Bản án số 125/2024/DS-PT ngày 25/06/2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 125/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 125/2024/DS-PT ngày 25/06/2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Số hiệu: 125/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: “Tranh chấp kiện đòi tài sản và tranh chấp hợp đồng vay tài sản, ủy quyền, đặt cọc, tặng cho quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2023/DS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2023/QĐ-PT ngày 01/11/2023, giữa các đương sự
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 125/2024/DS-PT
Ngày: 25 - 6 - 2024
V/v Tranh chấp kiện đòi tài sản và
tranh chấp hợp đồng vay tài sản,
ủy quyền, đặt cọc, tặng cho QSDĐ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên Tòa: Ông Nguyễn Văn Thư
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Nhum
Ông Lê Quang Ninh
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Tâm - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa:
Ông Lê Văn Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước
t xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án dân sự thụ số 154/2023/TLPT-
DS ngày 05/10/2023 về việc: “Tranh chấp kiện đòi tài sản tranh chấp hợp
đồng vay tài sản, ủy quyền, đặt cọc, tặng cho quyền sử dụng đất”. Do Bản án
dân sự thẩm số 12/2023/DS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân thị
Bình Long bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2023/QĐ-
PT ngày 01/11/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Nhật M, sinh năm 1993 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ 06, ấp Phú Lạc, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
- Bị đơn: Bà Văn Thị L, sinh năm 1959 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ 04, ấp X, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Mạnh C, sinh năm
1995 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp B, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị Phương Th, sinh năm 1974 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ 06, ấp Phú Lạc, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
2. Bà Trần Thị Mộng T , sinh năm 1990 (vắng mặt)
2
3. Ông Phan Công C , sinh năm 1991 (vắng mặt)
Cùng HKTT: Tổ 04, ấp X, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Hiện cư trú:
ấp T, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
4. Ông Phan Công Đ , sinh năm 1964 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ 04, ấp X, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
- Người làm chứng:
Bà Nguyễn Thị Thùy Dung, sinh năm 1978 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ 01, ấp T, xã P, thị B, tỉnh Bình Phước.
Người kháng cáo: Bị đơn Bà Văn Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện bản lời khai tại Tòa án nhân dân thị Bình
Long, cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn Ông Huỳnh Nhật M
và người đại diện theo ủy quyền thống nhất trình bày:
Trước đây, Bà Văn Thị L đã dùng tài sản của mình quyền sử dụng đất
thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện ch 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên
đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình
Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng
tên Văn Thị L, bảo lãnh với hình thức “Hợp đồng ủy quyền” toàn quyền
thửa đất trên cho ông Hoắc Chí Kiên sử dụng nhằm bảo đảm nghĩa vụ thanh
toán nđể ông K cho vợ chồng con trai bà L Phan Công C con dâu
Trần Thị Mộng T vay số tiền 2.300.000.000đ (Hai tỷ ba trăm triệu đồng) làm
ăn. Đến hạn thanh toán, để tiền trả nợ gốc lãi cho ông K, T đã nhờ
ông Tài giới thiệu vay tiền của bà Thanh.
Do đó, vào sáng ngày 27/6/2022, theo lời hẹn của T , ông M chở
Th đến văn phòng công chứng Thị Lan để kết hợp đồng ủy quyền, bà T
hứa sẽ thế chấp thửa đất số 507, tbản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài
sản gắn liền trên đất tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, xã Thanh Phú, thị Bình
Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày
08/5/2018 đứng tên Văn Thị L, để vay của Th số tiền 2.900.000.00
(Hai tỷ chín trăm triệu đồng), tuy nhiên khi đến văn phòng công chứng Thị
Lan, thì T nói phải chiều ông K mới ra được (ông K người đang được
L ủy quyền mảnh đất trên, phải đợi ông K ra ký hủy hợp đồng ủy quyền
cùng bà L, thì hợp đồng ủy quyền của bà Th và bà L mới được ký kết), nên hẹn
lại buổi chiều. Chiều ngày 27/6/2022, ông M đến Văn phòng công chứng
Thị Lan để thực hiện xong hợp đồng ủy quyền nêu trên, khi đến Văn phòng
công chứng Vũ Thị Lan có bà T , bà L và ông K . Tại đây, bà T yêu cầu ông M
chuyển 2.472.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm bảy mươi hai triệu đồng), cho ông K
để thanh toán nợ của gia đình T để ông K hủy hợp đồng ủy quyền
3
mảnh đất trên, sau khi thực hiện xong, L đã hợp đồng ủy quyền cho
Phạm Thị Phương Th toàn quyền định đoạt các quyền tài sản liên quan đến
mảnh đất trên, đồng thời ông M đã chuyển khoản cho T vào tài khoản
đứng tên Trần Thị Mộng T số tiền 159.400.000đ (Một trăm năm mươi chín
triệu bốn trăm nghìn đồng) sau khi trừ đi 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) phí
công chứng và 168.000.000đ (Một trăm sáu mươi tám triệu đồng) tiền lãi phải
trả trước 01 tháng mà đôi bên đã thỏa thuận. Đồng thời, trước đó, T vay
của ông Huỳnh Tấn Tài số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), T vay
Th thêm 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) để trả cho ông Tài, cộng với
tổng số tiền mượn ngày 27/6/2022, bà T thừa nhận vay của Th tổng số tiền
2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng)
Việc kết hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 giữa L Th
nhằm mục đích bảo đảm nghĩa vụ thanh toán cho khoản tiền Th cho
T vay, tại thời điểm y quyền về mặt ý chí, bà L người đã dùng tài sản
của mình, đứng ra “bảo lãnh” cho con dâu T vay tiền, việc ủy quyền
trên hoàn toàn tự nguyện, L đơn đề nghị công chứng. Trước khi văn
phòng công chứng cho bà L vào hợp đồng ủy quyền đã giải thích đầy đủ v
nội dụng giá trị pháp của hợp đồng, L tự nguyện tên, điểm chỉ,
không ai ép buộc, khi ông M giao tiền cho T , L đang mặt tại đó.
Sau khi thực hiện xong thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền giữa Phạm
Thị Phương Th Văn Thị L, Văn phòng công chứng giao hợp đồng ủy
quyền cùng với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Văn Thị L
cho ông M và bà Thanh.
Một thời gian sau, do nhiều thông tin liên quan đến việc T dùng
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thực hiện các giao dịch dân sự, lo
ngại cho khả năng trả nợ, cũng như thấy L tuổi cao, sức khỏe không ổn
định, nên phía ông M và bà Th đã liên hệ lại với bên phía L nhằm mục đích
thỏa thuận lại thời hạn trả nợ, rút ngắn thời gian thanh toán. Nên vào ngày
14/7/2022, ông M ng Th vào nhà L để thỏa thuận với L bà T ,
nhưng thời điểm này T đã bỏ đi đâu không nhà, chỉ L nhà, sau
khi thỏa thuận xong, L đồng ý xin 02 tháng thu xếp trả nợ, nên đôi bên thực
hiện việc kết hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trong
hợp đồng thể hiện cụ thể trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày 14/7/2022 đến này
14/9/2022, L quyền bán lại cho bên thứ 2 tài sản thửa đất số 507, tờ
bản đồ s27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp
Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước để thanh toán
cho Th số tiền 3.248.000.000đ (Ba tỷ hai trăm bốn mươi tám triệu đồng)
gồm cả tiền vay gốc và tiền lãi, nếu hết thời hạn trên mà không thực hiện được
thì Th quyền sang sổ. Khi kết hợp đồng đặt cọc, mặt Ông Phan
Công Đ chồng L , Dung con gái L , chồng bà L ông Định còn lấy
hợp đồng đọc kỹ nội dung, hoàn toàn không ý kiến gì, L cũng tự
nguyện ký vào hợp đồng.
4
Khi hết thời hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc ngày
14/7/2022, đến ngày 14/9/2022, L gia đình L không ai ý kiến hay
liên lạc với gia đình ông M , nên theo như thỏa thuận Th đã thực hiện thủ
tục tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện
tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân,
Thanh Phú, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cho ông M, ông M đã đăng
biến động được quan thẩm quyền cập nhật biến động công nhận
quyền sử dụng đất ngày 12/10/2022. Tuy nhiên, sau đó, khi ông M liên hệ
L để yêu cầu bàn giao nhà đất thì L không đồng ý, nên đã liên hệ với
Ủy ban nhân dân Thanh Phú, trình bày với địa phương nhờ liên hệ với gia
đình bà L để giải quyết, nhưng vợ chồng ông Định, bà L đều không hợp tác.
Nay yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Bà Văn Thị L phải bàn giao thửa đất
số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất cho
Ông Huỳnh Nhật M .
Tại đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện đngày 04/7/2023 tại phiên tòa:
Ông M bổ sung yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Trường hợp Văn Thị L không
giao thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền
trên đất cho Ông Huỳnh Nhật M , thì yêu cầu Tòa án buộc Văn Thị L,
Trần Thị Mộng T Ông Phan Công C nghĩa vụ liên đới trả cho gia đình
ông M và bà Th số tiền nợ gốc là 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng)
cùng khoản tiền lãi suất 1% tháng, tính từ ngày 27/7/2022 đến ngày Tòa án đưa
vụ án ra xét xử.
Bị đơn Văn Thị L người đại diện theo ủy quyền của L thống
nhất trình bày:
Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.
Văn Thị L 01 mảnh đất thuc thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27,
diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, xã
Thanh Phú, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường
tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CN 128645, số
vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018. Mảnh đất này gia đình L nhận chuyển
nhượng lại tnăm 1995 của Nguyễn Thị Chương (hiện Chương đi đâu,
làm gì gia đình không biết) diện tích lúc nhận chuyển nhượng 1942m
2
, được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu năm 1997, sau này L
tách ra cho con trai một phần diện tích (ngang 10m sau khoảng 36m),
chuyển nhượng lại cho ông Dương Văn Thành, sinh năm 1958 thêm 5m, nên
được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2018 sau khi bán cho
ông Thành, diện tích còn lại hiện gia đình đang sử dụng 1188.2m
2
, trên đất
gia đình đã xây dựng 01 căn nhà cấp 4 kiên cố, trồng cây ăn trái và trồng
tiêu. Theo L đây tài sản chung của L chồng Ông Phan Công Đ ,
sinh năm 1964
Sáng ngày 27/6/2022, con dâu L tên Trần Thị Mộng Tuyền, cầm
01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Trần Thị Mộng Tuyền, nói
5
với bà L là ra ký giúp con dâu một hợp đồng ủy quyền để vay số tiền
300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng), T nói để đễ nói chuyện với bên vay, đã
chuyển nhượng cho bà L mảnh đất đứng tên T , nên mới nhờ L ra
ủy quyền để vay tiền. Bà L tin tưởng con dâu, nên đã đi theo con dâu tôi ra Văn
phòng công chứng Thị Lan, khi đến văn phòng công chứng, một người
phụ nữ không biết ai, sau đó T dẫn L vào hợp đồng công chứng,
mà bản thân bà L không hề biết nội dung cụ thể trên hợp đồng công chứng viết
gì, chỉ tin tưởng con nên ký vào. Sau này bà L mới biết bị bà T đánh tráo và đã
giao sổ thật thửa đất do bà L đứng tên cho bà Thanh, ông M .
L trình bày không hề biết việc giao dịch vay mượn giữa bà T
Th cụ thể nthế nào, chỉ biết bà T nói vay số tiền 250.000.000đ (Hai trăm
năm mươi triệu đồng), tuy nhiên việc giao nhận tiền cụ thể như thế nào L
không biết, cũng chưa bao giờ nghe tới số tiền 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín
trăm triệu đồng).
Sau đó một thời gian, vào ngày 14/7/2022, ông M cùng Th 02
người đàn ông khác, đến nhà L nói chuyện, ông M i nhà L đã tới hạn
phải đóng tiền lời không đóng, không trả tiền thì bây giờ ông M tự sang
tên Giấy chứng nhận được, nên yêu cầu gia đình thương lượng, không được
ông M sẽ tự sang tên. Do bối rối, nên L gia đình (thời điểm đó có mặt cả
ông Định chồng bà L Dung con gái L ) đã xin ông M thương lượng
lại, kéo dài thời gian, ban đầu ông M cho 01 tháng, bán lại tài sản thanh toán
cho ông M , gia đình L xin 02 tháng, ông M đồng ý, với thỏa thuận 02
tháng thay vì 2.700.000.000đ (Hai tỷ bảy trăm triệu đồng) phải ký thành
3.248.000.00(Ba tỷ hai trăm bốn mươi tám triệu đồng), tại thời điểm này,
không biết thực tế như thế nào cũng muốn thêm thời gian thu xếp nên
L đã đồng ý ký. Tuy nhiên, sau đó, gia đình tìm hiểu, được biết L không
hề biết về khoản vay trên, đây là khoản vay giữa T Thanh. vậy,
nay nếu Th muốn yêu cầu thanh toán khoản nợ trên thì phải khời kiện T
ông C , hợp đồng ủy quyền được giữa Th L do L bị lừa
dối, hợp đồng đặt cọc ngày 14/7/2023 hợp đồng giả tạo, nhằm che giấu
hợp đồng vay nên hiệu, do đó kéo theo hợp đồng tặng cho ngày 24/9/2023
cũng không hiệu lực. Bị đơn yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án tuyên hủy
hợp đồng đặt cọc ngày 14/7/2022, hủy hợp đồng tặng cho ngày 24/9/2022,
buộc ông M phải thực hiện thủ tục chuyển quyền shữu tài sản thửa đất số
507, tờ bản đồ 27 lại cho Bà Văn Thị L.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị Phương Th trình
bày:
Vào ngày 27/6/2022, theo lời hẹn của T , Th đến Văn phòng công
chứng Vũ Thị Lan để ký kết hợp đồng ủy quyền, bà T hứa sẽ thế chấp thửa đất
số 507, tbản đồ s27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa
lạc tại ấp Thanh Xuân, xã Thanh Phú, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, được
Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền s
6
dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn
Thị L, để cho Tuyên vay số tiền 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu
đồng). Quá trình thực hiện việc vay mượn và ký hợp đồng ủy quyền, con bà Th
Huỳnh Nhật Minh đã chuyển khoản 2.472.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm bảy
mươi hai triệu đồng) cho ông K theo ý kiến của bên vay T , đgia đình
T thanh toán nợ cho ông K , để ông K hủy hợp đồng ủy quyền và hợp đồng
chuyển nhượng mảnh đất trên, sau khi thực hiện xong, L đã ký hợp đồng ủy
quyền cho Th toàn quyền định đoạt các quyền tài sản liên quan đến mảnh
đất trên.
Ngoài ra, ông M đã trực tiếp chuyển khoản cho T số tiền
159.400.000đ (Một trăm năm mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) sau khi trừ
đi 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) phí công chứng và 168.000.000đ (Một trăm
sáu mươi tám triệu đồng) tiền lãi theo thỏa thuận phải trả trước 01 tháng.
Việc kết hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 giữa L Th
nhằm mục đích bảo đảm cho khoản tiền T vay của Thanh, cụ thể là
L đồng ý người đứng ra “bảo lãnh” cho con dâu T vay tiền bằng
quyền tài sản quyền sử dụng đất do L đứng tên. Tại thời điểm văn phòng
công chứng công chứng hợp đồng ủy quyền Công chứng viên đã giải thích
đầy đủ cho L nghe vnội dụng giá trị pháp của hợp đồng, bà L tự
nguyện tên, điểm chỉ, không ai ép buộc.. Nên không thể chuyện L
không biết gì về nội dung ủy quyền mà vẫn ký tên.
Giữa Th L không trực tiếp kết hợp đồng vay tiền số tiền
2.900.000.00(Hai tỷ chín trăm triệu đồng) nào cả, đây số tiền T (con
dâu L ) vay, nhưng L người đứng ra ký thế chấp thửa đất số 507, t
bản đồ s27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp
Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước đứng tên
Văn Thị L để “bảo lãnh” cho T vay tiền. Việc này được thể hiện bằng
hành vi ý chí của L khi hợp đồng ủy quyền cho Th được toàn
quyền định đoạt đối với mảnh đất đứng tên bà L , nên không hề hành vi lừa
dối như bà L trình bày.
Đối với khoản tiền vay 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng),
Th yêu cầu Tòa án xem xét buộc bên T bà L nghĩa vụ liên đới trả nợ
số tiền trên cho Thanh, cộng tiền lãi phát sinh theo quy định của pháp luật.
Trường hợp, bên L , bà T trả lại số tiền trên Th đồng ý để ông M
chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất trên cho L , hủy hợp đồng ủy quyền
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Nếu không, xét thấy hợp đồng ủy
quyền ngày 27/6/2022, hợp đồng đặt cọc ngày 14/7/2022 và hợp đồng tặng cho
giữa Th Huỳnh Nhật Minh ngày 24/9/2022, hoàn toàn hợp pháp,
hiệu lực pháp luật đề nghị Tòa án xem xét công nhận, buộc L bàn giao nhà
và đất cho ông M theo yêu cầu khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Phan Công Đ trình bày:
Thống nhất lời trình bày với L . Việc vay mượn giữa T
7
Thanh, ông Định hoàn toàn không biết, nên không thể bắt gia đình ông Định
chịu trách nhiệm thay cho bà T . Ông Định không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, tất cả các giao dịch do bà L thực hiện do bị bị lừa dối tin
tưởng con cái. Nên đề nghị Tòa án xác minh cụ thể, giải quyết theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Trần Thị Mộng T trình bày:
Việc kết hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 giữa mẹ chồng T là
Văn Thị L Phạm Thị Phương Th tại Văn phòng công chứng Thị
Lan, xuất phát từ việc vợ chồng bà T làm ăn thua lỗ, nợ nần nhiều nơi, nên cần
vay tiền để trang trải. Văn Thị L đồng ý cho vợ chồng T mượn Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích
1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, Thanh
Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh
Bình Phước cấp số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên
Văn Thị L để thế chấp vay tiền. Ban đầu vay của ông Hoắc Chí Kiên số
tiền 2.300.000.000đ (Hai tỷ ba trăm triệu đồng), ông K yêu cầu gia đình bà T
phải tài sản thế chấp, nên bà L đồng ý ủy quyền toàn quyền định đoạt
mảnh đất trên cho ông K , tuy nhiên vì khi vay của ông K đến khi tiền lời cộng
với tiền gốc lên tới gần 2.500.000.000đ (Hai tỷ năm trăm triệu đồng), ông K
nói nếu gia đình bà T không thanh thanh toán nợ, ông K sẽ thanh đất. Do
đó, đkhông bị thanh đất, T hỏi ông Tài vay tiền, thì ông Tài giới
thiệu bà Th để T vay tiền.
Khi chỗ vay để trả tiền cho ông K , T về nói chuyện với chồng
ông C , ông C nói chuyện với L , L đồng ý ra ủy quyền để vay
tiền, lúc đầu L smất đất cũng hỏi giấy tay được không, nhưng bên
Th không đồng ý. Sau đó, bà L đồng ý ra ủy quyền vào ngày 27/6/2022 cho
Phạm Thị Phương Th để “bảo lãnh” nghĩa vụ thanh toán cho T ông
C khi vay tiền. Cụ thể: vào ngày 26/6/2022, T Văn Thị L cùng ra
văn phòng công chứng Thị Lan để làm hồ ủy quyền, nhưng Văn phòng
công chứng báo chưa làm kịp hồ giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của
L hết hạn phải làm lại. vậy, T bà L về Ủy ban nhân dân Thanh
Phú làm lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho L , đến sáng ngày
27/6/2022 thì lấy được giấy, mang lên Văn phòng công chứng làm hồ sơ. Đến
chiều 27/6/2022, T cùng L đến Văn phòng công chứng Thị Lan ký
hợp đồng ủy quyền toàn quyền định đoạt đối với mảnh đất thuộc thửa đất s
507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc
tại, ấp Thanh Xuân, Thanh Phú, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, được
Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn
Thị L, cho Bà Phạm Thị Phương Th .
Việc kết hợp đồng ủy quyền nhằm mục đích để “bảo lãnh” vợ chồng
T vay tiền của Thanh, số tiền 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu
đồng). Tại văn phòng công chứng bà T có viết “giấy vay tiền” bằng tay với
8
Phạm Thị Phương Th , stiền trong giấy ghi 2.800.000.000đ (Hai tỷ tám trăm
triệu đồng), nhưng thực tế T mượn thêm 100.000.000đ (Một trăm triệu
đồng) do ông Tài đưa cho T trước đó, trong giấy ghi sai ngày lập giấy vay
vào 27/7/2022, do sai sót nhầm lẫn của T khi viết giấy, thực tế giấy vay
được viết vào ngày 27/6/2022 cùng ngày L hợp đồng ủy quyền cho bà
Thanh. Thời điểm hợp đồng ủy quyền với Thanh, L biết nội dung
được kết, Công chứng viên đọc nội dung của hợp đổng y quyền cho
L được biết trước khi ký. Việc chuyển tiền cụ thể tuy L không biết, nhưng
L biết ủy quyền để vay tiền, tiền trả cho ông K đưa lại sổ qua
bên này cho Thanh. Hơn nữa, đây không phải lần đầu bà L đồng ý hợp
đồng ủy quyền toàn quyền định đoạt đối với quyền sdụng đất đứng tên bà L
để “bảo lãnh” cho vợ chồng bà T , ông C vay tiền, trước đó cũng đã hợp
đồng ủy quyền tương tcho ông K để vay tiền. Số tiền vay phải trả ông K
bà L biết rõ.
Đến ngày 14/7/2022, Th anh Tài lên bà L thỏa thuận xem khi
nào thì trả được nợ, thời hạn cụ thể như thế nào. Lúc đó, bà T không ở nhà, chỉ
biết sự việc, ông Tài quay video gửi lên cho bà T . Được biết lúc đó L
đã đồng ý thỏa thuận theo phương án xin thêm 02 tháng sắp xếp, bán lại nhà
đất cho người khác để thanh toán nợ cho Thanh, nên mới đồng ý Hợp
đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử đất với bà Thanh.
Nay Ông Huỳnh Nhật M khởi kiện Văn Thị L yêu cầu Tòa án buộc
Văn Thị L phải bàn giao thửa đất s 507, tờ bản đồ số 27, diện tích
1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất cho ông Huỳnh Minh Nhật. T thừa
nhận vay của Phạm Thị Phương Th số tiền 2.900.000.00(Hai tỷ chín
trăm triệu đồng), đây nợ chung của T chồng ông C , việc vay mượn
này bà L cũng biết rõ, nhưng nay bà T mong muốn bên bà Th và anh Minh cho
gia đình thời gian sắp xếp để thanh toán nợ, giữ lại tài sản nhà cửa cho cha
mẹ.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Phan Công C vắng mặt tại
phiên tòa, tại biên bản lấy lời khai ngày trình bày:
Trước đó, do vợ ông C , T quen biết với anh Hoắc Chí Kiên (vì
cùng là người đi làm đất – mua bán đất đai), nên đã vay của anh Kiên
2.300.000.00 (Hai tỷ ba trăm triệu đồng), sau này tiền lãi lên gần
2.500.000.000đ (Hai tỷ năm trăm triệu đồng), việc vay mượn này cũng được ký
bảo đảm bằng hình thức hợp đồng ủy quyền mảnh đất của Văn Thị L cho
ông Hoắc Chí Kiên.
Sau khi đến hạn vay, ông K đòi tiền, nếu gia đình ông C không thanh
thanh toán nợ thì ông K sẽ thanh đất, nên phải vay tiền từ bà Th để thanh
toán cho ông K , các giao dịch vay tiền, ủy quyền trên tuy ông C không trực
tiếp tham gia nhưng đều biết. Việc kết hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022
giữa mẹ của ông C - Bà Văn Thị LBà Phạm Thị Phương Th tại Văn phòng
công chứng Thị Lan, ông C không trực tiếp mặt nhưng biết, xuất
9
phát từ việc vợ chồng ông C làm ăn thua lỗ, nợ nần nhiều nơi, nên cần vay tiền
để trang trải mẹ của ông C Văn Thị L đồng ý cho vợ chồng ông C
mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 507, tờ bản đồ
số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh
Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên
môi trường tỉnh Bình Phước cấp số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày
08/5/2018 đứng tên Văn Thị L để vay tiền, nên đã đồng ý ra ủy quyền
(nhằm bảo lãnh) cho vợ chồng ông C vay tiền của Thanh. Thời điểm
hợp đồng ủy quyền với Thanh, bà L biết nội dung được kết, trước
đó vợ chồng ông C đã nói chuyện với L về việc cần vay tiền để trang trải
nợ nần, bà L đã đồng ý đứng ra dùng tài sản là quyền sử dụng đất của mình bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông C . Tất cả việc chuyển khoản nhận tiền
do T người trực tiếp tham gia, nhưng ông C đồng ý với ý chí của T
khi thực hiện việc vay mượn tiền trên.
Ông C thừa nhận vợ chồng ông vay của Phạm Thị Phương Th
số tiền 2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng), việc vay mượn này L
biết rõ, ông C đồng ý trả stiền vay 2.900.000.00(Hai tỷ chín trăm triệu
đồng) cho Thanh, nhưng hiện hoàn cảnh của vợ chồng ông đang khó khăn,
mong muốn bên Th ông M cho gia đình thời gian sắp xếp để thanh
toán nợ, thực tế đây việc vay mượn tiền của vợ chồng ông với
Thanh, L không nhận bất cứ khoản tiền nào từ Thanh, chỉ thương con
nên giúp đỡ, ủy quyền bằng tài sản của mình để bảo đảm cho vợ chồng ông
vay tiền, do đó, bên ông C không mong muốn giao nhà và đất trên.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị Thùy Dung trình bày ý kiến:
Việc vay mượn của T và Thanh, Dung không biết; Việc mẹ
Bà Văn Thị L đi ký hợp đồng ủy quyền cho Bà Phạm Thị Phương Th quyền
sử dụng đất thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản
gắn liền trên đất (nhà) tọa lạc tại, ấp Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình
Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp số
CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn Thị L,
Dung cũng không biết, nên bà Dung không có ý kiến gì. Khi ông M tới nhà để
thỏa thuận hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng (bản chất chốt nợ tiền lời
phát sinh), thì phía ông M chỉ nói nếu không trả, không thì ông M cũng t
bán được tài sản này, nên L mới phải ký tên vào hợp đồng đặt cọc. Bà Dung
đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, không
có ý kiến gì thêm.
Tại Bản án dân sự thẩm số 12/2023/DS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án
nhân dân thị xã Bình Long đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Huỳnh
Nhật M và người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia với bên nguyên
đơn Bà Phạm Thị Phương Th .
10
1.1 Buộc Trần Thị Mộng T , Ông Phan Công C Văn Thị L
nghĩa v liên đới trả lại cho Phạm Thị Phương Th số tiền vay
2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng) và tiền lãi phát sinh 314.000.000đ
(Ba trăm mười bốn triệu đồng), tổng số tiền phải thanh toán: 3.214.000.000đ
(Ba tỷ hai trăm mười bốn triệu đồng).
Trường hợp, bên nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán
hoặc thanh toán không đầy đủ, cần phát mãi tài sản quyền sử dụng đất thửa
đất s507, tbản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất,
tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, xã Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước,
được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 để thi hành án,
thì Ông Huỳnh Nhật M Bà Phạm Thị Phương Th được ưu tiên thanh toán.
Kể từ ngày bản án hiệu lực đơn yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án)
cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành
án còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp quan thi hành án dân sự xử tài sản đảm bảo nghĩa vụ
của bên vay bên thế chấp tài sản nếu xảy ra tranh chấp tngười quyền
sở hữu chung đối với tài sản này, Chấp hành viên quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại khoản 12 Điều 26;
khoản 9 Điều 27 của Bộ luật tố tụng dân sự Điều 74 của Luật thi hành án
dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1.2 Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, tuyên bhợp đồng
đặt cọc ngày 14/7/2022 hợp đồng tặng cho ngày 24/9/2022 hiệu, buộc
Ông Huỳnh Nhật M có nghĩa vụ thực hiện việc chuyển quyền sở hữu quyền sử
dụng đất thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn
liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh
Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018,
tặng cho được cập nhật biến động công nhận quyền sử dụng đất ngày
12/10/2022 cho Ông Huỳnh Nhật M lại cho Bà Văn Thị L.
Hủy cập nhật biến động ngày 12/10/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng
đất đai thị Bình Long, tỉnh Bình Phước từ tên Văn Thị L sang tên
Ông Huỳnh Nhật M tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số
vào sổ CS 01019 được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp ngày
08/5/2018.
Buộc Ông Huỳnh Nhật M phải giao trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn
Thị L cho Văn Thị L. Trong trường hợp Ông Huỳnh Nhật M không giao
trả cho Văn Thị L Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CN 128645, s
vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 thì Văn Thị L quyền liên hệ quan
11
quản đất đai Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước để hủy cập
nhật biến động ngày 12/10/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thị
xã Bình Long, tỉnh Bình Phước từ tên Văn Thị L sang tên Ông Huỳnh Nhật
M tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019
ngày 08/5/2018 và cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định ván phí, nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Ngày 21/8/2023, bị đơn n ThLễ np đơn kháng cáo u cầu a án cấp
phúc thẩm không chấp nhn u cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
n ThL phải n giao thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất cho Ông Huỳnh Nhật M . Trường hợp Văn
Thị L không bàn giao thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất cho Ông Huỳnh Nhật M thì yêu cầu Tòa án buộc
Bà Văn Thị L có nghĩa vụ liên đới trả lại cùng Bà Trần Thị Mộng T , Ông Phan
Công C cho Thanh, ông M số tiền vay 2.900.000.00 cùng lãi suất
1%tháng từ ngày 27/7/2022 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn: Yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp
đồng đặt cọc ngày 14/7/2022 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bên
tặng cho Văn Thị L, người đại diện theo ủy quyền Nguyễn Thị
Phương Thanh với Ông Huỳnh Nhật M vào ngày 24/9/2022, buộc ông M phải
thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản thửa đất số 507, tờ bản đồ số
27 lại cho Bà Văn Thị L.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị đơn Văn Thị L người đại diện theo uỷ quyền của bđơn
Văn Thị L thay đổi một phần nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử huỷ
một phần bản án sơ thẩm vì cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng.
- Nguyên đơn giữ yêu cầu khởi kiện.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước phát biểu:
Về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ ván đến thời điểm xét xử
phúc thẩm, Thẩm phán Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Với những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa đề ngh Hội đồng t
xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn Bà Văn Thị L giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2023/DS-ST
ngày 08/8/2023 ca Tòa án nhân dân thị xã Bình Long.
12
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo:
Đơn kháng o của bị đơn Văn Thị L làm trong thời hn luật định,
hình thức nội dung phù hợp các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 nên cần xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn L , Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy rằng:
[2.1] Xuất phát từ tranh chấp giữa hợp đồng vay tài sản giữa Trần Thị
Mộng T Phạm Thị Phương Th đối với số tiền 2.900.000.000 đồng. Về
hợp đồng vay số tiền vay giữa T Thanh, do ông M (con trai
Thanh) thực hiện việc chuyển khoản, được các bên thừa nhận, phù hợp với
chứng cứ và lời khai người làm chứng về thời gian, quá trình thực hiện. Căn cứ
Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xác định đây là sthật các đương sự
không phải chứng minh.
Để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán số tiền vay của T , ngày
27/6/2022 tại Văn phòng công chứng Thị Lan L đã kết hợp đồng ủy
quyền, giao cho Th toàn quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất thuộc
thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện ch 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên
đất đứng tên L thời hạn ủy quyền 10 năm. L thừa nhận hợp đồng
ủy quyền vào ngày 27/6/2022 với Th để bảo đảm cho T vay tiền. Tuy
nhiên, L trình bày không biết ủy quyền bằng tài sản của L , khi
bị lừa dối cũng không biết số tiền mình bảo lãnh cho T vay
2.900.000.000 đồng, chỉ nghe T nói vay 250.000.000 đồng nên chỉ
xác định bảo lãnh trên giá trị khoản vay 250.000.000 đồng. Hội đồng xét xử
xét thấy:
Căn cứ hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 tại Văn phòng công chứng
Thị Lan (Bút lục số 11,12,13,14,15) Công văn số 02/CV-VPCCVTL
ngày 11/01/2023 (Bút lục số 115) tài liệu của Văn phòng công chứng
Thị Lan cung cấp chứng minh: L biết nội dung của hợp đồng ủy quyền
mình đang ký: L phiếu yêu cầu công chứng đề nghị công chứng viên
công chứng hợp đồng ủy quyền toàn quyền đối với Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất, Công chứng viên soạn thảo hợp đồng, các bên đọc bản thảo tiến
hành ký trước mặt Công chứng viên.
Mặt khác, căn cứ lời khai của những người làm chứng gồm ông Hoắc Chí
Kiên, ông Huỳnh Tấn Tài, Ông Phan Công C (con trai L ), Trần Thị
Mộng T (con dâu bà L ), phù hợp các tài liệu đã thu thập được, chứng minh
L biết việc vay mượn tiền của Th T , đối với số tiền 2.900.000.000
đồng.
13
Từ những phân tích nêu trên Tòa án xác định việc L trình bày
hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 bị lừa dối, không biết nội dung đã
hợp đồng ủy quyền với Th ủy quyền cho Th định đoạt quyền sdụng
đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho L không căn cứ
Hợp đồng ủy quyền được lập dựa trên ý chí tự nguyện của các bên, được
công chứng viên công chứng theo quy định, nên giá trị pháp luật. Do vậy,
việc bà L ký hợp đồng ủy quyền dùng tài sản của mình nhằm “bảo lãnh” cho
T và ông C vay tiền của bà Th là có căn cứ.
Do vậy, đối với lời trình bày của L chỉ bảo lãnh đối với việc T vay
số tiền 250.000.000 đồng không tài liệu, chứng cứ chứng minh. vậy,
đủ căn cứ xác định L ký hợp đồng ủy quyền ngày 27/6/2022 ủy quyền cho
bà Th để bảo lãnh cho bà T vay bà Th số tiền 2.900.000.000 đồng.
[2.2] Đối với hợp đồng đặt cọc ny 14/7/2022 tại nhà L , n cứ lời
khai của Thanh, ông M , L đều thống nhất thừa nhận, không giao dịch
đặt cọc nào được thực hiện vớich là một hợp đồng độc lập bảo đảm cho việc
thực hiện hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất. Đây chỉ là hình thức n
Th ông M chốt lại số tiền nợ gốc và lãin bà L có nghĩa vụ thanh tn
đã bảo nh cho T vay tiền. Bản chất nhằm che giấu cho hợp đồng vay tiền
giữa T bà Thanh, đảm bảo bằng tài sản của L . Nên xác định hợp
đồng đặt cọc ngày 14/7/2022 gia n Thị L Bà Phạm Thị Phương Th
hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự 2015.
[2.3] Đối với hợp đồng tặng cho ngày 24/9/2022 được Th kết với
Ông Huỳnh Nhật M , xét khi thực hiện việc kết hợp đồng tặng cho
Thanh, ông M biết tình trạng tài sản đang tặng cho. Cụ thể tài sản đối
tượng của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất số 507, tờ bản đồ
số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh
Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên
môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN
128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn Thị L hiện vẫn
do L trực tiếp quản sử dụng. Tài sản trên tuy được L sử dụng để “bảo
lãnh” cho nghĩa vụ thanh toán tiền vay của T , nhưng chưa được xử theo
quy định. Mặt khác, bên nhận tặng cho ông M biết rõ việc tại thời điểm ông M
nhận tặng cho tài sản, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan L gia
đình đang làm ăn, sinh sống trên đất, khi nhận tặng cho quyền sử dụng đất
Th ông M không tiến hành giao đất tài sản gắn liền với đất trên thực tế.
Từ đó xác định, việc Th định đoạt quyền tài sản, tặng cho ông M quyền sử
dụng đất đứng tên L , được thực hiện theo trình tthủ tục hợp pháp, nhưng
không ngay tình, nên không có hiệu lực.
Từ các căn cứ trên, Hội đồng xét xchấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn và yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Phạm Thị Phương Th buộc Trần Thị Mộng T , Ông Phan Công C
14
Văn Thị L có nghĩa vụ liên đới trả lại cho Bà Phạm Thị Phương Th số tiền vay
2.900.000.000 đồng và tiền lãi 314.000.000 đồng là có căn cứ.
[2.4] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Văn Thị L về việc đề nghị
Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc ngày 14/7/2022 hợp đồng tặng cho ngày
14/9/2022 giao dịch dân sự hiệu, buộc Ông Huỳnh Nhật M nghĩa vụ
thực hiện việc chuyển quyền sở hữu quyền sử dụng đất thửa đất số 507, tờ bản
đồ số 27 trả lại cho Bà Văn Thị L.
Hội đồng xét xử, xét thấy: Như đã phân tích tại mục [2.2] hợp đồng đặt
cọc ngày 14/7/2022 giữa L Th hiệu do giả tạo theo quy định tại
Điều 124 Bộ luật dân sự phân tích tại [2.3] việc bà Th định đoạt quyền tài
sản, tặng cho ông M quyền sử dụng đất đứng tên L , được thực hiện theo
trình tự thủ tục hợp pháp nhưng không ngay tình nên không có hiệu lực.
Do vậy, cần chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bđơn Văn Thị
L tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 14/7/2022 hợp đồng tặng cho ngày
14/9/2022 giao dịch dân sự hiệu, buộc Ông Huỳnh Nhật M nghĩa vụ
thực hiện việc chuyển quyền sở hữu quyền sử dụng đất thửa đất số 507, tờ bản
đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất tọa lạc tại ấp Thanh
Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước, được Sở tài nguyên
môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN
128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018, tặng cho và được cập nhật biến
động công nhận quyền sử dụng đất ngày 12/10/2022 cho Ông Huỳnh Nhật M
lại cho Bà Văn Thị L.
Như vậy, việc bị đơn Văn Thị L kháng cáo nhưng không đưa ra được
tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình
căn cứ. Do vy, kháng cáo ca L không có căn c không được Hội đồng xét
x cp phúc thm chp nhn.
[3] Ti phiên toà phúc thm, bđơn Văn Thị L người đại diện theo
uỷ quyền của bị đơn L thay đổi một phần nội dung kháng cáo, đnghị Hội
đồng xét xphúc thẩm huỷ một phần bản án thẩm cấp thẩm vi phạm
thủ tục tố tụng thụ lý đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện đề ngày 03/7/2023 là vượt
quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Hội đồng xét xử, xét thấy vi phạm tố tụng của
Toà án cấp sơ thẩm không làm ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên chỉ cần nhắc
nhở cấp sơ thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do bđơn L là người cao tuổi đơn
xin miễn án phí nên căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn nộp tiền án phí cho bà L .
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
15
[6] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Bà Văn Thị L; giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 12/2023/DS-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân thị
Bình Long, tỉnh Bình Phước.
Căn cứ vào các Điều 122, Điều 124, Điều 131, Điều 328, Điều 335, Điều
342, Điều 385, Điều 407, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 500 Điều 503
Bộ luật dân sự; Căn cứ Điều 147, khoản 2, 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 12, Điều 26,
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Huỳnh
Nhật M và người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia với bên nguyên
đơn Bà Phạm Thị Phương Th .
1.1 Buộc Trần Thị Mộng T , Ông Phan Công C Văn Thị L
nghĩa vụ liên đới trả lại cho Phạm Thị Phương Th số tiền vay
2.900.000.000đ (Hai tỷ chín trăm triệu đồng) và tiền lãi phát sinh 314.000.000đ
(Ba trăm mười bốn triệu đồng), tổng số tiền phải thanh toán: 3.214.000.000đ
(Ba tỷ hai trăm mười bốn triệu đồng).
Trường hợp, bên nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán
hoặc thanh toán không đầy đủ, cần phát mãi tài sản quyền sử dụng đất thửa
đất s507, tbản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn liền trên đất,
tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, xã Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh Bình Phước,
được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 để thi hành án,
thì Ông Huỳnh Nhật M Bà Phạm Thị Phương Th được ưu tiên thanh toán.
Kể từ ngày bản án hiệu lực đơn yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án)
cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành
án còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp quan thi hành án dân sự xử tài sản đảm bảo nghĩa vụ
của bên vay bên thế chấp tài sản nếu xảy ra tranh chấp tngười quyền
sở hữu chung đối với tài sản này, Chấp hành viên quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại khoản 12 Điều 26;
16
khoản 9 Điều 27 của Bộ luật tố tụng dân sự Điều 74 của Luật thi hành án
dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1.2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, tuyên bố hợp đồng
đặt cọc ngày 14/7/2022 hợp đồng tặng cho ngày 24/9/2022 hiệu, buộc
Ông Huỳnh Nhật M có nghĩa vụ thực hiện việc chuyển quyền sở hữu quyền sử
dụng đất thửa đất số 507, tờ bản đồ số 27, diện tích 1188.2m
2
cùng tài sản gắn
liền trên đất, tọa lạc tại ấp Thanh Xuân, Thanh Phú, thị Bình Long, tỉnh
Bình Phước, được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018,
tặng cho được cập nhật biến động công nhận quyền sử dụng đất ngày
12/10/2022 cho Ông Huỳnh Nhật M lại cho Bà Văn Thị L.
Hủy cập nhật biến động ngày 12/10/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng
đất đai thị Bình Long, tỉnh Bình Phước từ tên Văn Thị L sang tên
Ông Huỳnh Nhật M tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số
vào sổ CS 01019 được Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước cấp ngày
08/5/2018.
Buộc Ông Hunh Nhật M phải giao trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 đứng tên Văn
Thị L cho Văn Thị L. Trong trường hợp Ông Huỳnh Nhật M không giao
trả cho Văn Thị L Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CN 128645, s
vào sổ CS 01019 ngày 08/5/2018 thì Văn Thị L quyền liên hệ quan
quản đất đai Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bình Phước để hủy cập
nhật biến động ngày 12/10/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thị
xã Bình Long, tỉnh Bình Phước từ tên Văn Thị L sang tên Ông Huỳnh Nhật
M tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 128645, số vào sổ CS 01019
ngày 08/5/2018 và cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. V chi phí t tng: Ông Hunh Nht M chịu chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) theo phiếu thu ngày
20/4/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long.
3. Về án phí: Căn cứ theo Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng
dân sự, các Điều 12, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Trần Thị Mông Tuyền chồng Ông Phan Công C phải chịu
96.280.000 (Chín mươi sáu triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng) tiền án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Văn Thị L được miễn tiền án phí theo quy định. Do một phần yêu cầu
phản tố của bị đơn được chấp nhận nên Ông Huỳnh Nhật M phải chịu
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự không giá ngạch, trừ vào
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002847 ngày 11/11/2022 của Chi
cục thi hành án Dân sự thị xã Bình Long.
17
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật
thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành
án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án, quyền y u cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các điều 6, 7, 7a 9 của Luật thi hành án dân sđược sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của
Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí cho Bà Văn Thị L.
5. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Bình Phước;
- TAND tx B ;
- VKSND tx B ;
- Chi Cục THADS tx B ;
- Lưu: hồ sơ vụ án, Văn thư, Tổ HC-TP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Thư
18
Tải về
Bản án số 125/2024/DS-PT Bản án số 125/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 125/2024/DS-PT Bản án số 125/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất