Bản án số 265/2025/DS-PT ngày 06/11/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 265/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 265/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 265/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 265/2025/DS-PT ngày 06/11/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
| Số hiệu: | 265/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 06/11/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Trần Thị M |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
——————————
Bản án số: 265/2025/DS-PT
Ngày: 06/11/2025
V/v “Yêu cầu công nhận hợp đồng
Chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Anh
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Mai
Ông Trần Hoài Sơn
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Bá Huy - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Bà Lương Thị Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 11 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ lý số 12/2025/TLPT-DS ngày 14/02/2025, về
việc “Yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 98/2024/DS-ST ngày 17/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 137/2025/QĐ-PT ngày 12
tháng 4 năm 2025; Thông báo V/v thay đổi thời gian mở phiên tòa số 250/TB-TA ngày
05 tháng 5 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 261/2025/QĐ-PT ngày
30 tháng 5 năm 2025; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 288/2025/QĐ-PT ngày 24
tháng 6 năm 2025; Thông báo V/v thay đổi thời gian mở phiên tòa số 489/TB-TA ngày
14 tháng 7 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 344/2025/QĐ-PT ngày
14 tháng 8 năm 2025; Thông báo V/v thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 489A/TB-TA
ngày 27 tháng 8 năm 2025, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 429/2025/QĐ-PT ngày
26 tháng 9 năm 2025; Thông báo V/v thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 744/TB-TA
ngày 14 tháng 10 năm 2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Trần Thị M, sinh năm: 1977; Địa chỉ Tổ …, phường MA,
quận N (nay là phường N), thành phố Đ. Có mặt.
2
* Bị đơn: Ông Phạm C, sinh năm: 1931; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV
(nay là phường HV), thành phố Đ.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Phạm Thị Kim L, sinh năm:
1967; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV (nay là phường HV), thành phố Đ (theo
Giấy ủy quyền lập ngày 23/6/2025). Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn: Ông Trần Tuấn L - Luật sư Công
ty Luật TNHH 2TV HT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ; Địa chỉ liên hệ: Số …
YB, phường HC, thành phố Đ. Có mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân (UBND) phường HV, thành phố Đ (là người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của UBND huyện HV); Địa chỉ: Số … NPC, phường HV, thành
phố Đ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh X - Chức vụ: Chuyên viên
Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị phường HV, thành phố Đ (theo Giấy ủy quyền số
835/GUQ-UBND ngày 26/9/2025). Vắng mặt
- Phòng Kinh tế - Hạ tầng Đô thị phường HV, thành phố Đ (là người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện HV); Địa
chỉ: Số … NPC, phường HV, thành phố Đ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh X - Chức vụ: Chuyên viên
Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị phường HV, thành phố Đ. (theo Giấy ủy quyền số
01/GUQ-KTHT&ĐT ngày 26/9/2025). Vắng mặt
- Ông Phạm Sỹ Q, sinh năm: 1962; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV, (nay
là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Ông Phạm Sỹ T, sinh năm: 1966; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV, (nay
là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị Kim L, sinh năm: 1967; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV,
(nay là phường HV) thành phố Đ. Có mặt.
- Bà Phạm Thị Kim H, sinh năm: 1970; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV,
(nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị Kim D, sinh năm: 1972; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV,
(nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Ông Phạm Sỹ H, sinh năm: 1977; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV, (nay
là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị Mỹ H, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV,
(nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị Mỹ Trinh, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện
HV, (nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị Kim Ng, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Thôn NY, xã H, huyện HV,
(nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
3
- Bà Đỗ Thị Thu Ph, sinh năm: 1976; Địa chỉ: Số … đường NLB, phường H,
quận L, (nay là phường HV) thành phố Đ. Vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Củ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Nguyên đơn bà Trần Thị M trình bày:
Ngày 22/3/2019, ông Phạm Sỹ T đại diện gia đình ông Phạm C đã tự nguyện
viết giấy nhận cọc đặt cọc mua bán đất cho bà Đỗ Thị Thu Ph. Theo đó gia đình ông
Phạm C thỏa thuận thống nhất việc bán nhà và đất ở tại thửa đất số 235b tờ bản đồ
số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 với giá tiền là
550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng chẵn) và hai bên đã giao nhận
tiền đặt cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng chẳn) đồng thời ông Phạm C,
Phạm Sỹ Q (con trai cả) và Phạm Sỹ T đã ký vào giấy tờ nhận cọc. Sau đó để hoàn
thiện thủ tục chuyển nhượng nhà và đất nên gia đình ông Phạm C đã làm thủ tục
khai nhận di sản thừa kế theo văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã được
Văn phòng Công chứng Trần Thị Thanh B chứng nhận ngày 16/4/2019, trong đó
những người thừa kế thống nhất tặng cho toàn bộ phần di sản họ được hưởng và
phần tài sản của mình có trong khối tài sản của hộ gia đình cho ông Phạm C. Do
không có nhu cầu sử dụng đất, nên bà Ph thỏa thuận bán lại toàn bộ nhà và đất đã
mua của ông Phạm C cho bà Trần Thị M với giá 950.000.000 đồng (Chín trăm năm
mươi triệu đồng). Trên cơ sở thỏa thuận ba bên nên ngày 01/7/2022 ông Phạm C đã
viết Giấy bán đất và thỏa thuận, theo đó các bên đã thống nhất hủy việc mua bán nhà
đất trên với bà Đỗ Thị Thu Ph và nhất trí chuyển giao việc bán nhà và đất ở tại thửa
đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày
06/12/1996 cho bà Trần Thị M với giá 950.000.000 đồng (Chín trăm năm mươi
triệu đồng). Ông Phạm C, bà Ph đã nhận đủ tiền và ông Phạm C đã bàn giao nhà và
đất cho bà M quản lý, sử dụng đến nay. Sau khi nhận chuyển nhượng nhà và đất nêu
trên bà M đã bỏ tiền ra tu bổ nhà cửa và xây lại tường rào cổng ngõ. Theo Giấy bán
đất và thỏa thuận ngày 01/7/2022 thì ông Phạm C sẽ ủy quyền cho bà Trần Thị M
thay mặt ông C liên hệ cơ quan chức năng cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên ông Phạm C, sau đó hai bên sẽ thực hiện thủ tục chuyển nhượng
theo quy định. Do ông Phạm C mong muốn làm thủ tục tặng cho, tách sổ của những
thửa đất nông nghiệp (có chung trong sổ đất ở) cho các con nên bà M đã hỗ trợ ông
Phạm C làm những thủ tục này.
Vừa qua, Chủ tịch UBND huyện HV ban hành Công văn số 588/UBND-
TNMT ngày 24/3/2022 về việc hủy bỏ Công văn số 1019/UBND-VP ngày
09/10/2010 của UBND huyện HV về việc không giải quyết các hồ sơ đất đai đối với
4
các hộ dân vùng thiên tai sạc lở. Theo công văn này thì các hộ dân nằm trong vùng
sạc lở được cấp sẽ được cấp đổi lại sổ, trong đó có hộ ông C. Tuy nhiên, sau khi cấp
đổi sổ xong cho các thửa đất nông nghiệp, trong Giấy chứng nhận chỉ còn duy nhất
01 thửa đất ở đã bán cho bà Trần Thị M, nhưng ông Phạm C đã không làm thủ tục
ủy quyền cho bà M cũng như tiến hành các thủ tục cấp đổi mới giấy chứng nhận để
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở cho bà M như đã cam kết, mà ông Phạm C đã
nộp Giấy chứng nhận vào Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai chi nhánh tại
huyện HV, Phòng Tài nguyên và Môi trường, đề nghị thu hồi mục đích sử dụng thửa
đất ở đã bán cho bà M chuyển thành loại đất nông nghiệp, để nhằm mục đích sẽ
được công nhận mục đích đất ở cho lô đất tái định cư đã nhận trước đây. (Lý do:
thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2
trước đây diện tích đất này nằm
trong vùng sạc lỡ nên chính quyền đã giao cho ông Phạm C 01 lô đất tại khu định cư
(nhưng không có quyết định giao đất....). Việc ông Phạm C thống nhất bán nhà và
đất ở tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, trong đó có 400m
2
đất
ở còn lại là đất vườn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND
huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho bà M, nay ông Phạm C lại đề nghị chuyển toàn
bộ diện tích đất ở tại thửa này thành đất nông nghiệp là không đúng với thỏa thuận
giữa các bên, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà M.
Mặc dù bà M đã có thiện chí ủng hộ cho ông Phạm C một số tiền để ông chuyển
mục đích lô đất được cấp từ đất vườn thành đất ở nhưng ông C vẫn không đồng ý.
Nên đến nay việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà Trần Thị M đã
nhận chuyển nhượng của ông Phạm C bị kéo dài và cố tình không hợp tác.
Vì vậy, bà Trần Thị M đề nghị Tòa án nhân dân huyện HV tuyên công nhận
Giấy bán đất và thỏa thuận ngày 01/7/2022 trên cơ sở đó buộc ông Phạm C phải tiếp
tục chuyển nhượng nhà và đất tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là
561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng
đất số I 450597 vào sổ cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 0312
QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho bà Trần Thị M
theo đúng quy định.
* Quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình
bày:
Ngày 22/3/2019, ông Phạm Sỹ T đại diện gia đình ông Phạm C đã tự nguyện
viết giấy nhận cọc đặt cọc mua bán đất cho bà Đỗ Thị Thu Ph. Theo đó gia đình ông
Phạm C thỏa thuận thống nhất việc bán nhà và đất ở tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ
số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 với giá tiền là
550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng chẵn) và hai bên đã giao nhận
tiền đặt cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng chẵn) đồng thời ông Phạm C,
Phạm Sỹ Q (con trai cả) và Phạm Sỹ T đã ký vào giấy tờ nhận cọc. Sau đó để hoàn
thiện thủ tục chuyển nhượng nhà và đất nên gia đình ông Phạm C đã làm thủ tục
5
khai nhận di sản thừa kế theo văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã được
Văn phòng Công chứng Trần Thị Thanh B chứng nhận ngày 16/4/2019, trong đó
những người thừa kế thống nhất tặng cho toàn bộ phần di sản họ được hưởng và
phần tài sản của mình có trong khối tài sản của hộ gia đình cho ông Phạm C. Do
không có nhu cầu sử dụng đất, nên bà Ph thỏa thuận bán lại toàn bộ nhà và đất đã
mua của ông Phạm C cho bà Trần Thị M với giá 950.000.000 đồng (Chín trăm năm
mươi triệu đồng). Trên cơ sở thỏa thuận ba bên nên ngày 01/7/2022 ông Phạm C đã
viết Giấy bán đất và thỏa thuận, theo đó các bên đã thống nhất hủy việc mua bán nhà
đất trên với bà Đỗ Thị Thu Ph và nhất trí chuyển giao việc bán nhà và đất ở tại thửa
đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày
06/12/1996 cho bà Trần Thị M với giá 950.000.000 đồng (Chín trăm năm mươi
triệu đồng). Ông Phạm C, bà Ph đã nhận đủ tiền và ông Phạm C đã bàn giao nhà và
đất cho bà M, hiện nay gia đình ông Phạm C đang quản lý sử dụng thửa đất này. Sau
khi bà M nhận chuyển nhượng nhà và đất nêu trên bà M đã bỏ tiền ra tu bổ nhà cửa
và xây lại tường rào cổng ngõ.
Tuy nhiên, thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử
dụng đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 vào
sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND
huyện HV cấp ngày 06/12/1996 nằm trong vùng sạt lở và hiện nay Phòng Tài
nguyên và Môi trường đề nghị thu hồi mục đích sử dụng thửa đất ở đã bán cho bà
M chuyển thành loại đất nông nghiệp. Hiện tại thửa đất 235b, tờ bản đồ số 10 đã
được chuyển đổi thành đất trồng cây hàng năm.
Này bà Trần Thị M yêu cầu Toà án công nhận việc chuyển nhượng theo giấy
bán đất và thoả thuận ngày 01/7/2022 thì gia đình chúng tôi đồng ý. Tuy nhiên hiện
tại đất này đã được chuyển đổi qua đất trồng cây hàng năm. Trường hợp bà M
không đồng ý chuyển nhượng thửa đất này thì có thể nhận thửa đất mà ông Phạm C
đã được cấp tái định cư.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Sỹ H vắng mặt tại phiên
tòa nhưng ở cấp sơ thẩm có trình bày:
Về việc chuyển nhượng thửa đất 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 564m
2
giữa
ông Phạm C và bà Trần Thị M. Ông Phạm Sỹ H có ý kiến: Vẫn giao thửa đất nêu
trên cho bà Trần Thị M. Nếu không nhận thì vẫn đổi thửa đất nhà ở ông Phạm C đã
nhận nơi khu tái định cư NY. Nếu hai phương án trên bà Trần Thị M không đồng ý
thì ngừng giao dịch và gửi lại tiền.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ Thị Thu Ph vắng mặt tại
phiên tòa, nhưng tại cấp sơ thẩm có trình bày:
Ngày 22/3/2019, ông Phạm Sỹ Tùng, ông Phạm C và ông Phạm Sỹ Q đã tự
nguyện viết giấy nhận cọc đặt cọc mua bán đất cho bà Đỗ Thị Thu Ph. Theo đó gia
6
đình ông Phạm C thỏa thuận thống nhất việc bán nhà và đất ở tại thửa đất số 235b,
tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996
với giá tiền là 550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng chẵn) và hai bên
đã giao nhận tiền đặt cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng chẵn), số tiền
còn lại 150.000.000đ bà Ph đã cung cấp vật liệu xây dựng và thiết bị nội thất cho
ông Phạm C để xây dựng ngôi nhà mới tại vị trí mặt tiền đường ADB5 (đường NXT
nối dài lên HB), gồm: xi măng, gạch men lát nền, ốp tường, sơn vôi và thiết bị vệ
sinh. Sau khi xây xong nhà mới, ông Phạm C chuyển sang nhà mới ở và đã bàn giao
nhà và đất ở tại thửa đất 235b cho bà Ph và bà Ph đã quản lý sử dụng.
Sau đó để hoàn thiện thủ tục chuyển nhượng nhà đất để ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho bà Ph, gia đình ông Phạm C đã làm thủ tục khai nhận
di sản thừa kế theo văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế đã được Văn phòng
Công chứng Trần Thị Thanh B chứng nhận ngày 16/4/2019, trong đó có những
người thừa kế thống nhất tặng cho toàn bộ phần di sản họ được hưởng và phần tài
sản của mình có trong khối tài sản chung của hộ gia đình ông Phạm C.
Do thủ tục cấp đổi mới giấy chứng nhận quá lâu và bà Ph gặp khó khăn về tài
chính nên bà Ph đã liên hệ và báo ông Phạm C rằng bà Ph bán lại cho bà Trần Thị M
với giá 950.000.000đ và thoả thuận với ông Phạm C huỷ việc mua bán nhà và đất
trước đây và ông Phạm C trực tiếp ký bán nhà và đất trên cho bà Trần Thị M. Trên
cơ sở thoả thuận ba bên nên ngày 01/7/2022 ông Phạm C đã viết giấy bán nhà đất và
thoả thuận theo đó thống nhất huỷ việc mua bán nhà đất trên với bà Ph và thống nhất
chuyển giao việc bán nhà và đất ở tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là
561m
2
, mục đích sử dụng đất ở và đất vườn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0312
QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho bà Trần Thị M.
Ông Phạm C đã bàn giao nhà và đất cho bà Trần Thị M quản lý và mọi thủ tục sang
tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau khi được cấp đổi Giấy chứng nhận mới
ông Phạm C sẽ công chứng cho bà Trần Thị M.
Theo giấy bán đất và thoả thuận ngày 01/7/2022 thì ông Phạm C sẽ uỷ quyền
cho bà M thay mặt liên hệ cơ quan chức năng để làm thủ tục cấp lại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sau đó hai bên sẽ thực hiện thủ tục chuyển nhượng theo quy
định.
Tuy nhiên đến nay ông Phạm C đã không thực hiện các nội dung như đã cam
kết mà đã uỷ quyền cho bà Phạm Thị Kim L (con gái ông C) thay mặt và đã có đơn
đề nghị UBND huyện HV thu hồi thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2

7
loại đất ở tại nông thôn chuyển đổi thành đất nông nghiệp và công nhận lô đất tại
khu tái định cư mới.
Việc ông Phạm C đã ký bán nhà đất ở tại thửa đất số 235b tờ bản đồ số 10
diện tích 561m
2
trong đó có 400m
2
đất ở còn lại là đất vườn theo giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất số I 450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0312 QSDĐ/1080/QĐUB do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996, nay bà L đã
có đơn đề nghị thu hồi toàn bộ diện tích đất ở tại thửa đất số 235b tờ bản đồ số 10
này thành đất nông nghiệp là không đúng với thoả thuận giữa các bên gây thiệt hại
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ph và bà M.
Vì vậy, đề nghị Tòa án nhân dân huyện HV tuyên công nhận Giấy bán đất và
thỏa thuận ngày 01/7/2022 trên cơ sở đó buộc ông Phạm C phải tiếp tục chuyển
nhượng nhà và đất tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
, mục
đích sử dụng đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I
450597 vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB
do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho bà Trần Thị M theo đúng quy định.
* Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự số 98/2024/DS-ST ngày 17/12/2024
của Tòa án nhân dân huyện HV, thành phố Đ đã xử và quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện V/v “Yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” của bà Trần Thị M đối với ông Phạm C.
Căn cứ các Điều 26, 35, 39 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 129, Điều 500 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 100; Điều 167 của Luật đất đai 2013.
Tuyên xử:
- Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
Giấy bán đất và thoả thuận ngày 01/7/2022 giữa bên chuyển nhượng là ông Phạm C
và bên nhận chuyển nhượng là bà Trần Thị M.
Bà Trần Thị M có quyền liên hệ với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để
làm thủ tục sang tên chỉnh lý biến động hoặc cấp đổi đối với Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2
; loại đất: đất ở và
đất vườn; thời hạn sử dụng: Lâu dài (trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I
450597 do UBND huyện H cấp ngày 06/12/1996).
- Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 158 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Buộc ông Phạm C phải hoàn trả lại cho bà Trần Thị M số tiền Chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng).
- Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
8
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
- Hoàn trả cho bà Trần Thị M số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng) mà bà M đã nộp theo biên lai thu số 0009934 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ngày 25 tháng 4 năm 2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành
án.
* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/12/2024 ông Phạm C kháng cáo với nội
dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị M.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng phát
biểu về quan điểm giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết: Với những thiếu xót trong quá trình tố tụng của
cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, vì vậy cần thiết phải
hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung mới đảm bảo quyền lợi của
các bên đương sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng khoản 3
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 98/2024/DS-ST
ngày 17/12/2024 của TAND huyện HV, thành phố Đà Nẵng (nay là TAND khu vực
4, thành phố Đà Nẵng) và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND khu vực 4, thành phố Đà
Nẵng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Do hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại nên không xem xét kháng cáo của đương
sự trong vụ án này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan gồm: Ủy ban nhân dân phường HV, thành phố Đ; Phòng Kinh tế - Hạ
tầng, Đô thị phường HV, thành phố Đ; Ông Phạm Sỹ Q; Ông Phạm Sỹ T; Bà Phạm
Thị Kim H; Bà Phạm Thị Kim D; Ông Phạm Sỹ H; Bà Phạm Thị Mỹ H; Bà Phạm
Thị Mỹ T; Bà Phạm Thị Kim Ng; Bà Đỗ Thị Thu Ph vắng mặt lần hai không có lý
do. Căn cứ Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt các đương sự nói trên.
9
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Phạm C đối với yêu cầu khởi kiện
của bà Trần Thị M về việc yêu cầu Tòa án tuyên công nhận Giấy bán đất và thỏa
thuận ngày 01/7/2022 trên cơ sở đó buộc ông Phạm C phải tiếp tục chuyển nhượng
nhà và đất tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2
, mục đích sử dụng
đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597, vào sổ cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0312 QSDĐ/1080/QĐUB do Ủy ban nhân
dân huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho bà Trần Thị M theo đúng quy định, thì
thấy:
Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích là 561m
2
,
đất ở và đất vườn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 do Ủy ban
nhân dân huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho hộ ông Phạm C (sau này là ông Phạm
C) đã được ông Phạm C thoả thuận chuyển nhượng cho bà Đỗ Thị Thu Ph từ năm
2019 với giá 550.000.000 đồng (trên đất đã có ngôi nhà cấp 4 chưa được cập nhật
vào giấy chứng nhận), ông C đã nhận tiền và giao nhà đất cho bà Ph quản lý, sử
dụng nhưng chưa làm các thủ tục công chứng hợp đồng và chỉnh lý sang tên theo
quy định của pháp luật. Đến năm 2022 bà Ph chuyển nhượng lại nhà đất cho bà Trần
Thị M và ông C cũng thống nhất việc chuyển nhượng này của bà Ph nên ba bên viết
giấy bán đất và thoả thuận vào ngày 01/7/2022 với nội dung: bà Ph không còn liên
quan đến lô đất này, hiện nay ông C đã nhận đủ tiền của bà Ph và bàn giao nhà đất
cho bà M. Trên thực tế bà M đã được giao quản lý sử dụng nhà đất từ thời điểm mua
(năm 2022) cho đến nay.
Do ông Phạm C không làm các thủ tục liên quan để bà M được quyền sử dụng
nhà đất hợp pháp nên bà M khởi kiện yêu cầu công nhận giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 01/7/2022 có hiệu lực pháp luật, công nhận nhà đất tại thửa
đất số 235b thuộc quyền sử dụng của bà.
Mặc dù thửa đất 235b ông C đã chuyển nhượng cho bà M năm 2022 và bà M
đã khởi kiện, được Tòa án nhân dân (TAND) huyện HV thụ lý vụ án ngày 25/4/2023
nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, ông C lại đề nghị UBND huyện HV làm thủ
tục chuyển đổi loại đất tại thửa đất số 235b, từ đất ở và đất vườn, thời hạn sử dụng:
lâu dài sang đất trồng cây hàng năm có thời hạn sử dụng đến năm 2066 do thuộc
vùng sạt lở. Trong vụ án này, UBND huyện Hoà Vang đã được TAND huyện HV,
thành phố Đ đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan trong vụ án nhưng ngày 18/8/2023 vẫn ban hành Quyết định số 812/QĐ-
UBND điều chỉnh mục đích sử dụng đất đối với thửa đất số 235b cho ông C từ đất ở
sang đất trồng cây hàng năm khác, thời hạn sử dụng đất đến tháng 12/2066 và giao
cho ông C lô đất số 14 Khu B.5 Khu dân cư NY.
Sau khi phát hiện có Quyết định 812/QĐ-UBND nêu trên, bà M đã bổ sung
yêu cầu khởi kiện đề nghị huỷ quyết định này và TAND huyện HV chuyển vụ án
10
đến TAND thành phố Đ theo thẩm quyền. Tuy nhiên, TAND thành phố Đ lại ban
hành Quyết định số 37/2024/QĐST-DS ngày 04/7/2024 chuyển lại hồ sơ vụ án cho
TAND huyện HV giải quyết vì cho rằng: “Bà Trần Thị M chưa phải là chủ sử dụng
đất nên không có quyền khởi kiện quyết định hành chính này” nên không thuộc thẩm
quyền của TAND TP Đà Nẵng, bà M đã rút đơn yêu cầu huỷ Quyết định 812/QĐ-
UBND.
Đến ngày 28/8/2023 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện HV đã
chỉnh lý mục đích sử dụng đất tại thửa đất 235b từ đất ở sang đất trồng cây hàng
năm khác tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 do UBND huyện HV
cấp ngày 06/12/1996.
Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M, công nhận giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà M và ông C có hiệu lực pháp luật và
tuyên: “Bà Trần Thị M có quyền liên hệ với các cơ quan chức năng có thẩm quyền
để làm thủ tục sang tên chỉnh lý biến động hoặc cấp đổi đối với Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561 m
2
, loại
đất ở và đất vườn, thời hạn sử dụng: lâu dài (trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số I 450597 do Ủy ban dân huyện HV cấp ngày 06/12/1996)”.
Xét thấy Bản án sơ thẩm đã có các vi phạm sau:
- Bản án sơ thẩm đã không đánh giá đúng tình trạng pháp lý của thửa đất
tranh chấp vì:
Tại thời điểm xét xử sơ thẩm vụ án, UBND huyện HV có Quyết định số
812/QĐ-UBND chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất ở sang đất trồng cây hàng
năm khác, giao thêm cho ông C 01 lô đất tái định cư. Như vậy hiện trạng đất đã thay
đổi, do đó trong trường hợp Tòa án sơ thẩm công nhận quyền sử dụng đất cho bà M
thì bắt buộc phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính này. Thực tế khi
UBND huyện HV ban hành Quyết định 812/QĐ-UBND, bà M đã bổ sung yêu cầu
khởi kiện đề nghị hủy quyết định hành chính cá biệt và TAND huyện HV đã có
Quyết định chuyển vụ án đến TAND thành phố Đ để giải quyết theo thẩm quyền.
Tuy nhiên, TAND thành phố Đ lại ban hành Quyết định số 37/2024/QĐST-DS ngày
04/7/2024 chuyển hồ sơ vụ án lại cho TAND huyện HV vì cho rằng: “Bà Trần Thị
M chưa phải là chủ sử dụng đất nên không có quyền khởi kiện quyết định hành
chính này”, nhận định trên là không phù hợp, bởi lẽ: Bà M đã nhận chuyển nhượng
thửa đất số 235b và thực tế đang quản lý nhà đất trước khi có Quyết định 812/QĐ-
UBND nên quyền lợi của bà M phải bị ảnh hưởng bởi quyết định này, vì vậy bà có
quyền khởi kiện hành chính hoặc khiếu nại hành chính đối với Quyết định 812/QĐ-
UBND. Do quyết định này có liên quan trong vụ án tranh chấp dân sự nên yêu cầu
hủy Quyết định số 812/QĐ-UBND phải được xem xét trong cùng vụ án thì mới giải
11
quyết triệt để và phù hợp với những quy định của pháp luật. Đồng thời, việc Tòa án
cấp sơ thẩm công nhận “đất ở” cho bà M nhưng thực tế tại Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất số I 450597 do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cấp cho ông C
đã điều chỉnh sang đất “trồng cây hàng năm” dẫn đến bản án sơ thẩm không thể thi
hành trên thực tế vì Quyết định số 812/QĐ-UBND vẫn đang tồn tại.
Đồng thời Quyết định số 812/QĐ-UBND ngày 18/8/2023 của UBND huyện
Hòa Vang được ban hành khi thửa đất số 235b đang tranh chấp và chính UBND
huyện HV được xác định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan nhưng vẫn ban hành Quyết đinh số 812/QĐ-UBND là vi phạm khoản 2
Điều 188 Luật đất đai năm 2013, vì: Đất đang tranh chấp thì không được thực hiện
thủ tục chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng.
Hơn nữa, trong trường hợp công nhận bà M nhận thửa đất số 235b khi chưa
chuyển đổi thì phải xem xét quyền lợi của bà M đối với thửa đất số 235b đã chuyển
đổi thành đất trông cây hàng năm và lô đất được giao thêm (lô đất tái định cư).
- Không xác minh đây đủ chứng cứ để làm cơ sở giải quyết vụ án:
+ Theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 65 Luật đất đai thì “để thu hồi đất
ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính
mạng con người thì phải có cơ sở và điều kiện thu hồi theo quy định tại điểm đ,
khoản 2, Điều 65 Luật đất đai, nghĩa là phải có: “Văn bản của cơ quan có thẩm
quyền xác định mức độ ô nhiễm môi trường, sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người”.
Tòa án cấp sơ thẩm đã không yêu cầu UBND huyện HV cung cấp tài liệu
chứng minh trước khi ban hành Quyết định số 812/QĐ-UBND ngày 18/8/2023 của
UBND huyện HV, cụ thể như:
+ Có phải việc UBND huyện HV chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450579 do UBND huyện HV cấp ngày
06/12/1996 đối với thửa đất 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2
, loại đất ở và đất
vườn, thời hạn sử dụng lâu dài cho hộ ông Phạm C sang đất trồng cây hàng năm và
bố trí 01 lô đất tái định cư số 14 Khu B.5 tại thôn NY, xã H là để thực hiện chủ
trương di dời các hộ dân do ở trong vùng thiên tai sạt lở. Như vậy có phải 01 lô đất
tái định cư và toàn bộ diện tích đất trong Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số I
450579 do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cấp cho hộ ông Phạm C đã được
chuyển mục đích sử dụng đất theo Quyết định 812/QĐ-UBND ngày 18/8/2023 (và
đã đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là tiêu chuẩn của hộ
ông Phạm C được Nhà nước công nhận sau khi thực hiện việc di dời?
+ Chưa làm rõ việc xác định vùng bị ảnh hưởng thiên tai sạt lở, trong đó có
diện tích đất của ông Phạm C thể hiện trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
I 450579 do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 đối với thửa đất 235b, tờ bản

12
đồ số 10, diện tích 561m
2
, loại đất ở và đất vườn, thời hạn sử dụng lâu dài đã được
cơ quan nào xác định và đã có văn bản của cơ quan đó ban hành chưa. Cần yêu cầu
UBND huyện HV phải cung cấp bản sao văn bản đó. Đồng thời hiện nay vùng đất
nói trên có còn nằm trong vùng ảnh hưởng thiên tai sạt lở nữa không. Nếu không
còn thì đã có văn bản của cơ quan nào thông báo chưa. Trong khi đó bà M có văn
bản kiến nghị TAND thành phố với nội dung: các thửa đất xung quanh và liền kề
thửa đất 235b không bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất và người dân vẫn xây dựng
nhà ở bình thường. Tòa án sơ thẩm cũng không xác minh thực trạng sử dụng đất tại
khu vực có thửa đất số 235b đang tranh chấp.
- Đối với Lô đất 14 Khu B.5 Khu dân cư Nam Yên ông C được giao khi bị
chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại thửa đất 235b, TAND huyện HV cũng không
tiến hành xác minh thực trạng thửa đất tại thời điểm xét xử như thế nào? Ông C đã
được bàn giao đất và sử dụng đất trên thực tế ra sao? Đã nộp tiền sử dụng đất theo
Thông báo nộp tiền ngày 03/10/2023 của Chi cục thuế Khu vực CL- HV hay chưa?
để trong trường hợp công nhận cho bà M cũng phải xem xét quyền lợi của ông C
như: các tài sản trên đất mà ông C tạo lập (Tại cấp phúc thẩm, đại diện theo ủy
quyền của ông Phạm C trình bày: Lô đất tái định cư hiện nay ông Phạm C đã xây
dựng tường rào, cổng ngõ và trồng Bưởi), việc nộp tiền sử dụng đất của ông C để
làm căn cứ giải quyết vụ án.
- Tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm đã công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực và đồng thời tuyên: Bà Trần Thị M có quyền
liên hệ với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để làm thủ tục sang tên chỉnh lý
biến động hoặc cấp đổi đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối thửa đất số
235b, tờ bản đồ số 10; diện tích 561m
2
; loại đất: đất ở và đất vườn; thời hạn sử
dụng: Lâu dài (trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 450597 do UBND
huyện HV cấp ngày 06/12/1996). Nhưng hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nói trên đã chịu sự tác động của Quyết định 812/QĐ-UBND thu hồi thửa đất
235b của hộ ông Phạm C để bố trí 01 lô đất tái định cư ở thôn NY, xã H (cũ) và toàn
bộ thửa đất 235b được đăng ký biến động thành mục đích sử dụng: Đất trồng cây lâu
năm, do đó việc quyết định như trên sẽ không thi hành được.
- Theo yêu cầu khởi kiện, bà M yêu cầu ông C làm thủ tục chuyển nhượng
nhà đất cho bà theo Giấy bán đất và thỏa thuận ngày 01/7/2022 nhưng quá trình giải
quyết vụ án và quyết định của Bản án không đề cập đến tài sản trên đất là ảnh hưởng
đến quyền lợi của bà M; hơn nữa bà M nhận chuyển nhượng tài sản trong thời kỳ
hôn nhân nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ số tiền nhận chuyển nhượng là tài sản
chung vợ chồng hay tài sản riêng của bà M để bổ sung người tham gia tố tụng
(chồng bà M) là chưa chặt chẽ.
13
Ở giai đoạn phúc thẩm, TAND thành phố Đà Nẵng đã yêu cầu UBND phường
HV (cơ quan quản lý hành chính sau sát nhập), đơn vị kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của UBND huyện HV trước đây trình bày ý kiến đối với nội dung liên quan
đến Quyết định số 812/QĐ-UBND ngày 18/8/2023 của UBND huyện HV về việc
thu hồi đất, giao đất để xây dựng nhà ở do di dời từ vùng bị thiên tai và điều chỉnh
mục đích sử dụng đất đối với thửa đất số 235b, tờ bản đồ số 10, diện tích 561m
2
,
loại đất thổ cư, thời hạn sử dụng: lâu dài (Trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số I450597 do UBND huyện HV cấp ngày 06/12/1996 cho hộ ông Phạm C)”.
Ngày 29/8/2025, Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị phường HV có ý kiến, như
sau: “Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm thẩm tra, xác minh thực địa
trong trường hợp xét thấy cần thiết; trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định thu
hồi đất; tổ chức thu hồi đất trên thực địa và bàn giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất
hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý; chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất
đai, hồ sơ địa chính, thu hồi Giấy chứng nhận hoặc thông báo hủy Giấy chứng nhận
đối với trường hợp không thu hồi được Giấy chứng nhận”. Tuy nhiên, Phòng Kinh
tế, Hạ tầng và Đô thị phường HV chưa nhận được các hồ sơ liên quan đến việc thu
hồi đất, giao đất để xây dựng nhà ở do di dời từ vùng bị thiên tai của ông Phạm C.
Do đó, Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị phường HV chưa có cơ sở cho ý kiến”.
Như vậy ở giai đoạn phúc thẩm đã tiến hành xác minh nhưng chưa thể làm rõ những
nội dung mà bản án sơ thẩm còn thiếu sót.
Từ phân tích trên cho thấy những vi phạm của TAND huyện HV, Tòa án cấp
phúc thẩm không thể khắc phục được, nên cần thiết phải hủy Bản án sơ thẩm để giải
quyết lại theo thủ tục chung mới đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự. Do đó,
Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Hủy
Bản án dân sự sơ thẩm số: 98/2024/DS-ST ngày 17/12/2024 của TAND huyện HV,
thành phố Đ (nay là TAND khu vực 4, thành phố Đ) và chuyển hồ sơ vụ án cho
TAND khu vực 4, thành phố Đ giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Đồng thời
khi giải quyết lại cần thụ lý yêu cầu hủy quyết định cá biệt là Quyết định 812/QĐ-
UBND, như vậy mới giải quyết triệt để vụ án và đảm bảo việc thi hành án sau này
(nếu để bà M khởi kiện riêng Quyết định 812/QĐ-UBND bằng vụ án hành chính thì
không đảm bảo về mặt thời hiệu khởi kiện).
Do hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại nên không xem xét kháng cáo của đương
sự trong vụ án này.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm ông Phạm C không phải chịu. Hoàn trả lại số tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm ông Phạm C đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:

14
Căn cứ vào: khoản 3 Điều 308, các Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
1. Tuyên hủy Bản án dân sự số: 98/2024/DS-ST ngày 17/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện HV, thành phố Đ. (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 4, thành phố
Đ).
Giao hồ sơ vụ án cho TAND khu vực 4, thành phố Đ giải quyết lại vụ án theo
thủ tục sơ thẩm.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Phạm C không phải chịu. Hoàn lại số tiền
tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Phạm C đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn
đồng) tại biên lai thu số 0008333 ngày 31/12/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện HV, thành phố Đ (cũ).
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP Đà Nẵng;
- TAND Khu vực 4;
- THADS khu vực 4;
- THADS TP Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Tổ nghiệp vụ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Anh
15
16
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm