Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 04/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: PHẠM THU T YÊU CẦU LÊ VĂN N TRẢ TIỀN VAY
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 04/2025/DS-PT
Ngày 03-01-2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Thanh Tòng
Các Thẩm phán: Ông Huỳnh Ngọc Dũng
Ông Lê Văn Phận
- Thư ký phiên tòa: Ông Võ Tấn Vũ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 442/2024/TLPT-DS ngày 25/10/2024 về
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4658/2024/QĐ-PT ngày
21/11/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Phạm Thu T, sinh năm 1962
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
2.1. Bà Lê Thị N, sinh năm 1964
2.2. Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1962
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:Lê Thị Yến N2, sinh năm 1990
Địa chỉ: Số B, ấp G, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn N1, bà Thị Na .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Phạm Thu T
trình bày:
2
Do quen biết, bà cho ông Nguyễn Văn N1, Thị N vay tiền, lần lượt
số tiền vay như sau: Ngày 15/6/2022, cho ông N1, N vay 250.000.000 đồng
để đáo hạn ngân hàng, hẹn là sẽ hoàn trả cho số tiền này sau 01 tháng. Ngày
31/01/2023, cho ông N1, N vay thêm 300.000.000 đồng hứa 05 ngày sau
sẽ trả lại cho bà.
Sau khi Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi
kiện của bà, ông N1N tố cáo tại Công an huyện M về hành vi cho vay lãi
nặng đối với số tiền 300.000.000 đồng vay ngày 31/01/2023. Sau quá trình điều
tra, truy tố và xét xử đối với số tiền cho vay lãi nặng vào ngày 31/01/2023 (số tiền
300.000.000 đồng) thì đã có kết quả giải quyết sau cùng, bản án hình sự đã có hiệu
lực pháp luật nên bà rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 300.000.000 đồng vay
ngày 31/01/2023.
Đối với khoản vay ngày 15/6/2022 với số tiền vay 250.000.000 đồng, đã
nhận tiền lãi từ N ông N1 đến tháng 4/2023 thì ông N1, N ngưng không
đóng lãi cho bà nữa và cũng không trả tiền vốn gốc.
Do đó, khởi kiện yêu cầu N ông N1 liên đới tr số tiền vay
250.000.000 đồng tiền lãi tính từ ngày 15/5/2023 đến ngày 15/9/2024 với số
tiền 60.000.000 đồng (16 tháng x 1,5%/tháng x 250.000.000 đồng).
Trong quá trình tố tụng, bị đơn Thị N, ông Nguyễn Văn N1 người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Vợ chồng N, ông N1 thỏa thuận vay của Phạm Thu T số tiền
250.000.000 đồng, khi vay lập biên nhận mượn tiền do ông N1 viết, N
ông N1 cùng tên. Số tiền này N ông N1 đã trả cho T hai lần, lần một
trả vào ngày 19/01/2023 trả số tiền 150.000.000 đồng, khi trả thì T viết xác
nhận “Ngày 19/01/2023 chị T nhận lại của N 150 triệu”. Lần hai trả vào ngày
01/02/2023 trả số tiền 100.000.000 đồng. Số tiền trả lần hai trả vào buổi sáng
ngày 01/02/2023, ông N1 cầm số tiền 100.000.000 đồng đi trả, do N bị gãy
tay nên lần trả tiền này T mới viết cho bị đơn tờ biên nhận nội dung “nhận
tiền gốc 100 triệu”. Do đã trả tiền cho T rồi nên bị đơn không đồng ý theo yêu
cầu của nguyên đơn. Số tiền này N ông N1 đã đóng lãi 9%/tháng tiền lãi
khoảng trên 300.000.000 đồng.
Đối với số tiền 300.000.000 đồng vay vào ngày 31/01/2023 đã giải quyết
trong vụ án hình sự nên ông N1, bà N không có ý kiến đối với số tiền này.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Mỏ y Bắc đã đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc đã áp dụng Điều 463, 357, 468 Bluật Dân sự; Điều
27 Lut Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thu T.
Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn N1 bà Thị N nghĩa vụ liên đới hoàn
3
trả cho Phạm Thu T số tiền vay 250.000.000 đồng tiền lãi 33.200.000
đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Phạm Thu T đối với số tiền
300.000.000 đồng.
Tiếp tc duy trì bin pháp khn cp tm thi ti Quyết định áp dng bin
pháp khn cp tm thi số: 04/2023/QĐ-BPKCTT ngày 10/8/2023 ca Tòa án
nhân dân huyn M Cày Bc, tnh Bến Tre v áp dng bin pháp khn cp tm thi
“Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” cho đến khi bản án có hiệu lực.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 16/10/2024, bđơn Thị N, ông Nguyễn Văn N1 kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ
nguyên nội dung kháng cáo, N2 trình bày: Bị đơn đã trả xong số tiền vay
250.000.000 đồng theo các nội dung do chính nguyên đơn đã ghi vào các giấy nợ
ngày 19/01/2023 ngày 01/02/2023. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xxem xét
chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, T trình bày: Tổng
số tiền bị đơn thừa nhận đã vay 1.350.000.000 đồng, đã trả tổng cộng
800.000.000 đồng thì số tiền còn lại chưa trả 550.000.000 đồng. Đối với số tiền
300.000.000 đồng thì đã bị xử hình sự, còn lại 250.000.000 đồng số tiền
bị đơn còn nợ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Về nội dung: Kháng cáo của bị đơn không căn cứ, đề nghị Hội đồng
xét xcăn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp
nhận kháng cáo của bà Lê Thị N, ông Nguyễn Văn N1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm
số: 88/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
kháng cáo của bà Lê Thị N, ông Nguyễn Văn N1; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn bà T căn cứ giấy mượn tiền ngày 15/6/2022 cho rằng bị đơn
ông N1, bà N vay của số tiền 250.000.000 đồng, bđơn đóng lãi đến tháng 4
năm 2023 thì không tiếp tục đóng lãi, không trả vốn. Do đó, khởi kiện yêu cầu
ông N1, N nghĩa vụ liên đới trả cho số tiền 250.000.000 đồng tiền lãi
4
với mức lãi suất 20%/năm từ ngày 15/5/2023 đến ngày 15/9/2024. Trong khi đó, bị
đơn cho rằng đã trả đủ số tiền vay 250.000.000 đồng vào các ngày 19/01/2023
01/02/2023 nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2] Bị đơn ông N1, N thừa nhận vay của T số tiền 250.000.000
đồng theo giấy vay tiền ngày 15/6/2022 do nguyên đơn cung cấp nên đây tình
tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
[3] Xét lời trình bày của bị đơn cho rằng ngày 19/01/2023 có trả cho bà T số
tiền 150.000.000 đồng theo giấy viết tay có nội dung “Ngày 19/01/2023 chị T nhận
lại của N 150 triệu” ngày 01/02/2023 tiếp tục trả 100.000.000 đồng theo giấy
viết tay ngày 01/02/2023 có nội dung “Nhận tiền gốc 100 triệu”. Nguyên đơn thừa
nhận các nội dung nêu trên do nguyên đơn viết nhận các khoản tiền nêu
trên nhưng đây tiền gốc của những khoản vay khác, không phải tiền gốc của
khoản vay đang tranh chấp ngày 15/6/2022.
Tại biên bản đối chất ngày 13/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày
Bắc, nguyên đơn bị đơn đều thừa nhận giữa hai bên nhiều khoản vay với
tổng số tiền vay 1.350.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, T khai nhận
tính tới thời điểm xét xử phúc thẩm hôm nay, ngoài số tiền 250.000.000 đồng đang
tranh chấp thì N ông N1 không n nợ khoản tiền nào khác. T cho
rằng số tiền 150.000.000 đồng nhận ngày 19/01/2023 của khoản vay ngày
15/11/2022 số tiền 100.000.000 đồng của khoản vay ngày 01/02/2023. Như
vậy, theo nội dung đối chất thì giữa hai bên tồn tại nhiều khoản vay khác nhau, quá
trình giao dịch các bên không trả dứt số tiền vay sự đan xen giữa việc vay
tiền trả tiền. Do đó, với các nội dung “Ngày 19/01/2023 chị T nhận lại của N
150 triệu” “Nhận tiền gốc 100 triệu” thì không đủ căn cứ xác định khoản tiền
gốc T nhận của khoản vay ngày 15/6/2022. Đồng thời, số tiền
100.000.000 đồng theo giấy viết tay đề ngày 01/02/2023 được xác định số tiền
vay lãi nặng theo Bản án hình sự số 17/2024/HS-ST ngày 05/4/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc (bản án này đã hiệu lực pháp luật) nên bị đơn cho
rằng số tiền này tiền gốc của khoản vay ngày 15/6/2022 không đúng. Ngoài
ra, cũng tại biên bản đối chất nêu trên N, ông N1 cũng trình bày khi trả tiền thì
T gạch sổ, trong khi đó giấy vay nợ ngày 15/6/2022 vẫn còn nguyên, không bị
gạch bỏ theo thói quen giao dịch giữa hai bên.
Như vậy, bị đơn không chứng minh được đã thanh toán tiền gốc cho nguyên
đơn nên cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông N1,
N nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn stiền 250.000.000 đồng là căn
cứ.
[4] Đối với yêu cầu tính lãi:
Căn cứ vào giấy vay tiền ngày 15/6/2022, giữa các bên không thỏa thuận
về lãi suất cho vay. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng, nguyên đơn cho rằng lãi
suất cho vay là 1,5%/tháng, trong khi đó bị đơn cho rằng lãi suất 9%/tháng
(3.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày). Như vậy, trong trường hợp này lẽ ra lãi suất
phải được xác định là 1,5%/tháng là mức thấp hơn trong lời trình bày của đương sự
5
phù hợp với quy định của pháp luật (không quá 20%/năm). Cấp thẩm xác
định mức lãi suất 0,83%/tháng chưa đúng, nhưng do nguyên đơn không kháng
cáo nên cấp phúc thẩm không xem xét lại, giữ nguyên mức lãi do cấp thẩm xác
định.
Về thời gian tính lãi, bị đơn cho rằng đã thanh toán xong khoản nợ từ ngày
01/02/2023 nhưng không chứng minh được. Trong khi đó, nguyên đơn thừa nhận
đã nhận đủ lãi từ bị đơn đến tháng 4 năm 2023. Do đó, cấp thẩm xác định thời
gian tính lãi là từ ngày 15/5/2023 đến ngày 15/9/2023 là phù hợp.
[5] Đối với yêu cầu tính lãi lại của bị đơn: Bị đơn cho rằng mức lãi suất
nguyên đơn cho vay 9%/tháng quá cao, số tiền bị đơn đóng lãi vượt quá mức
20%/năm theo quy định nên có yêu cầu tính lãi lại. Tuy nhiên, nguyên đơn không
thừa nhận, bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho trình
bày của mình, điều này cũng đã được nhận định trong Bản án hình sự số
17/2024/HS-ST ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc (bản án
này đã hiệu lực pháp luật) nên yêu cấp tính lãi lại của bị đơn không sở
để xem xét.
[6] Cấp thẩm tuyên duy tbiện pháp khẩn cấp tạm thời cho đến khi bản
án có hiệu lực là không phù hợp với quy định tại Điều 19 Nghị quyết 02/2020/NQ-
HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố
dụng Dân sự. Do đó, cấp phúc thẩm điều chỉnh lại như sau “Tip tc duy trì bin
pháp khn cp tm thi ti Quyt định áp dng bin pháp khn cp tm thi s:
04/2023/QĐ-BPKCTT ngày 10/8/2023 ca Tòa án nhân dân huyn M Cày Bc,
tnh Bn Tre v áp dng bin pháp khn cp tm thời “Phong ta tài sản của
người có nghĩa vụ.
Từ những nhận định trên, cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là phù hợp, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình nên không được chấp
nhận.
[7] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Nguyễn Văn N1, Thị N phải chịu án phí theo quy định. Tuy nhiên, ông N1,
bà N là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị N, ông Nguyễn Văn N1;
Giữ nguyên Bản án thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
6
Áp dụng Điều 463, 357, 468 Bộ luật Dân sự; Điu 27 Lut Hôn nhân và Gia
đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thu T.
Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn N1 Thị N có nghĩa vụ liên đới hoàn
trả cho Phạm Thu T số tiền vay 250.000.00 (Hai trăm năm mươi triệu
đồng) và tiền lãi là 33.200.000đ (Ba mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng).
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Phạm Thu T đối với số tiền
300.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác.
[2] Tiếp tc duy trì bin pháp khn cp tm thi ti Quyết định áp dng bin
pháp khn cp tm thi số: 04/2023/QĐ-BPKCTT ngày 10/8/2023 ca Tòa án
nhân dân huyn M Cày Bc, tnh Bến Tre v áp dng bin pháp khn cp tm thi
“Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”.
[3] Về án phí: Ông Nguyễn Văn N1, bà Lê Thị N được miễn.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Mỏ Cày Bắc;
- Chi cục THADS huyện Mỏ Cày Bắc;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Thanh Tòng
Tải về
Bản án số 04/2025/DS-PT Bản án số 04/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025/DS-PT Bản án số 04/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất