Bản án số 174/2025/DS-PT ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 174/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 174/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 174/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 174/2025/DS-PT ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 174/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Huỳnh Thị H “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” Trần Thị N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Các Thẩm phán: 1. Bà Hoàng Thị Thúy Lành
2. Ông Đinh Tiền Phương
- Thư ký phiên tòa: Ông Hà Tấn Phong - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Tho - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 562/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng
11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu trả lại bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện BL bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 534/2024/QĐ-PT ngày 27 tháng 11
năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Ấp 5, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Lê Anh T2, sinh năm
1982. Địa chỉ: ấp VK, xã BA, huyện TT, tỉnh Long An. (Theo Giấy ủy quyền
ngày 11/01/2024) (có mặt).
Bị đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1961.
Địa chỉ: khu phố 6, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh Long An (có đơn xin xét xử
vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Dương Văn S, sinh năm 1958.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 174/2025/DS-PT
Ngày: 04-3-2025
Về việc:“Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản, yêu cầu trả lại bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Ông Dương Xuân P, sinh năm 1993.
3. Ông Dương Xuân Đ, sinh năm 1997.
Cùng địa chỉ: khu phố 6, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S, ông P, ông Đ: Bà Dương Minh T,
sinh năm 1986. Địa chỉ: ấp 2, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An. (theo giấy uỷ
quyền ngày 06/5/2024) (có mặt).
4. Bà Dương Minh T, sinh năm 1986.
Địa chỉ: ấp 2, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An. (có mặt).
5. Bà Ngô Thị R, sinh năm 1958.
Địa chỉ: ấp 2, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An. (có đơn xin xét xử vắng
mặt).
6. Ông Lê Anh T2, sinh năm 1982.
Địa chỉ: ấp VK, xã BA, huyện TT, tỉnh Long An. (có mặt).
7. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1965.
Địa chỉ: ấp G, xã LH, huyện BL, tỉnh Long An. (có đơn xin xét xử vắng
mặt).
Người kháng cáo: Bà Trần Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/01/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn bà Huỳnh Thị H do người đại diện theo uỷ quyền ông Lê Anh T2
trình bày: Do quen biết nên ngày 02/8/2023, bà Trần Thị N vay của bà Huỳnh
Thị H số tiền 1.510.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 02/8/2023 đến
11/8/2023, không lãi suất. Để đảm bảo cho khoản vay, bà Trần Thị N thế chấp
06 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 944984, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CS03691, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày
03/05/2019 cho ông Nguyễn Thanh S2, bà Lê Kim T3, đã chỉnh lý sang tên cho
ông Dương Văn S đối với thửa đất 31, tờ bản đồ số 8, loại đất BHK lạc tại ấp 3,
xã Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX316754, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CH05883, do UBND huyện TT cấp ngày 25/03/2021 cho ông
Dương Văn S đối với thửa đất 987, tờ bản đồ số 8, loại đất ONT lạc tại ấp 3, xã
Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX842125, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CS05276, do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Long An cấp ngày
21/09/2020 cho ông Dương Xuân Đ đối với thửa đất 942, tờ bản đồ số 8, loại đất
BHK lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
3
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX316753, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CH05882, do UBND huyện TT cấp ngày 25/03/2021 cho ông
Dương Xuân Đ đối với thửa đất 986, tờ bản đồ số 8, loại đất ONT lạc tại ấp 3,
xã Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX842124, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CS05277, do Sở Tài Nguyên Và Môi Trường Tỉnh Long An cấp
ngày 21/09/2020 cho ông Dương Xuân P đối với thửa đất 941, tờ bản đồ số 8,
loại đất BHK lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX316752, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CH05881, do UBND huyện TT cấp ngày 25/03/2021 cho ông
Dương Xuân P đối với thửa đất 985, tờ bản đồ số 8, loại đất ONT lạc tại ấp 3, xã
Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An
Việc vay tiền thể hiện theo Giấy mượn tiền ngày 02/8/2023 do bà N tự viết
và ký tên, điểm chỉ, hai bên đã giao nhận tiền đầy đủ, còn lý do ghi “Bảo lãnh
cho bà Ngô Thị R” chỉ là lý do bà N tự viết khi vay tiền, không hề liên quan gì
đến bà H hay giao dịch giữa bà H với bà R. Kể từ khi vay tiền đến nay bà Trần
Thị N không trả tiền đã vay cho bà H như thoả thuận mà cứ tránh né, hẹn lần
hẹn lựa nhiều lần nhưng vẫn không hoàn trả.
Nay bà H yêu cầu một mình bà Trần Thị N có nghĩa vụ trả số tiền
1.510.000.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất 10%/năm từ ngày 05/8/2023 đến
ngày thanh toán toàn bộ số nợ, tạm tính đến ngày 11/01/2024 là 67.432.000
đồng tiền lãi, tổng cộng gốc lãi tạm tính từ ngày 11/01/2024 là 1.577.432.000
đồng.
Đối với số tiền bà N trình bày bà R, bà T chuyển khoản cho bà H và ông T2
là thanh toán cho khoản nợ của bà R và bà T, không liên quan gì đến khoản vay
của bà N với bà H. Không yêu cầu giải quyết gì đối với bà R, bà T trong vụ án
này.
Đối với yêu cầu độc lập của ông Dương Văn S, ông Dương Xuân P, ông
Dương Xuân Đ về việc yêu cầu bà H trả lại bản chính 06 giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì bà H chỉ đồng ý trả lại khi bà N thanh toán đủ nợ gốc và lãi cho
bà H.
Bị đơn bà Trần Thị N do bà Dương Minh T là người đại diện theo ủy quyền
trình bày:
Giấy mượn tiền ngày 02/8/2023 do bà N viết, ký tên và điểm chỉ. Tuy
nhiên, giấy này do ông T2 đọc cho bà N viết, bà N không nhớ nội dung và
không nhận số tiền nào từ bà H. Lý do bà N viết giấy mượn tiền vì bà N có quan
hệ là chị em dâu với bà Ngô Thị R, là thím dâu của bà Dương Minh T, do bà R
nợ tiền của bà Huỳnh Thị H, bà T nợ tiền của ông Lê Anh T2; bà H, ông T2 yêu
cầu bà R, bà T trả số tiền 2.000.000.000 đồng nhưng 2 người này chưa có tiền
nên nhờ bà N đứng ra trả dùm. Trong ngày 02/8/2023, bà N trả được số tiền mặt
là 490.000.000 đồng nên ông T2 yêu cầu bà N phải viết giấy nợ số tiền
1.510.000.000 đồng nên viết lý do: bảo lãnh cho bà Ngô Thị R. Sau khi bà N
4
viết giấy mượn tiền thì bà H, ông T2 không trừ nợ của bà R, bà T. Bà N cũng
không nhận tiền từ bà H, việc vay tiền không thực hiện trên thực tế nên yêu cầu
bà H huỷ bỏ giấy mượn tiền mà bà N đã viết ngày 02/8/2023 và bà N không
đồng ý trả số tiền nào cho bà H.
Đồng thời, số tiền 1.510.000.000 đồng này bà N chỉ viết giấy bảo lãnh cho
bà R chứ không nhận tiền và bà H cũng không trừ nợ cho bà R nên bà N không
có trách nhiệm gì với bà H; trách nhiệm trả nợ là giữa bà R, bà T với bà H, ông
T2 nên từ ngày 02/8/2023 đến 12/10/2023, bà Dương Minh T và bà Ngô Thị R
đã chuyển khoản trả cho bà H, ông T2 tổng số tiền 775.000.000 đồng, cụ thể:
- Ngày 02/8/2023, bà T chuyển khoản vào stk: 070064209343 của ông Lê
Anh T2 số tiền 460.000.000 đồng.
- Ngày 16/8/2023, bà R chuyển tiền trả cho bà Huỳnh Thị H số tiền
250.000.000 đồng,
- Ngày 07/9/2023, bà T chuyển khoản vào stk: 19039120613019 của
Nguyễn Trọng Phú (con bà H) số tiền 18.000.000 đồng.
- Ngày 12/9/2023, bà T chuyển khoản vào stk 19039120613019 của
Nguyễn Trọng Phú (con bà H) số tiền 12.000.000 đồng.
- Ngày 08/10/2023, bà T chuyển khoản vào stk 19039120613019 của
Nguyễn Trọng Phú (con bà H) số tiền 25.000.000 đồng.
- Ngày 09/10/2023, bà T chuyển khoản vào stk 19039120613019 của
Nguyễn Trọng Phú (con bà H) số tiền 2.000.000 đồng.
- Ngày 12/10/2023, bà T chuyển khoản vào stk 19039120613019 của
Nguyễn Trọng Phú (con bà H) số tiền 8.000.000 đồng.
Phần còn lại chưa thanh toán thì bà Dương Minh T và bà Ngô Thị R sẽ có
trách nhiệm trả cho bà H, ông T2. Bà N không nhận số tiền nào từ ông T2, bà H
nên không có trách nhiệm gì.
Đối với 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giao cho bà H là để làm tin,
nhưng không có sự đồng ý của những người đứng tên trên GCNQSDĐ. Hơn
nữa, bà H không giao tiền cho bà N theo giấy mượn tiền nên nay bà N yêu cầu
bà H trả lại 06 bản chính GCNQSDĐ đang giữ cho ông S, ông Đ, ông P. Bà N
không yêu cầu giải quyết gì đối với bà R, bà T trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Dương Văn
S, ông Dương Xuân Đ, ông Dương Xuân P do bà Dương Minh T đại diện theo
uỷ quyền trình bày: Các ông không biết việc bà N viết giấy mượn tiền và giao
06 bản chính GCNQSDĐ của các ông cho bà H, việc bà H giữ bản chính
GCNQSDĐ của các ông là trái pháp luật nên yêu cầu Toà án buộc bà Huỳnh Thị
H trả lại 06 bản chính GCNQSDĐ cho các ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Minh T trình bày: Bà
thống nhất với lời trình bày của bà N về việc bà N viết giấy mượn tiền với bà H
nhằm bảo lãnh cho khoản vay của bà và bà R đối với bà H, ông T2. Bà N không
5
nhận tiền của bà H và bà H cũng không trừ nợ của bà R, bà T nên bà N không có
trách nhiệm trả nợ cho bà H. Đối với số tiền bà đã thanh toán cho ông T2, bà H
thì bà sẽ tự thương lượng giải quyết, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị R trình bày: Trước đây
bà vay tiền của bà Huỳnh Thị H, con gái bà (bà T) vay tiền của ông T2, nay
không nhớ số tiền vay là bao nhiêu. Nhưng thời điểm tháng 8/2023, bà H và ông
T2 yêu cầu bà phải trả số tiền 2.000.000.000 đồng nhưng bà không có tiền trả
nên phải nhờ bà N đứng ra bảo lãnh trả tiền dùm. Do bà N mới trả tiền mặt được
490.000.000 đồng, nên ông T2 và bà H yêu cầu bà N phải bảo lãnh trả số tiền
1.510.000.000 đồng và buộc bà N phải viết giấy mượn tiền chứ thực tế bà N
không nhận số tiền nào từ bà H. Sau khi ký giấy thì bà H cũng không trừ khoản
tiền nợ 1.510.000.000 đồng, trong tổng số nợ của bà, bà và bà T có chuyển
khoản trả một số tiền cho bà H, ông T2. Nay bà xác định khoản tiền nợ giữa bà
với bà H sẽ do bà tự thực hiện với bà H, không liên quan gì đến bà N. Vì thực
tế bà N không nhận số tiền nào của bà H và bà H cũng không trừ số tiền nào
của bà nên Giấy mượn tiền ngày 02/8/2023 giữa bà N với bà H không thực
hiện trên thực tế nên thống nhất với lời trình bày của bà N. Bà không yêu cầu
giải quyết gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Anh T2 trình bày: Ông
không chứng kiến việc vay mượn tiền giữa bà N với bà H nhưng được bà H nói
lại là bà N tự mình viết và điểm chỉ, tại nhà bà H và bà N có nhận tiền đầy đủ.
Đối với số tiền bà T chuyển khoản cho ông 460.000.000 đồng vì bà T có nợ tiền
của ông, đó là giao dịch khác không liên quan đến việc bà N mượn tiền của bà
H. Ông không yêu cầu giải quyết gì đối với bà T trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Khỏe: Ông là
chồng của bà Huỳnh Thị H, số tiền bà H cho bà N vay là tài sản chung vợ
chồng. Nay ông đồng ý để bà H khởi kiện bà N và đề nghị Toà án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà H. Ông yêu cầu được vắng mặt trong suốt quá trình giải
quyết vụ án tại Toà án các cấp.
Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu bà N trả tiền gốc 1.510.000.000 đồng và
tính lãi suất 10%/năm kể từ ngày 12/8/2023 (ngày hết hạn trả nợ) cho đến ngày
xét xử sơ thẩm; bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến phản đối, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông S, ông Đ, ông P giữ nguyên yêu cầu độc lập buộc bà H
trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện BL.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; các Điều 147, 180, 227, 228, 244, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
các Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 12, Điều 14, Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
6
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị H
về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn bà Trần Thị N.
Buộc bà Trần Thị N có nghĩa vụ trả cho bà Huỳnh Thị H số tiền vay là
1.667.619.178 đồng, trong đó 1.510.000.000 đồng nợ gốc và 157.619.178 đồng
nợ lãi.
Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, bên có nghĩa
vụ thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời
gian chưa thi hành.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Văn S về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Văn S 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CQ 944984, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long
An cấp ngày 03/05/2019 và số CX316754, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CH05883, do UBND huyện TT cấp ngày 25/03/2021 cho ông Dương Văn S đối
với thửa đất 31 và 987, cùng tờ bản đồ số 8, loại đất BHK, toạ lạc tại ấp 3, xã
Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Xuân Đ về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Xuân Đ 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CX842125, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS05276, do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 021/09/2020 và số
CX316753, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH0588, do UBND huyện TT cấp
ngày 25/03/2021 cho ông Dương Văn Đan đối với đối với thửa đất 942 và 986,
cùng tờ bản đồ số 8, loại đất BHK, toạ lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT,
tỉnh Long An.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Xuân P về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Xuân P 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CX842124, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS05277, do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 021/09/2020 và số
CX316752, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH05881, do UBND huyện TT cấp
ngày 25/03/2021 cho ông Dương Xuân P đối với đối với thửa đất 941 và 985,
7
cùng tờ bản đồ số 8, loại đất BHK, toạ lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT,
tỉnh Long An.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trần Thị N được miễn án phí.
Bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ chịu 900.000 đồng án phí. Khấu trừ số tiền
29.661.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007079 ngày
21/3/2024 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện BL. Hoàn trả cho bà H số tiền
28.761.000 đồng.
Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí cho ông Dương Văn S, ông Dương Xuân P,
ông Dương Xuân Đ mỗi người 300.000 đồng theo các biên lai thu tạm ứng án
phí số 0007374, 0007375, 0007376 ngày 15/5/2024 tại Chi Cục thi hành án dân
sự huyện BL.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Ngày 27/9/2024, bà Trần Thị N kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút đơn kháng cáo, các
bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Nguyên đơn bà Huỳnh Thị H có người đại diện theo ủy quyền là ông Lê
Anh T2 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà N vì khi mượn tiền bà N là người trực tiếp nhận tiền và có thế chấp các
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm tin và đảm bảo cho việc mượn nợ.
Bà T trình bày: Nợ giữa bà N và bà H có liên quan đến các khoản nợ khác
của bà H. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét làm rõ và hủy bản án sơ thẩm
để giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến:
Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,
Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Nguyên đơn cung cấp giấy mượn tiền ngày 02/8/2024, nội dung bà N vay
của bà H số tiền 1.510.000.000 đồng, thời hạn kể từ ngày 02/8/2023 đến ngày
11/8/2023, không thỏa thuận lãi suất. Bà N thừa nhận chữ ký, chữ viết và điểm
chỉ là của bà N nhưng cho rằng bà chỉ bảo lãnh cho bà R chứ không nhận tiền từ
bà H. Xét thấy: Bà N ký tên vào hợp đồng với tư cách là người vay, nội dung
8
hợp đồng thể hiện bà N đã nhận đủ tiền, bà N không chứng minh được bản thân
bị ép buộc, lừa dối và không chứng minh được bà bảo lãnh cho số nợ của bà R
đối với ai và xử lý trách nhiệm bảo lãnh như thế nào. Do đó, dòng chữ “lý do:
bảo lãnh cho bà Ngô Thị R” là do bà N viết khi vay tiền chứ không phải là hợp
đồng bảo lãnh nên lời trình bày của bà N không có cơ sở chấp nhận. Có cơ sở để
xác định giữa bà H và bà N thỏa thuận xác lập hợp đồng vay tài sản, có kỳ hạn
và không có lãi suất theo quy định tại 463, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc
thỏa thuận ký kết hợp đồng giữa các bên là trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện,
không trái quy định pháp luật nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
theo hợp đồng.
Đối với số tiền 775.000.000 đồng bà R, bà T sao kê tài khoản chuyển trả
cho bà H, ông T2. Theo bà N là trả cho khoản tiền 1.510.000.000 đồng theo giấy
mượn tiền ngày 02/8/2023 nhưng không được bà H, ông T2 thừa nhận. Theo bà
H và ông T2 thì bà R và bà T có nợ hai người nhưng là khoản vay khác không
liên quan đến khoản vay này, các bên không chứng minh được số tiền này có sự
liên quan đến khoản tiền bà N phải trả nên không có cơ sở chấp nhận. Do bà N
vay của bà H nhưng vẫn chưa thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho bà H nên bà
H khởi kiện yêu cầu buộc bà N có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền đã vay là
1.510.000.000 đồng là có căn cứ. Về lãi suất: theo hợp đồng thì thời hạn vay là
từ 02/8/2023 đến 11/8/2023 nhưng đến hạn không thanh toán nên nguyên đơn
yêu cầu trả lãi 10%/năm kể từ ngày 12/8/2023 (ngày hết hạn hợp đồng) đến
ngày xét xử sơ thẩm là phù hợp.
Từ những căn cứ trên: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị N, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Trần Thị N làm đúng theo
quy định tại Điều 272, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.1] Bị đơn bà Trần Thị N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm
bà Ngô Thị R, ông Nguyễn Văn Khỏe có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định
tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
những người này.
[1.2] Về xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa
án cấp sơ thẩm xác định quan hệ "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu trả
lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" là phù hợp theo quy định tại
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Xét đối với yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị N đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị H, cụ thể là
không đồng ý trả cho bà H số tiền vay là 1.667.619.178 đồng, trong đó
9
1.510.000.000 đồng nợ gốc và 157.619.178 đồng. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Tòa phúc thẩm chỉ xem xét trong phạm vi kháng cáo của bà N.
[2.1] Xét bà H cung cấp Giấy mượn tiền ngày 02/8/2023 có nội dung: “bà
N có vay của bà H số tiền 1.510.000.000 đồng trong thời hạn từ 02/8/2023 đến
ngày 11/8/2023. Lý do: Bảo lãnh cho bà Ngô Thị R. Tôi đã nhận đủ số tiền
mượn nêu trên”. Bà Trần Thị N thừa nhận bà tự viết, ký tên và điểm chỉ vào
giấy mượn tiền này nên thuộc trường hợp không phải chứng minh. Bà N cho
rằng dòng chữ: “Lý do: Bảo lãnh cho bà Ngô Thị R” để chứng minh rằng bà chỉ
bảo lãnh khoản vay của bà R đối với bà H chứ không nhận tiền từ bà H. Tuy
nhiên, theo quy định tại điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bảo lãnh là
việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau
đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Tuy
nhiên, giấy mượn tiền thể hiện nội dung bà N mượn tiền của bà H và đã nhận đủ
tiền, không thể hiện việc bà N thực hiện thay cho bà R đối với số nợ nào của bà
H. Ngoài ra, bà R, bà N, bà T không ai cung cấp được chứng cứ chứng minh cho
việc bảo lãnh nợ theo như lời trình bày của bà N và bà H cũng không thừa nhận.
Xét thấy, bà N là người biết chữ, đủ năng lực hành vi dân sự, bà N không chứng
minh được bản thân bị lừa dối, ép buộc ký giấy mượn tiền và giấy mượn tiền là
do bà N là người trực tiếp viết và ký tên, việc này bà N thừa nhận. Do đó, dòng
chữ “lý do: bảo lãnh cho bà Ngô Thị R” tự viết chứ không chứng minh được
việc bà N sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà R số tiền 1.510.000.000 đồng,
nên lời trình bày của bà N, bà R, bà T là không có cơ sở chấp nhận. Do đó, có cơ
sở để xác định giữa bà H và bà N thỏa thuận xác lập hợp đồng vay tài sản có kỳ
hạn, không có lãi suất theo quy định tại Điều 463, Điều 470 Bộ luật Dân sự năm
2015. Việc thỏa thuận ký kết hợp đồng giữa các bên là trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện, không trái quy định pháp luật nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên theo hợp đồng. Do bà N vay của bà H nhưng vẫn chưa thanh toán bất kỳ
khoản tiền nào cho bà H, nên bà H khởi kiện yêu cầu buộc bà N có nghĩa vụ trả
cho bà H số tiền đã vay là 1.510.000.000 đồng là có căn cứ.
[2.2] Về tiền lãi: Theo thoả thuận của giấy mượn tiền thì thời hạn vay là từ
02/8/2023 đến 11/8/2023 nhưng đến nay bà N vẫn chưa trả khoản tiền nào cho
bà H, nên bà H yêu cầu trả lãi 10%/năm kể từ ngày 12/8/2023 (ngày hết hạn hợp
đồng) đến ngày xét xử sơ thẩm là phù hợp, nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà N
phải có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền 1.510.000.000 đồng x 10%/năm x 01 năm
16 ngày là 157.619.178 đồng là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
[2.3] Bà N trình bày số tiền 775.000.000 đồng bà R, bà T sao kê tài khoản
chuyển trả cho bà H, ông T2 là trả cho khoản tiền 1.510.000.000 đồng theo giấy
mượn tiền ngày 02/8/2023, nhưng không được bà H, ông T2 thừa nhận. Theo bà
H và ông T2 thì bà R và bà T có nợ hai người nhưng là khoản vay khác không
liên quan đến khoản vay này, bà H đã cung cấp các giấy vay nợ khác giữa bà H
với bà R và bà T. Bà R, bà T và bà N không chứng minh được số tiền này có sự
10
liên quan đến khoản tiền bà N phải trả nên không có cơ sở chấp nhận. Bà T, bà
R, bà H đều không yêu cầu giải quyết việc giao dịch chuyển khoản giữa họ trong
vụ án này, nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp, sau này nếu có
phát sinh tranh chấp đương sự sẽ khởi kiện trong vụ án khác
[2.4] Từ những nhận định trên: Xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà Trần
Thị N là không có căn cứ, nên không chấp nhận.
[3] Phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long
An là có căn cứ.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị N được miễn án phí do thuộc
diện người cao tuổi.
[5] Các phần Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị N.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 107/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh Long An.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; các Điều 147, 148, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các
Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật Dân sự; các Điều 12, 14, 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị H
về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn bà Trần Thị N.
1.1. Buộc bà Trần Thị N có nghĩa vụ trả cho bà Huỳnh Thị H số tiền vay là
1.667.619.178 đồng (một tỷ sáu trăm sáu mươi bảy triệu, sáu trăm mười chín
nghìn, một trăm bảy mươi tám đồng), trong đó 1.510.000.000 đồng nợ gốc và
157.619.178 đồng nợ lãi.
1.2. Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, bên có nghĩa
vụ thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời
gian chưa thi hành.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Văn S về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
11
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Văn S 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CQ 944984, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS 03691,
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 03/05/2019 và số
CX316754, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH05883, do UBND huyện TT cấp
ngày 25/03/2021 cho ông Dương Văn S đối với thửa đất 31 và 987, cùng tờ bản
đồ số 8, loại đất BHK toạ lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT, tỉnh Long An.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Xuân Đ về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Xuân Đ 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CX842125, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS05276, do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 21/09/2020 và số
CX316753, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH05882, do UBND huyện TT cấp
ngày 25/03/2021 cho ông Dương Xuân Đ đối với đối với thửa đất 942 và 986,
cùng tờ bản đồ số 8, loại đất BHK, toạ lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT,
tỉnh Long An.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Dương Xuân P về yêu cầu đòi trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông Dương Xuân P 02 (hai)
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CX842124, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS05277, do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 21/09/2020 và số
CX316752, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH05881, do UBND huyện TT cấp
ngày 25/03/2021 cho ông Dương Xuân P đối với đối với thửa đất 941 và 985,
cùng tờ bản đồ số 8, loại đất BHK, toạ lạc tại ấp 3, xã Tân Thành, huyện TT,
tỉnh Long An.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1. Bà Trần Thị N được miễn án phí.
5.2. Bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ chịu 900.000 đồng án phí. Khấu trừ số
tiền 29.661.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007079
ngày 21/3/2024 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện BL. Hoàn trả cho bà H số
tiền 28.761.000 đồng.
5.3. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí cho ông Dương Văn S, ông Dương
Xuân P, ông Dương Xuân Đ mỗi người 300.000 đồng, theo các biên lai thu tạm
ứng án phí số 0007374, 0007375, 0007376 ngày 15/5/2024 tại Chi Cục thi hành
án dân sự huyện BL.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị N được miễn án phí.

12
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7,
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
8. Các phần Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Các Thẩm phán
Hoàng Thị Thúy Lành – Đinh Tiền Phương
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Phùng Thị Cẩm Hồng
Nơi nhận:
-TAND Cấp cao tại TP.HCM;
-VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện BL;
- Chi cục THADS huyện BL;
- Các đương sự;
- Lưu HS, lưu án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phùng Thị Cẩm Hồng
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm