửa đất 227, tờ bản đồ số 1 (nay thửa mới là thửa 31, tờ bản đồ số 1) diện
tích 1880m
2
toạ lạc tại xã T, huyện C theo thoả thuận bằng lời nói giữa các bên.
(Đơn khởi kiện ngày 19/12/2023).
Tại bản tự khai bổ sung ngày 16/9/2024 và Biên bản hoà giải ngày
13/01/2025 của Toà án, nguyên đơn ông P cũng như người đại diện theo uỷ quyền
của ông P trình bày: ông Trần Văn N1 sinh năm 1942 (chết năm 2021) và bà Lê
Thị S sinh năm 1943 có năm người con: ông Trần Văn C2 sinh năm 1966, ông
Trần Văn P sinh năm 1969, ông Trần Văn N2 sinh năm 1973, ông Trần Văn K
sinh năm 1977 và ông Trần Văn C3 sinh năm 1980. Thửa đất 227, tờ bản đồ số 1,
tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre là một trong ba thửa đất do bà S và ông N1
3
tạo lập trong thời kỳ hôn và chia cho con. Việc cho đất của bà S, ông N1 đối với
ba người con cụ thể như sau: cho ông Trần Văn C2 sinh năm 1966 diện tích 2400
m
2
, ông Trần Văn P sinh năm 1969 diện tích 1880 m
2
, ông Trần Văn N2 sinh năm
1973 diện tích 1900 m
2
, vị trí ba thửa đất được cho nói trên liền kề nhau. Do ông
C2 là anh lớn lập gia đình trước và sử dụng thửa đất 227, tờ bản đồ số 1. Sau đó
ông P lập gia đình năm 1992 thì ông C2 bàn giao thửa đất 227 cho ông Trần Văn
P và vợ là Nguyễn Thị Lệ C sử dụng, còn ông C2 sử dụng thửa đất giáp với thửa
tranh chấp. Do ông C2 kê khai sổ mục kê đối với thửa đất trên, nên năm 1995 ông
C2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông P và bà C yêu cầu ông Trần
Văn C2 phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa 227, tờ bản đồ số 1 (nay là thửa 31, tờ bản đồ số 1) tọa lạc tại xã T, huyện
C, tỉnh Bến Tre theo đo đạc thực tế bao gồm các thửa 31-4, 31-5, 31-6, 31-7, 31-
8, 31-9, sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất trên cho ông P và
bà C (Bản tự khai ngày 16/9/2024).
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn là
ông Đinh Văn N3 trình bày: ông P và ông C2 đã thực hiện việc chuyển đổi quyền
sử dụng đất bằng miệng. Thửa 227, tờ bản đồ số 1 là do bà S, ông N1 cho ông C2
quản lý sử dụng trước, sau đó ông P lập gia đình bà S, ông N1 cho ông P thửa đất
ông C2 đang quản lý. Ông C2 được nhận thửa 32, tờ bản đồ số 1 (thửa cũ không
rõ số thửa số tờ) do bà S, ông N1 ký tặng cho là thực hiện việc chuyển đổi quyền
sử dụng đất khi ông P, ông C2 được cho đất. Do đó, nguyên đơn căn cứ vào việc
ông P, bà C quản lý đất từ năm 1992 cho đến nay yêu cầu Tòa án công nhận hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất có nguồn gốc được ông N1 và bà S cho đất
ông P và ông C2 nhưng hai bên đã hoán đổi đất cho nhau.
Bị đơn ông Trần Văn C2, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Thanh L và người đại diện theo ủy quyền của ông C2, bà L là bà Trương Thị
Tiến trình B:
Do là chỗ anh em ông C2 cho ông P ở nhờ trên đất từ năm 1996. Khi ông P
cất nhà kiên cố và trồng cây lâu năm trên đất thì ông C2 biết nhưng không ngăn
cản vì là chỗ anh em. Nay ông P cho rằng có việc đổi đất cha mẹ cho là không
đúng sự thật. Ông C2 cho ông P ở nhờ nay ông C2 phản tố yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc vợ chồng ông Trần Văn C2 và bà Nguyễn Thị Lệ C trả lại toàn bộ thửa
đất tranh chấp. Trường hợp nếu ông P và bà C chịu thương lượng thì ông C2 sẽ
tự nguyện cho ông P phần đất thuộc thửa 31-4, 31-5, 31-6, 31-7, 31-8. Đối với
4
thửa 31-9 thì ông C2 yêu cầu ông P và bà C phải trả đất và sẽ không bồi hoàn cây
trồng trên đất, vì đã tự nguyện cho phần đất 31-4, 31-5, 31-6, 31-7, 31-8. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất tranh chấp hiện tại ông P và bà C đang
giữ là do vợ chồng ông P đã mượn của ông C2. Nay ông C2 yêu cầu trả đất và trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất tranh chấp. Ông C2 và bà L thừa
nhận toàn bộ nhà, vật kiến trúc trên đất thuộc quyền sở hữu của ông P, bà C. Toàn
bộ cây trồng trên đất là do ông P và bà C trồng. Ông C2 trình bày chỉ tự nguyện
cho thửa đất 31-4, 31-5, 31-6,31-7, 31-8 khi Tòa án giải quyết không buộc bị đơn
bồi hoàn giá trị cây trồng trên đất. Thửa đất số 31-1 diện tích 286,8 m
2
, thửa 31-
2 diện tích 16,2 m
2
, thửa 31-3 diện tích 22,9 m
2
do ông Trần Văn P và bà Nguyễn
Thị Lệ C đang quản lý sử dụng ông C2 và bà L không tranh chấp.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đưa vụ án ra
xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ
C.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Văn C2.
Buộc ông Trần Văn P và bà Nguyễn Thị Lệ C có trách nhiệm trả lại cho ông
Trần Văn C2 quyền sử dụng đất thửa đất số 31-9 diện tích 1510,6 m
2
thuộc một
phần thửa 31, tờ bản đồ số 1 tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre (có họa đồ
kèm theo) và trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 24/01/1995 vào
sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 41020201151..QSDĐ/40/.UB.QĐ
do ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Trần Văn C2 đứng tên quyền sử dụng
đất.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn C2 và bà Nguyễn Thị Thanh L tự
nguyên cho ông Trần Văn P và bà Nguyễn Thị Lệ C được toàn quyền sử dụng các
thửa đất 31-4 diện tích 74,7 m
2
, 31-5 diện tích 136,4 m
2
, 31-6 diện tích 15,8 m
2
,
31-7 diện tích 6.3 m
2
, 31-8 diện tích 411,5 m
2
(thuộc một phần thửa 31, tờ bản đồ
số 1 tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre (có họa đồ kèm theo). Phía ông Trần
Văn P và bà Nguyễn Thị Lệ C không phải hoàn giá trị đất các thửa đất trên cho
ông Trần Văn C2. Ông Trần Văn C2 và bà Nguyễn Thị Thanh L không phải bồi
thường giá trị cây trông trên đất cho ông Trần Văn P và bà Nguyễn Thị Lệ C.
Công trình kiến trúc gắn liền các các thửa đất 31-4 diện tích 74,7 m
2
, 31-5
diện tích 136,4 m
2
, 31-6 diện tích 15,8 m
2
, 31-7 diện tích 6.3 m
2
, 31-8 diện tích
5
411,5 m
2
(thuộc một phần thửa 31, tờ bản đồ số 1) tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh
Bến Tre, các bên đương sự thống nhất thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn P,
bà Nguyễn Thị Lệ C không tranh chấp, Tòa án không xem xét.
Đối với các thửa đất số 31-1 diện tích 286,8 m
2
, thửa 31-2 diện tích 16,2 m
2
,
thửa 31-3 diện tích 22,9 m
2
các bên không tranh chấp, Tòa án không xem xét.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 24/02/2025 Toà án nhân dân huyện Châu Thành nhận được đơn kháng
cáo của ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C. Nội dung kháng cáo toàn bộ Bản
án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2025 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Thành. Yêu cầu Toà án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông P, bà C.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn xác
định phía nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo. Tuy nhiên, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn (ông C1, ông
N) thống nhất xác định: Ngoài đơn khởi kiện ngày 19/12/2023 nguyên đơn đã nộp
tại Toà án và được Toà án thụ lý, đến nay nguyên đơn không có làm đơn rút đơn
khởi kiện, không làm đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện cũng không nhận được thông
báo về việc phải sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện từ tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất sang tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng
đất từ Toà án nên việc Toà án thụ lý, giải quyết vụ án với quan hệ tranh chấp hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất là không đúng. Khi giải quyết tranh chấp hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, việc thu thập chứng cứ làm cơ sở giải giải
quyết vụ án của Toà sơ thẩm cũng không đầy đủ làm ảnh hưởng đến quyền lợi
hợp pháp của nguyên đơn. Cụ thể, Toà án không thu thập hồ sơ đo đạc chính quy
vào năm 2007 của thửa đất 226, 227 nay là thửa đất 32, 31 do chính ông P, ông
C2 hướng dẫn đo đạc theo Đề án 301; Hồ sơ xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông C2 đề ngày 11/5/2011 đối với thửa đất 31, 32. Trên cơ
sở đó, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn gồm ông C1, ông N cùng
yêu cầu huỷ huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông C2, bà L xác định bị đơn giữ nguyên
yêu cầu phản tố, ông C2 và bà L không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn.
6
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát ý
kiến như sau:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng quy định pháp luật Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Toà án áp dụng khoản 3 Điều 308,
Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2024/DS-ST
ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành do vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C; Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C được làm đúng
theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp
nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ tranh chấp:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông C2, bà L tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P, bà C đối với thửa đất 227, tờ bản
đồ số 1 (nay thửa mới là thửa 31, tờ bản đồ số 1) diện tích 1880m
2
toạ lạc tại xã
T, huyện C theo thoả thuận bằng lời nói giữa các bên. Tại phiên tòa sơ thẩm cũng
với đối tượng tranh chấp là thửa đất đất 227, tờ bản đồ số 1 (nay thửa mới là thửa
31, tờ bản đồ số 1) diện tích 1880m
2
toạ lạc tại xã T, huyện C nguyên đơn ông P,
bà C yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông
P, bà C với ông C2 với lý do: ông P, bà C quản lý thửa đất trên từ năm 1992 cho
đến nay, đất có nguồn gốc được ông N1 và bà S cho ông P và ông C2 nhưng hai
bên đã hoán đổi đất cho nhau. Toà án sơ thẩm chấp nhận việc thay đổi yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ tranh chấp giải quyết là tranh chấp
hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Hai yêu cầu của nguyên đơn dựa trên hai căn cứ
hoàn toàn khác nhau và thuộc hai quan hệ pháp luật tranh chấp khác nhau. Việc
khởi kiện, thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của đương sự bắt buộc phải tuân
thủ quy định Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện đã
7
được Toà thụ lý về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; không
làm đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện từ tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất sang tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng
đất, cũng không nhận được thông báo nào của Toà án về việc phải sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện từ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
sang tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất. Như vậy, nguyên đơn
không có làm đơn, thực hiện thủ tục khởi kiện đối với yêu cầu tranh chấp hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất với bị đơn, cấp sơ thẩm cũng không thụ lý về
quan hệ tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nói trên nhưng lại xác
định quan hệ tranh chấp giải quyết là “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử
dụng đất” là vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, vi phạm quy định Điều
5, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. Việc thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ, tuy nhiên
yêu cầu phản tố phải được xem xét song song cùng với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn mới đảm bảo được tính đúng đắn, khách quan toàn diện khi giải quyết
vụ án.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng các vi phạm của
cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, để giải quyết toàn
diện vụ án, đúng quy định pháp luật cần thiết phải huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số
06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành trả hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện Châu Thành giải quyết lại theo đúng
quy định pháp luật.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Án phí phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên ông P, bà C không phải
chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Hủy hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi tài sản là quyền sử dụng đất” giữa nguyên
8
đơn ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C với bị đơn ông Trần Văn C2; giao hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo
đúng quy định của pháp luật.
Hoàn trả cho nguyên đơn ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Lệ C số tiền tạm
ứng án phí mỗi người đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo các Biên lai
thu tiền số 0006573, 0006572 cùng ngày 25/02/2025 của Chi Cục Thi hành án
dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND huyện Châu Thành; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
Nguyễn Thị Rẻn
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm