Bản án số 92/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 92/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 92/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Trà Vinh
Số hiệu: 92/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Lực
Ông Lê Thành Trung
- Thư phiên tòa: Trần Thị Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa:
Võ Thị Ngọc Hân - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến
hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 247/2024/TLPT-DS ngày 17
tháng 10 năm 2024 vviệc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất”.
Do bản án dân sự thẩm số: 37/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra t xử phúc thẩm số: 130/2024/QĐ - PT ngày
28 tháng 10 năm 2024 Thông báo số: 68/TB – TA ngày 28 tháng 02 năm 2025
về việc mở lại phiên tòa giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Trung H, sinh năm 1967
Địa chỉ: khóm A, Phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đặng Văn C, sinh năm
1969. Địa chỉ: ấp V, L, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, theo Văn bản ủy quyền
ngày 08/7/2023. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1976.
Địa chỉ: khóm C, Phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Nguyễn Văn G: Anh Lê Đình
T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Số C H, phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh,
theo Văn bản ủy quyền ngày 07/11/2024. (có mặt)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 92/2025/DS - PT
Ngày: 18 - 3 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Nguyễn Văn G:
Luật sư Lưu Tấn Anh T1, Công ty L, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngân hàng N (Xin xét xử vắng mặt)
Trụ sở: Số B L, phường T, quận B, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V; chức vụ: Tổng giám đốc
A.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Văn T2; chức vụ: Giám đốc A chi
nhánh thành phố T.
2. Ủy ban nhân dân thị xã D, tỉnh Trà Vinh (xin giải quyết vắng mặt)
3. Bà Văn Thị H1, sinh năm 1981 (xin giải quyết vắng mặt)
Địa chỉ: Khóm L, Phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
4. Ông Lê Đức T3, sinh năm 1960 (có mặt)
Địa chỉ: Khóm A, Phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
5. Bà Huỳnh Thị H2, sinh năm 1953 (có mặt)
Địa chỉ: Khóm A, Phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Trung H là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai của ngun đơn ông Huỳnh Trung H, lời
khai của ông Đặng Văn C người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trong quá
trình giải quyết vụ án trình bày: Trước đây ông Hunh Trung H vay vn ca
Ngân hàng N chi nhánh huyn D. Do khon n b quá hn kinh tế gặp khó khăn
nên năm 2014 ông H tha thun vi ông Nguyễn n G v vic nh ông G
đứng tên giùm 02 thửa đất là thửa đt s 4 và 503, t bản đồ s 14, ta lc khóm
A, th trn D, huyn D, tỉnh Trà Vinh (nay là khóm A, Phường A, thD), mc
đích đ ông Gia thế C1 ngân hàng đ vay tin, s tiền vay được ông H nhn
250.000.000 đồng, còn li bao nhiêu ông G mun vay bao nhiêu thì vay. Vic tha
thuận đứng tên giùm hai bên có làm giấy tay, sau đó hợp thc hóa bng mt hp
đồng chuyển nhượng ch không vic giao nhn tin. Nay ông Hunh Trung H
yêu cu hy hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất gia ông Hunh Trung
H vi ông Nguyễn Văn G đối vi thửa đất s 4 503, cùng t bản đ s 14, cùng
ta lc Khóm A, Phường A, th D, tnh Trà Vinh yêu cu hy giy chng
nhn quyn s dụng đất đã chnh trang 3 cho ông Nguyễn Văn G đứng tên quyn
s dng đất đối với thửa đất s 4 và 503.
B đơn ông Nguyễn Văn G trình bày: Hai thửa đất s 4 503 này ông đã
nhn chuyển nhượng toàn b ca ông Hunh Trung H vào năm 2014. Thời điểm
ông nhn chuyển nhượng thì tha s 4 và 503 ông H đang thế chp Ngân hàng A
3
chi nhánh huyn D. Thửa đt 503 ông nhn chuyển nhượng trước trong 02 ln,
lần đầu ông mua 10 mét ngang với giá 60.000.000 đng hậu đất rt ngn (ch
khoảng 04 mét), sau đó mua hết phn còn li với g10.000.000 đng/mét ngang,
sau đó vài tháng thì ông mua tiếp thửa đất s 04. S vic c th ông cùng vi
ông H đến ngân hàng để tr n gốc và lãi là hai trăm mấy chc triệu đồng và ly
giấy đỏ ra, sau đó hai bên làm hợp đồng chuyển nhượng thì ông đã trả thêm cho
ông H s tiền 300.000.000 đồng còn lại. Đối vi vic ch trong văn bn tha
thun Phân vin khoa hc hình s đã kết lun ch ca ông thì ông cho
rằng trước đây ông ông H mi quan h thân thiết, trong công việc làm ăn
thì ông thường xuyên nh ông H làm giùm các văn bản cũng như y quyn cho
ông H tham gia t tng nên th ông đã vào nhiều văn bn ông H đưa
ông không xem qua ni dung, ông khẳng định không việc ông đng tên giy
chng nhn giùm ông H trong khong thi gian dài như vy. V vic sau khi hai
bên chuyển nhượng đất ông H vn trên đất do thời đim ông H chuyn
nhưng thì ông H n rt nhiu, hoàn cnh rất khó khăn, căn nhà đã xuống cp và
lp xp nên ông mới để cho ông H tiếp tc trên đó, khi nào ông H ct nhà trên
miếng đất Khóm C thì ông H s tr lại. Nay ông không đồng ý vi yêu cu khi
kin ca ông Hunh Trung H.
Tại công văn số 1497/UBND NC ngày 24/5/2024, người quyn li
nghĩa vụ liên quan y ban nhân dân th D trình bày: Ngày 08/6/2022, y ban
nhân dân thD ban hành Quyết định s 925/QĐ-UBND v vic phê duyt ch
trương đầu tư dự án Đưng nha 30/4 đến Trung tâm bồi dưỡng chính try
ban nhân dân th xã D t chc thc hin công tác gii phóng mt bằng đúng theo
quy định. Ngày 01/11/2023, y ban nhân dân th D ban hành Quyết định s
1819/QĐ-UBND v vic phê duyệt Phương án bồi thường, h trợ, tái định cư dự
án Đường nha t 30/4 đến Trung tâm bồi dưỡng chính trị. Theo đó, có phê duyệt
bồi thường, h tr cho ông Nguyễn Văn G vi s tiền 1.892.318.582 đồng
ông Hunh Trung H vi s tiền 293.308.684 đng. Ngày 10/11/2023, y ban
nhân dân th xã D ban hành Quyết định bồi thường, h tr, c th:
+ Quyết định s 2080/QĐ-UBND v vic bồi thường, h tr cho ông
Nguyn Văn G, vi s tiền là 1.892.318.582 đồng.
+ Quyết định s 2081/-UBND v vic bồi thường, h tr cho ông Hunh
Trung H, vi s tiền là 293.308.684 đồng.
Ngày 22/12/2023, Ch tch UBND th có Công văn số 3543/UBND-KT
thng nht ch trương chuyển kinh phí bi hoàn ng trình vào Ngân hàng TMCP
Đ1 vi tng s tiền 2.185.627.266 đồng ca ông Nguyễn Văn G và ông Hunh
Trung H. Cùng ngày 22/12/2023, Hội đồng bồi thường đã gửi toàn b s tin
2.185.627.266 đồng (Trong đó: số tiền 1.892.318.582 đồng ca ông Nguyễn Văn
G s tiền 293.308.684 đồng ca ông Hunh Trung H) vào Phòng Đ1 (B) th
D cho đến nay.
4
Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng N - Chi nhánh thành
phố T trình bày: Trong v vic tranh chp này Ngân hàng N - Chi nhánh thành
ph T nhn thy vic kết Hợp đng thế chp quyn s dụng đất (thuc tha
đất s 4 tha 503 t bản đồ s 14, ta lc ti Khóm A, Phường A, th D, tnh
Trà Vinh) vi ông Nguyễn Văn G hp l, hợp pháp được thc hiện đúng
theo qui định ca pháp lut. Ngân hàng đề ngh Toà án nhân dân th Duyên Hi
gi nguyên hiu lc ca Hợp đồng thế chp quyn s dụng đất s
00497B/2023/HĐngày 22/11/2023 được kết gia Ngân ng N - Chi nhánh
thành ph T và ông Nguyễn Văn G cùng bà Văn Thị H1 (v ông G).
Người có quyn lợi, nghĩa v liên quan Lê Đức T3 trình bày: Đối vi din
tích đt 1,4m
2
nm trong tha 599 của ông tông cũng không yêu cầu trong
v án này, diện tích cũng nhỏ, sau này gia ông vi ông H, ông Gia T4 tha
thun vi nhau. Đối với phần đất tranh chấp (thửa 503) giữa ông H với G thì ông
gần phần đất này nên ông biết phần đất này trước đây là của ông H. Vào khoảng
năm 2010 ông H kêu ông mua thửa đất này nhưng ông không mua, sau đó ông
Nguyễn Văn G mới mua thửa đất này. Khi nhà nước mở rộng lộ thì ông cũng nghe
nói ông Gia lãnh tiền bồi thường.
Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan Hunh Th H2 trình bày: Đi
vi diện tích đất 48,7m
2
nm trong tha 1037 của thì cũng không có yêu
cầu độc lp trong v án, sau này nếu có yêu cu thì bà s yêu cu gii quyết bng
mt v án khác. Đối vi tha 503, H2 cho biết thửa đất này trước đây của
ông Hunh Trung H, vào khoảng hơn 10 năm trước tông H và ông Hunh Ngc
kêu mua thửa đất này nhưng ông H ch mun bán cho 1 mét ngang nên
không mun mua, sau đó mấy tháng thì bà thy ông G li miếng đất này nói
ơi con mua miếng đất này ca ông H rồi, đất của dính qua đất ca
con mt chútnhưng hai bên cũng không tranh chp gì, H2 n cho biết
trước đây miếng đất này một cái vũng, sau đó ông G đã đổ mấy xe đá để lp
li.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2023/DS - PT ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện thị xã Duyên Hải đã quyết định:
1. Không chp nhn yêu cu khi kin ca ông Hunh Trung H v vic yêu
cu hy hợp đồng chuyển nhượng quyn s dng đất gia ông Hunh Trung H
vi ông Nguyễn Văn G, đối vi thửa đt s 4 và tha s 503, t bản đồ s 14, đất
Khóm A, Phường A, th xã D, tnh Trà Vinh.
Xác định ông Nguyễn Văn G là ch s dng hp pháp ca thửa đất s 4
tha s 503, t bản đồ s 14, đt Khóm A, Phường A, th xã D, tnh Trà Vinh;
5
ông Nguyễn Văn G các quyn của người s dụng đất theo quy đnh ca pháp
lut v đất đai.
Ông Nguyễn Văn G đưc quyn liên h vi y ban nhân dân th D đ
nhn khon tin bồi thường, h tr là 1.892.318.582 đồng.
Ông Hunh Trung H đưc quyn liên h vi y ban nhân dân thD để
nhn khon tin bồi thường, h tr là 293.308.684 đồng.
2. Đình chỉ xét x đối vi yêu cu phn t ca ông Nguyễn Văn G v vic
yêu cu ng nhn quyn s hữu căn nhà ở dạng độc lp trên thửa đất s 4, t bn
đồ s 14, khóm A, Phường A, th xã D, tnh Trà Vinh.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá, chi phí giám định và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy
định của pháp luật.
Ngày 15 tháng 8 năm 2024, nguyên đơn ông Huỳnh Trung H kháng cáo
bản án thẩm, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Đặng Văn C người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án.
Ông Đặng Văn C cho rằng: “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa ông H với ông G, ông G vào văn
bản thỏa thuận này; trước đây ông G không thừa nhận tên, đến khi kết
luận giám định ông G mới thừa nhận chữ của mình. Cho đến thời điểm này t
chưa một văn bản nào thay thế văn bản thỏa thuận này, trong khi đó ông G
không chứng minh được đã giao tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông H. Từ đó cho thấy ông H không có chuyển nhượng thửa đất 503 và thửa
04 cho ông G. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông H, sửa bản
án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.
Người bảo vquyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng: “Văn bản
thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không
thể hiện ngày tháng năm, mặt trước văn bản này ông G không có ký tên; việc mặt
sau của tờ thỏa thuận này chữ của ông G do trước đây giữa ông H với
ông G rất thân thiết, nhiều vụ án ông G đã ủy quyền cho ông H tham gia tố
tụng nên ông G nhiều văn bản do ông H đưa mà không xem knội dung,
trong đó Văn bản thỏa thuận này do ông H soạn; trước đây khi nnước thu
hồi một phần đất của thửa 503, ông G người nhận tiền bồi thường, ông H biết
nhưng không ý kiến gì; thực tế ông G đưa tiền cho ông H trả tiền ngân
6
hàng để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm hợp đồng chuyển nhượng
cho ông G. Do đó, chứng cứ chứng minh thửa đất 503 thửa 04 ông H đã
chuyển nhượng cho ông G, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của ông H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vị Kiểm sát viên cho rằng: “Văn bản thỏa thuận về việc
tạm thời sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, mặt trước văn bản này
ông G không tên, văn bản không thể hiện ngày tháng năm nên không biết
xác lập trước hay sau thời điểm ông H làm hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất
503 thửa 04 cho ông G; trước khi hai bên tranh chấp tông H với ông G rất
thân thiết, có nhiều vụ án ông G đã ủy quyền cho ông H tham gia tố tụng nên ông
G nhiều văn bản do ông H đưa không xem kỹ nội dung; những người
làm chứng như ông Huỳnh Ngọc , ông Đức T3, Huỳnh Thị H2 đều cho
rằng trước khi ông H chuyển nhượng các thửa đất 503 và 04 cho ông G thì ông H
kêu các ông, chuyển nhượng đất nhưng các ông, không mua; vào năm
2020 khi nhà nước thu hồi một phần đất của thửa 503 với số tiền 156.488.376
đồng, ông G là người nhận tiền bồi thường, ông H biết nhưng không có ý kiến gì;
trên thực tế giữa ông H ông G làm hợp đồng chuyển nhượng hai thửa đất
503 và thửa 04 và ông G đã được chỉnh trang tư đứng tên quyền sử dụng đất. Từ
những chứng cứ trên, có cơ sở khẳng định ông H đã chuyển nhượng các thửa đất
503 và thửa 4 cho ông G, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông H là có cơ sở, đúng pháp luật; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của ông H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ủy ban nhân dân thị xã D, Ngân hàng N, bà Văn Thị H1 vắng mặt nhưng có đơn
xin giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa
án xét xử vắng mặt đương sự trên.
[2] Ông Huỳnh Trung H cho rằng ông không chuyển nhượng hai thửa
đất 04 thửa 503 cho ông Nguyễn Văn G mà việc ông G đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của hai thửa đất này do giữa ông H với ông G thỏa
thuận để ông G tạm thời đứng tên với mục đích để cho ông G vay tiền ngân hàng.
7
Ông G cho rằng thửa đất 503 là ông Gia nhận chuyển nhượng của ông H hai ln
với tổng stiền 200.000.000 đồng vào năm 2014. Còn thửa đất số 04 ông G nhận
chuyển nhượng của ông H với giá trên 530.000.000 đồng cũng vào năm 2014,
nhận chuyển nhượng sau thửa 503 vài tháng; do ông H lúc đó nợ ngân hàng
đang thế chấp hai thửa đất này tại ngân hàng nên ông G cùng với ông H đến Ngân
hàng N - Chi nhánh huyện D (nay thị D), ông G đưa tiền của ông G trả nợ
gốc lãi ông H vay ngân hàng số tiền trên 230.000.000 đồng lấy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 503 thửa 4 ra để làm thủ tục chuyển nhượng
cho ông Gông G cũng đã trả số tiền nhận chuyển nhượng còn lại 300.000.000
đồng cho ông H. Để chứng minh cho lời trình bày của mình ông H giao nộp
cho Tòa án chứng cứ “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” (BL 07).
[3] “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất” nội dung hình thức thể hiện: n bản này không ghi ngày
tháng năm, nội dung thể hiện ông Huỳnh Trung H sang tên các thửa đất số 4, 503
của ông H cho ông Nguyễn Văn G để ông G vay vốn ngân hàng số tiền
350.000.000 đồng, trong số tiền vay 350.000.000 đồng này thì ông G giao cho
ông H số tiền 260.000.000 đồng; mỗi bên tự chịu trách nhiệm về phần lãi đối với
số tiền mình nhận; khi hai bên trả nợ cho Ngân hàng thì ông G nghĩa vụ sang
tên hai thửa đất 4, 503 lại cho ông H. Tại kết luận giám định số: 2962/KL KTHS
ngày 14/6/2024 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh
Bộ C2 kết luận: Chữ ký trong “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất” do ông Gia K viết ra (BL 156). Theo lời
khai của ông G thể hiện trước đây ông G với ông H rất thân thiết, có nhiều vụ án
ông G đã ủy quyền cho ông H tham gia tố tụng nên ông G ký nhiều văn bản do
ông H đưa mà không xem kỹ nội dung, ông G khẳng định trước giờ ông không hề
sự thỏa thuận tạm thời đứng tên giùm để vay tiền. Lời khai này của ông G được
chứng minh thông qua việc ông H thừa nhận có lưu giữ một số văn bản chữ ký
chữ viết của ông G cung cấp tài liệu làm mẫu giám định chữ ký, chữ viết
của ông G khi Tòa án nhân dân thị Duyên Hải yêu cầu, cụ thể: Ông H nộp cho
Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải giấy ủy quyền ngày 20/11/2018, ngày
17/12/2018 giữa ông G với ông H (BL 32, 111 113). Qua nội dung các giấy ủy
quyền trên thể hiện ông G y quyền cho ông H tham gia tố tụng tại Tòa án
trong các vụ án ông G nguyên đơn khởi kiện. Điều này cho thấy lời khai
của ông G cho rằng do trước đây giữa ông G với ông H rất thân, ông G ủy quyền
cho ông H tham gia tố tụng nhiều vụ án, do tin tưởng nên nhiều văn bản ông
H đưa ông Gia K nhưng ông G không xem lại nội dung sở. Trong
“Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất” không thể hiện ngày, tháng, năm nên không xác định được thời gian xác lập
văn bản này trước hay sau việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
8
đất thửa đất số 4, 503 giữa ông H với ông G, mặt trước văn bản thỏa thuận không
chữ ký của ông G, điều này cũng cho thấy sự không rõ ràng của văn bản thỏa
thuận này.
[4] Trên thực tế vào năm 2014, có sự việc ông G cùng với ông H đến Ngân
hàng N - Chi nhánh huyện D (nay là thị xã D), ông G đưa tiền cho ông H số tiền
trên 230.000.000 đồng để trả tiền ông H vay của ngân hàng lấy bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 503, 4. Sau khi lấy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa 503 thửa 4 thì ngày 27/12/2014 ông H làm hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất 503 thửa 4 cho ông G ông G được Văn phòng Đăng
ký đất đai tỉnh T Chi nhánh huyện D (nay là thị xã D) chỉnh trang 4 cho ông G
đứng tên quyền sử dụng đất thửa 503 thửa 4 ngày 29/12/2014 (BL 61 – 62, 50,
54). Theo lời khai của ông Huỳnh Ngọc Ẩ cho rằng trước đây ông H bị nợ nhiều
nên H nhờ ông đến gặp ông Trần Thanh H3 (chủ sân bóng đá Hoa P) đu
ông H3 nhận chuyển nhượng thửa đất 503 nhưng ông H3 không mua, sau đó ông
giới thiệu cho ông G thì ông G đồng ý nhận chuyển nhượng thửa đất 503 này; ông
khẳng định ông H đã chuyển nhượng thửa đất 503 cho ông G rồi (BL 30 31).
Theo lời khai của ông Đức T3 cho rằng vào khoảng năm 2010 tông H
kêu ông nhận chuyển nhượng thửa đất 503 của ông H nhưng ông không mua, sau
đó ông G nhận chuyển nhượng thửa đất 503 này, khi nhà nước mở lộ thì ông
nghe nói ông G người nhận tiền bồi thường (BL 168). Theo lời khai của bà bà
Huỳnh Thị H2 cho rằng trước đây ông H và ông Huỳnh Ngọc Ẩ kêu bà nhn
chuyển nhượng thửa đất 503 nhưng bà không mua, my tháng sau thì bà thấy ông
G lại thửa đất 503 nói với “cô ơi con mua miếng đất này của ông H rồi, đất
của cô dính qua đất của con một chút”, sau khi ông G mua thì bà thấy ông G
đổ cát đá để san lắp lại (BL 179). Vào năm 2020, khi nhà nước thu hồi đất phần
đất diện tích 60,6m
2
của thửa 503 để nâng cấp, mrộng đường 30/4 với số tiền
156.488.376 đồng thì ông G người trực tiếp nhận tiền bồi thường (BL270 -289).
Tại biên bản đối chất ngày 05/7/2024 tại biên bản lấy lời khai ngày 30/10/2024
ông H cũng thừa nhận trước đây khi nhà nước bồi thường phần đất của thửa
503, ông H để cho ông G nhận tiền bồi thường, không khiếu nại ông H
cho rằng do ông còn nợ ông G nên để ông G nhận tiền bồi thường (BL 182, 295).
Lời nại ra này của ông H không phù hợp, bởi vì số tiền bồi 156.488.376 đồng
là tương đối lớn, trong khi đó theo như ông H khai thì ông H còn nợ tiền của ông
G số tiền 260.000.0000 đồng thì lẽ ra ông H phải nhận số tiền này để tiền trả
nợ cho ông G thì mới phù hợp.
[5] Theo lời khai của ông H trong quá trình giải quyết vụ án, ông H cho
rằng giữa ông H với ông G sự thỏa thuận: Ông Gia Đ cho ông H số tiền trên
230.000.000 đồng để trả tiền ông H vay của Ngân hàng trước đó để lấy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ra sang tên cho ông G để ông G vay ngân hàng số tiền
9
350.000.000 đồng; trong số tiền 350.000.000 đồng vay này ông G đưa ông H
260.000.000 đồng, đến nay khoảng tiền 260.000.000 đồng này ông H chưa trả
cho ông G. Như vậy, nếu theo như lời khai trên của ông H thì cho thấy ông G
không có lợi ích gì từ việc thỏa thuận ông G đứng tên hai thửa đất 4 và thửa 503
để vay tiền Ngân hàng. Bởi vì, ban đầu ông G đã phải bỏ ra cho ông H mượn số
tiền hơn 230.000.000 đồng để trả Ngân hàng, sau đó đứng vay được số tiền
350.000.000 đồng, cấn trừ vào số tiền ông G bỏ ra trên 230.000.000 đồng và đưa
thêm cho ông H gần 30.000.000 đồng cho đủ 260.000.000 đồng thì ông G chỉ còn
vay được số tiền 90.000.000 đồng. vậy, thỏa thuận này ông G không lợi ích
gì mà còn phải bỏ ra cho ông H mượn số tiền trên 230.000.000 đồng. Do đó, việc
ông H cho rằng việc ông G đứng tên hai thửa đất số 4 và thửa 503 là để ông G đi
vay Ngân hàng là không hợp lý.
[6] Trên thực tế không sự việc ông G vay ngân hàng số tiền 350.000.000
đồng sau khi ông G đứng tên quyền sử dụng đất thửa 503 thửa 4 như thỏa thuận
trong “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời sang tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất” ông H cung cấp. sự việc vào ngày 04/6/2014 (trước ngày ông
H làm hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 503, 4 cho ông G) ông G đã vay của
Ngân hàng N Chi nhánh số 02 TVinh số tiền 4.000.000.000 đồng theo hợp
đồng tín dụng số: 4/6/HĐTD, sau khi ông G được đứng tên quyền sử dụng đất
thửa 503, 4 (ngày 29/12/2014) thì ngày 30/12/2014 ông G mới thế chấp các thửa
đất 503 thửa số 4 thửa đất 46 đbảo đảm cho khoản vay 4.000.000.000
đồng theo theo hợp đồng tín dụng số: 4/6/HĐTD ngày 04/6/2014 (BL 338 - 351).
[7] Từ những chứng cphân tích trên [2], [3], [4], [5], [6], Hội đồng xét
xử xét thấy đã có đủ cơ sở khẳng định ông H đã chuyển nhượng hai thửa đất 503
thửa 4 cho ông G, việc ông H dựa vào “Văn bản thỏa thuận về việc tạm thời
sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không rõ thời gian xác lập để cho
rằng không có chuyển nhượng thửa đất 503 và thửa 04 cho ông G là không có cơ
sở chấp nhận. Do đó, việc Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là đúng quy định pháp luật.
[8] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, như
nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[9] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên, như nhận định trên, Hội đồng xét xử
xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Huỳnh Trung H phải chịu theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
10
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Trung H.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 37/2023/DS-PT ngày 01 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ Điều 116, 117 và Điều 500 ca B lut dân s năm 2015;
Căn cứ điu 167 ca Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ Ngh quyết s: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca y ban
thưng v Quc hi quy đnh v mc thu, min, gim, thu, np, qun s
dng án phí và l phí Tòa án.
Tuyên xử
1. Không chp nhn yêu cu khi kin của nguyên đơn ông Hunh Trung
H v vic yêu cu hy hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất gia ông
Hunh Trung H vi ông Nguyễn Văn G đối vi thửa đt s 4 tha s 503, ng
t bản đồ s 14, cùng ta lc Khóm A, phường A, th xã D, tnh Trà Vinh.
Ông Nguyễn Văn G đưc quyn liên h vi y ban nhân dân th D đ
nhn khon tin bồi thường, h tr là 1.892.318.582 đồng.
Ông Hunh Trung H đưc quyn liên h vi y ban nhân dân th xã D để
nhn khon tin bồi thường, h tr là 293.308.684 đồng.
2. Đình chỉ xét x đối vi yêu cu phn t ca ông Nguyễn Văn G v vic
yêu cu ng nhn quyn s hữu căn nhà ở dạng độc lp trên thửa đất s 4, t bn
đồ s 14, khóm A, Phường A, th xã D, tnh Trà Vinh.
3. V chi p t tng: Buộc ông Huỳnh Trung H phải chịu s tin
8.039.000 đồng. Do ông H đã nộp tạm ứng số tiền 11.000.000 đồng nên ông H4
được nhận lại số tiền 2.961.000 đồng còn thừa ti Tòa án nhân dân thDuyên
Hi.
4. V án phí dân s sơ thẩm: Buc ông Hunh Trung H phi chu 300.000
đồng án phí dân s thẩm nhưng được tr vào 300.000 đng tin tm ng án
phí mà ông H đã nộp theo biên lai s 0020012 ngày 21/11/2023 ca Chi cc Thi
hành án dân s thDuyên Hi nên ông H không phi np tiếp.
Tr li cho ông Nguyễn Văn G s tin tm ứng án phí 300.000 đng theo
biên lai thu tin tm ng s 0002259 ngày 27/3/2024 ca Chi cc Thi hành án dân
s th xã Duyên Hi, tnh Trà Vinh.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Huỳnh Trung H phải chịu 300.000
đồng án phí phúc thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà
ông H đã nộp theo biên lai số 0012791 ngày 22/8/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã Duyên Hải nên ông H không phải nộp tiếp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
11
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi nh án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Trà Vinh;
- TAND thị xã Duyên Hải;
- Chi cục THADS thị xã Duyên Hải;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Hùng
Tải về
Bản án số 92/2025/DS-PT Bản án số 92/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 92/2025/DS-PT Bản án số 92/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất