Bản án số 27/2024/DS-ST ngày 20/06/2024 của TAND huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2024/DS-ST ngày 20/06/2024 của TAND huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Ngọc Hiển (TAND tỉnh Cà Mau) |
Số hiệu: | 27/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/06/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hợp đồng cầm cố đất giao khoán |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN NGỌC HIỂN
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 27/2024/DS-ST
Ngày: 20 – 6 – 2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng
cầm cố đất giao khoán
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Cao Thị Dung.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Ngô Minh Sơn.
Bà Bùi Ngọc Dung.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Ân Tình là Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau tham
gia phiên tòa: Ông Thái Hoàng Chân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 11, 20 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 159/2023/TLST-DS
ngày 27 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng cầm cố đất giao khoán” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 4 năm
2024; Quyết định hoãn phiên toà số: 20/2024/QĐ-ST ngày 23 tháng 5 năm 2024 và
Quyết định tạm ngừng phiên toà số: 06/2024/QĐST-PT ngày 11 tháng 6 năm
2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh Q. Sinh năm 1980 (có mặt).
Bà Nguyễn Kim Kh. Sinh năm 1980 (có mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp K, xã V, huyện N, tỉnh C.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Kim C. Sinh năm 1983 (vắng mặt).
Ông Đoàn Chí Ng. Sinh năm 1983 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp N, xã V, huyện N, tỉnh C.
NỘI DUNG CỦA VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện ngày 26/10/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn bà Nguyễn Kim Kh trình bày: Vào ngày 19/5/2017 âm lịch, bà Nguyễn
Kim C, ông Đoàn Chí Ng có cố cho vợ chồng bà phần đất nuôi trồng thuỷ sản diện
tích 43.844,6m
2
thuộc thửa số 772, khoảnh 32, tiểu khu 079 toạ lạc tại ấp Nguyễn
Nguyền, xã Viên An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, đất do bà Nguyễn Kim C
đứng tên trong Sổ giao khoán, với số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn 03 năm, sau
đó bà C, ông Ng thuê lại thửa đất trên với thời gian 03 năm. Trong thời gian thuê
đất thì năm đầu tiên bà C, ông Ng có trả tiền thuê cho ông bà, còn từ ngày
19/5/2018 âm lịch đến nay ông Ng, bà C không trả thêm tiền thuê đất. Đến ngày
06/10/2017 âm lịch, bà C, ông Ng có nhận thêm số tiền 30.000.000 đồng (có sự
chứng kiến của chính quyền địa phương). Bà C, ông Ng hứa nhập số tiền
30.000.000 đồng vào khoản tiền cố 300.000.000 đồng để trả dứt khoát cho vợ
chồng bà. Nhưng đến nay, bà C, ông Ng không trả tiền vốn, cũng như tiền thuê đất
lại cho vợ chồng bà. Nay ông bà yêu cầu hủy hợp đồng cố đất và thuê đất ngày
19/5/2020 âm lịch; hủy giấy giao kèo cố đất vuông tôm ngày 19/5/2017 âm lịch;
hủy giấy giao kèo cố đất vuông tôm ngày 02/02/2020 âm lịch giữa vợ chồng ông
với ông Đoàn Chí Ng và bà Nguyễn Kim C và yêu cầu vợ chồng ông Đoàn Chí Ng
và bà Nguyễn Kim C trả lại số tiền cố đất là 330.000.000 đồng và tiền thuê đất (lãi)
tính từ ngày 19/5/2018 âm lịch đến nay là 05 năm 04 tháng số tiền là 196.666.664
đồng, tổng là 526.666.664 đồng. Ông Ng có biết việc cố đất và nhận tiền, ông bà
có nói ông Ng ký tên vào giấy cố đất nhưng ông Ng nói bà C làm gì ông không
biết, nên không đồng ý ký tên.
Tại Biên bản hoà giải ngày 05/01/2024 nguyên đơn ông Nguyễn Thanh Q
trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của vợ ông là bà Nguyễn Kim Kh, yêu
cầu hủy hợp đồng cố đất và thuê đất ngày 19/5/2020 âm lịch; hủy giấy giao kèo cố
đất vuông tôm ngày 19/5/2017 âm lịch; hủy giấy giao kèo cố đất vuông tôm ngày
02/02/2020 âm lịch giữa vợ chồng ông với ông Đoàn Chí Ng và bà Nguyễn Kim C
và yêu cầu vợ chồng ông Đoàn Chí Ng và bà Nguyễn Kim C trả lại số tiền cố đất là
330.000.000 đồng và tiền thuê đất tính từ ngày 19/5/2018 âm lịch đến nay là 05
năm 04 tháng số tiền là 196.666.664 đồng, tổng là 526.666.664 đồng. Ông không
có ý kiến gì thêm.
Tại Biên bản hoà giải ngày 05/01/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án
bị đơn bà Nguyễn Kim C trình bày: Bà xác định có cố đất cho ông Q, bà Kh với số
tiền 300.000.000 đồng vào ngày 19/5/2017 âm lịch, thời hạn 03 năm, bà có thuê lại
3
đất canh tác 35.000.000 đồng/năm. Do gặp khó khăn nên bà có nợ lại tiền thuê đất,
đến ngày 19/5/2020 âm lịch hai bên có chốt lại số nợ tiền cố đất vốn là
300.000.000 đồng và lãi (tiền thuê đất) còn nợ lại là 185.000.000 đồng. Nay bà chỉ
thống nhất trả số tiền cố đất vốn là 300.000.000 đồng và lãi (tiền thuê đất) là
185.000.000 đồng bà xin ông Q, bà Kh bớt cho bà, bà đồng ý huỷ các hợp đồng
cầm cố đất giữa bà với ông Q, bà Kh. Đối với số tiền 30.000.000 đồng bà Kh, ông
Q yêu cầu bà không thống nhất, bà xác định không có việc bà và ông Q, bà Kh
thoả thuận số tiền này, thực tế bà không nhận số tiền này, tại Ban nhân dân ấp cũng
không có thoả thuận, nếu bà có lấy thêm chắc chắn bà Kh, ông Q đã bắt bà ký vào
giấy nợ, hoặc trong biên bản hoà giải tại ấp Nguyễn Quyền ngày 09/7/2023 đã ghi
nội dung này. Khi hoà giải tại ấp, bà có đến xin trả số tiền vốn 300.000.000 đồng
nhưng ông Q, bà Kh không đồng ý nên bà bỏ về và không thống nhất ký tên vào
biên bản. Bà xác định việc giao dịch tiền cố đất chỉ có bà và ông Q, bà Kh, ra Ban
nhân dân ấp chỉ để chứng kiến làm hợp đồng cố đất. Chồng bà là ông Đoàn Chí Ng
không biết việc cố đất, nhận tiền giữa bà và vợ chồng ông Q, bà Kh, do bà tự làm
hụi bị bể nên bà dùng để trả nợ, ông Ng không liên quan trong việc này, nợ ông Q,
bà Kh bà sẽ chịu trách nhiệm trả. Bà không có ý kiến gì thêm.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 14/6/2024 bị đơn ông Đoàn Chí Ng trình bày:
Việc cầm cố đất hay vay mượn tiền giữa vợ ông là bà Nguyễn Kim C và vợ chồng
ông Nguyễn Thanh Q, bà Nguyễn Kim Kh không thông qua ông, ông không biết
việc vợ ông có cầm cố đất cho vợ chồng ông Q, bà Kh. Trước đây vợ ông có lén
làm chủ hụi bị bể nên có gây nợ, mọi giao dịch liên quan đến hụi hay vay mượn, cố
đất là do vợ ông tự làm, không bàn bạc với ông, ông không ký tên. Lúc ông Q, bà
Kh làm giấy cố đất (chưa ra ấp) có lại yêu cầu ông ký tên nhưng ông trả lời rõ ràng
là ông không đồng ý nhưng ông Q, bà Kh vẫn làm. Khi ra ấp, Ban nhân dân ấp có
điện thoại cho ông nhưng ông vẫn trả lời là không biết, không liên quan nên ông
không ký. Sau khi ông Q, bà Kh và vợ ông tự ký hợp đồng cầm cố đất, khoảng 2, 3
năm sau lúc vợ ông không còn khả năng trả nợ thì ông Q, bà Kh có điện thoại cho
ông và yêu cầu ông ký tên vào hợp đồng cố đất nhưng ông không đồng ý. Phần đất
này gia đình ông vẫn canh tác cho đến nay. Nay ông không nhất theo yêu cầu khởi
kiện của ông Q, bà Kh về việc yêu cầu ông cùng trả số tiền cố đất và thuê đất.
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn bà Kh, ông Q rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền
30.000.000 đồng, do ông bà chưa có căn cứ chứng minh và chỉ yêu cầu huỷ các
4
hợp đồng cố đất đã ký kết giữa vợ chồng ông bà với bà C, yêu cầu bà C trả lại số
tiền vốn 300.000.000 đồng và lãi, không yêu cầu ông Ng cùng trả. Đối với số tiền
lãi, việc thuê đất thực tế là tiền lãi hàng năm bà C phải trả cho ông bà, nên nay ông
bà thay đổi nội dung khởi kiện, ông bà yêu cầu tính lãi từ ngày 19/5/2018 âm lịch
đến ngày xét xử theo mức quy định của Nhà nước. Ông bà không có ý kiến gì
thêm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển tham gia
phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
được thực hiện đúng pháp luật. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu toàn bộ khởi kiện của ông Q, bà Kh, tuyên bố các hợp đồng cố đất và thuê
đất giữa ông Q, bà Kh và bà C vô hiệu. Buộc bà C có trách nhiệm trả lại cho ông
Q, bà Kh số tiền cố đất 300.000.000 đồng, do tại phiên toà nguyên đơn thay đổi nội
dung yêu cầu khoản tiền lãi nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định.
Đình chỉ đối với yêu cầu bà C trả số tiền 30.000.000 đồng và yêu cầu ông Ng cùng
trả nợ. Buộc ông Q, bà Kh trả lại cho bà C Sổ hợp đồng giao khoán do bà Nguyễn
Kim C đứng tên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Kim Kh, ông Nguyễn Thanh Q khởi kiện ông
Đoàn Chí Ng, bà Nguyễn Kim C cư trú tại ấp Tắc Biển, xã Viên An Đông, huyện
Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng cầm cố đất giao khoán nên vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau
theo quy định tại Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng Dân sự.
Ông Ng, bà C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tuy nhiên ông Ng,
bà C vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng
Dân sự xét xử vắng mặt ông Ng, bà C tại phiên toà.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ và
tại phiên toà hôm nay thì ngày 19/5/2017 âm lịch ông Nguyễn Thanh Q và bà
Nguyễn Kim C có xác lập hợp đồng cầm cố đất giao khoán là thực tế có xảy ra.
Theo nội dung thoả thuận thì ông Q nhận cầm cố phần đất nuôi trồng thuỷ sản diện
tích 43.844,6m
2
thuộc thửa số 772, khoảnh 32, tiểu khu 079 toạ lạc tại ấp N, xã V,
huyện N, tỉnh C, đất do bà Nguyễn Kim C đứng tên trong Sổ giao khoán, với số
tiền 300.000.000 đồng, thời hạn 03 năm, bà C thuê lại mỗi năm 30.000.000 đồng.
5
Đến ngày 22/12/2017 âm lịch thì hai bên có sửa lại nội dung hợp đồng số tiền cố
thuê đất là 35.000.000 đồng/năm. Đến ngày 02/02/2020, ông Q và bà C làm lại hợp
đồng cố đất với số tiền là 370.000.000 đồng, thời gian cố tiếp tục là 03 năm. Đến
ngày 19/5/2020 âm lịch, ông Q và bà C tiếp tục làm lại Hợp đồng cố đất, trong hợp
đồng này có vợ ông Q là bà Nguyễn Kim Kh cùng ký tên, nội dung hợp đồng thoả
thuận số tiền cố là 450.000.000 đồng, thời hạn 03 năm, bà C thuê lại 45.000.000
đồng/năm. Đến ngày 17/9/2021 âm lịch thì Ban nhân dân xác nhận hợp đồng có
sửa đổi nội dung tiền vốn cố đất là 300.000.000 đồng, tiền lãi thuê đất còn nợ tính
đến ngày 17/9/2021 là 185.000.000 đồng. Do bà C không thực hiện đúng như hợp
đồng nên ông Q, bà Kh khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng cố đất và thuê đất ngày
19/5/2020 âm lịch; hủy giấy giao kèo cố đất vuông tôm ngày 19/5/2017 âm lịch;
hủy giấy giao kèo cố đất vuông tôm ngày 02/02/2020 âm lịch giữa ông Q, bà Kh
với ông Ng, bà C.
Theo Công văn của Ban quản lý rừng phòng hộ Đất Mũi xác định, việc cầm
cố đất giao khoán giữa ông Q, bà Kh, bà C đều không thông qua cơ quan có thẩm
quyền là Ban Quản lý rừng phòng hộ Đất Mũi và hộ bà C nhận giao khoán không
có quyền cầm cố hoặc cho thuê phần đất này theo quy định pháp luật. Xét thấy, về
nội dung của các hợp đồng cầm cố đất giao khoán giữa ông Nguyễn Thanh Q, bà
Nguyễn Kim Kh và bà Nguyễn Kim C có nội dung vi phạm quy định của Luật đất
đai và các giao dịch nay vô hiệu ngay từ khi xác lập. Từ đó, căn cứ vào các Điều
166, Điều 167 Luật đất đai và các Điều 122, Điều 123, Điều 131 của Bộ luật Dân
sự, tuyên bố các hợp đồng cầm cố đất giao khoán lập ngày 19/5/2017 âm lịch, ngày
02/02/2020 và ngày 19/5/2020 âm lịch giữa ông Q, bà Kh với bà C vô hiệu là phù
hợp.
[3] Xét về hậu quả: Hợp đồng cầm cố đất bị vô hiệu nên không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại hiện trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận. Tại phiên toà hôm nay, bà Kh, ông Q thay đổi nội dung
không yêu cầu trả tiền thuê đất mà yêu cầu trả tiền lãi theo quy định tính từ ngày
19/5/2018 âm lịch (ngày 02/7/2018 dương lịch) đến ngày xét xử. Xét thấy, thực tế
bà C canh tác đất từ khi hai bên xác lập các hợp đồng cố đất cho đến nay và bà C
đã được hưởng lợi ích từ số tiền cầm cố, ông Q, bà Kh và bà C thống nhất ghi là
tiền thuê đất hàng năm nhưng các bên thoả thuận đó thực chất là tiền lãi hàng năm
mà bà C phải trả cho ông Q, bà Kh. Tuy nhiên, các bên không xác định được rõ lãi
6
và tranh chấp nên cần buộc bà C trả lại số tiền lãi cho ông Q, bà Kh, theo quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự theo mức lãi suất được tính như sau:
300.000.000 đồng x 10%/năm x 05 năm 11 tháng 18 ngày = 178.470.000 đồng.
Ông Đoàn Chí Ng là chồng của bà C không ký tên trong các hợp đồng cố đất
và cũng không có mặt khi các bên ký hoặc bàn bạc thoả thuận của hợp đồng cố đất,
nội dung này được ông Q, bà Kh, bà C đều thừa nhận. Tại phiên toà ông Q, bà Kh
rút lại yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Ng cùng có trách nhiệm với bà C trả
lại số tiền cầm cố. Do đó, cần đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện ông
Đoàn Chí Ng cùng có trách nhiệm trả số tiền cố đất và lãi phát sinh.
Kể từ ngày bà Kh, ông Q có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà C chậm trả
khoản tiền trên cho bà Kh, ông Q thì hàng tháng bà C còn phải chịu thêm khoản
tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự.
Ngoài ra, cần buộc ông Q, bà Kh giao trả cho bà Nguyễn Kim C 01 Hồ sơ
nhận giao khoán rừng và đất rừng sản xuất số 1279/32-079, hộ nhận khoán Nguyễn
Kim Cương (bản gốc) đối với phần đất nuôi trồng thuỷ sản diện tích 43.844,6m
2
thuộc thửa số 772, khoảnh 32, tiểu khu 079 toạ lạc tại ấp N, xã V, huyện N, tỉnh C
(hiện ông Q, bà Kh đang quản lý).
[4] Đối với số tiền 30.000.000 đồng, bà Kh, ông Q yêu cầu bà C trả do bà C
lấy thêm vào 06/10/2017 âm lịch, bà C không thừa nhận. Tại phiên toà, ông Q, bà
Kh xin rút lại yêu cầu khởi kiện về số tiền 30.000.000 đồng do chưa đủ căn cứ để
yêu cầu, xét thấy việc rút lại yêu cầu này là tự nguyện nên được chấp nhận.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp nên được chấp nhận.
[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án thì bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000
đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 23.139.000 đồng (tính tròn). Phần
dự nộp của bà Kh, ông Q được nhận lại.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
khoản 3 Điều 228, Điều 244, Điều 273, Điều 280 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều
7
123, 131 và Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 166, 167 Luật Đất đai; khoản 2 Điều
26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh Q, bà Nguyễn Kim Kh,
tuyên bố các hợp đồng cầm cố đất giao khoán lập ngày 19/5/2017 âm lịch, ngày
02/02/2020 và ngày 19/5/2020 âm lịch giữa ông Q, bà Kh với bà Nguyễn Kim C bị
vô hiệu.
Buộc bà Nguyễn Kim C có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh Q, bà Nguyễn
Kim Kh số tiền cố đất là 300.000.000 đồng và tiền lãi số tiền 178.470.000 đồng.
Kể từ ngày ông Q, bà Kh có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà C chậm trả
khoản tiền trên cho ông Q, bà Kh thì hàng tháng bà C còn phải chịu thêm khoản
tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự.
Buộc ông Q, bà Kh giao trả cho bà Nguyễn Kim C 01 Hồ sơ nhận giao
khoán rừng và đất rừng sản xuất số 1279/32-079, hộ nhận khoán Nguyễn Kim
Cương (bản gốc) đối với phần đất nuôi trồng thuỷ sản diện tích 43.844,6m
2
thuộc
thửa số 772, khoảnh 32, tiểu khu 079 toạ lạc tại ấp N, xã V, huyện N, tỉnh C (hiện
ông Q, bà Kh đang quản lý).
Đình chỉ đối với yêu cầu của ông Q, bà Kh về việc kiện số tiền 30.000.000
đồng và yêu cầu ông Đoàn Chí Ng cùng có trách nhiệm trả số tiền cố đất và lãi
phát sinh.
Về án phí: Bà Nguyễn Kim C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 23.439.000
đồng (tính tròn). Bà Nguyễn Kim Kh, ông Nguyễn Thanh Q đã dự nộp tạm ứng án
phí số tiền 12.533.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0020644 ngày 27/10/2023 tại
Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được nhận lại.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Ngọc Hiển;
- Chi cục THADS huyện Ngọc Hiển;
- TAND tỉnh Cà Mau;
- Lưu hồ sơ, văn thư.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Thị Dung
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
Bùi Ngọc Dung Đào Văn Tươi Cao Thị Dung
Tải về
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 16/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm