Bản án số 228/2024/DS-ST ngày 14/08/2024 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 228/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 228/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 228/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 228/2024/DS-ST ngày 14/08/2024 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Cà Mau (TAND tỉnh Cà Mau) |
Số hiệu: | 228/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA V NAM
THÀNH PHỐ CÀ MAU Độc lập – Tự do – Hạnh P
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 228/2024/DS-ST
Ngày 14 - 8 - 2024
V/V tranh chấp hợp đồng thuê QSD đất
Và hợp đồng thuê tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA V NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Hàng Bích Trâm
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Võ Thanh Liêm
2. Ông Huỳnh Hoàng Khởi
- Thư ký phiên toà: Bà Huỳnh Ngọc Mai - Là Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau tham gia phiên tòa:
Bà Tiết Ánh Hồng - Kiểm sát Viên.
Trong các ngày 25 tháng 7 Và ngày 14 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án
nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai Vụ án dân sự thụ lý số:
353/2023/TLST-DS ngày 21 tháng 6 năm 2023, Về Việc tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa Vụ án ra xét xử số: 55/2024/QĐXXST-DS
ngày 04 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Mỹ T; Sinh năm: 1957.
Địa chỉ cư trú: Số 439/8/23 NVK, phường X, quận Y, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Ngọc D, Sinh năm 1960. Địa chỉ: Số 49 PP-
ĐT, khóm M, phường N, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K; Sinh năm: 1983 (Vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: Kênh 26/3, khóm O, phường U, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà
Mau;
3. Người có quyền lợi, nghĩa Vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị S, sinh năm 1983. Địa chỉ cư trú: Kênh 26/3, khóm O, phường
U, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt)
+ Ông Trần Quốc V, sinh năm 1964. Địa chỉ cư trú: Số 170 TQD, khóm A,
phường B, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt)
+ Bà Nguyễn Thị P, Sinh năm 1976. Địa chỉ cư trú: Số 134 TPX, khóm C,
phường U, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện Và lời khai trong quá trình giải quyết Vụ án được bổ sung tại
phiên tòa, Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - ông Trần Ngọc D trình bày:
Bà Trương Mỹ T có phần đất diện tích 250,47m² tờ bản đồ số 17, thừa đất 129
tọa lạc tại đường Trương Phùng Xuân, khóm 1, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà
Mau theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 370472, số Vào sổ CH 000033
ngày 14/02/2012, trên đất có một căn nhà. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2020, bà T thỏa
thuận cho ông Nguyễn Văn K thuê phần đất trên theo hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất diện tích 199,17m², tờ bản đồ số 17, thửa đất 129 tọa lạc tại phường 8, thành phố
Cà Mau để ở Và kinh doanh bán cà phê; thời gian thuê là 05 năm từ ngày 24/5/2020 -
24/5/2025, hợp đồng thuê đất được công chứng chứng thực; Tuy trên hợp đồng bà T
cho ông K thuê phần đất diện tích 199,17m² nhưng bà T đã giao nhà Và một phần đất
185m
2
kế bên cho ông K được quyền sử dụng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, giá
thuê quyền sử dụng đất năm đầu là 8.000.000 đồng/tháng, năm thứ hai là 10.000.000
đồng/tháng, kể năm thứ ba trở đi, mỗi năm giá thuê quyền sử dụng đất tăng thêm
10%/tháng nên năm thứ ba giá thuê là 11.000.000 đồng/tháng. Phương thức thanh
toán là chuyển khoản Vào đầu mỗi tháng Vào chủ tài khoản Lê Ngọc Cẩm Tú, Số tài
khoản: 0911000007358; bên thuê là ông K đặt cọc trước số tiền 24.000.000 đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông K đã có những Vi phạm hợp đồng như
sau: Không trả tiền thuê đất đúng như thỏa thuận, ở trước trả tiền sau, tình trạng này
xảy ra liên tục từ khi ký hợp đồng cho đến nay, trong năm thứ ba theo thỏa thuận giá
hợp đồng là 11.000.000 đồng/tháng nhưng ông K chỉ trả 10.000.000 đồng/tháng, nợ
tiền thuê đất từ ngày 16/02/2023 đến nay. Trong hợp đồng có quy định không được
cho người khác thuê lại quyền sử dụng đất nhưng ông K cho người thứ ba là ông V
thuê lại để kinh doanh cà phê Với tên quán là CR7, Family hát Với nhau mà không có
sự đồng ý của bà bằng Văn bản. Quá trình thuê đất bị đơn tự ý thay đổi hiện trạng
gạch lót sân Vườn từ gạch nước sang gạch bóng kiếng để làm sàn nhảy kinh doanh cà
phê.
Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất ngày 22/6/2020 giữa bà T ký kết Với ông K; Hủy hợp đồng thuê quán cà phê
ngày 01/11/2020 giữa ông K ký kết Với ông V; buộc ông K, ông V, bà P di dời tài sản
trả lại toàn bộ hiện trạng nhà Và đất cho bà T. Đồng thời, yêu cầu ông K thanh toán
tiền thuê đất còn nợ tính đến ngày 16/7/2024 là 135.000.000 đồng, bà T đồng ý đối
trừ 24.000.000 đồng tiền ông K đặt cọc, yêu cầu ông K thanh toán tiếp số tiền
111.000.000 đồng.
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết Vụ án được bổ sung tại phiên tòa, bị
đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:
Ông K thừa nhận có ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất Và thỏa thuận thực
hiện hợp đồng như lời trình bày của nguyên đơn là đúng. Tuy nhiên, ban đầu thỏa
thuận thuê hai phần đất, nhưng đối Với phần đất 185m² cập bên nhà bà T thời điểm
3
cho thuê chưa có giấy chứng nhận nên mới ký hợp đồng thuê phần diện tích 199,17m²
trên đất bao gồm cả căn nhà. Sau khi ký hợp đồng thì bà T đã giao nhà Và toàn bộ hai
phần đất cho ông sử dụng. Ông K thừa nhận có trả tiền thuê chậm trễ do tình hình
dịch bệnh. Do ông kinh doanh không có hiệu quả, nên ông cho ông Trần Quốc V thuê
lại một phần quyền sử dụng đất, Việc cho ông V thuê lại quán cà phê thì bà có biết Và
đồng ý. Ông K yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê quyền sử dụng đất Với bà T,
không đồng ý hủy hợp đồng thuê quán cà phê đã ký kết Với ông V. Trường hợp chấm
dứt hợp đồng thuê đất Với bà T Và hủy hợp đồng thuê quán cà phê Với ông V thì ông
K đồng ý giao nhà Và đất lại cho bà T đồng thời yêu cầu bà T trả lại tiền cọc
24.000.000 đồng, bồi thường số tiền ông K đã đầu tư quán cà phê sau khi trừ khấu
hao đến thời điểm hiện tại thì còn lại là 135.000.000 đồng để ông K bồi thường lại
cho ông V. Bản thân ông K không có cho bà P thuê lại đất, ông K còn nợ bà T tiền
thuê đất tính đến ngày 16/7/2024 tổng cộng là 135.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết Vụ án được bổ sung tại phiên tòa, người có quyền
lợi, nghĩa Vụ liên quan bà Trần Thị S trình bày:
Bà S là Vợ của ông Nguyễn Văn K, nhà Và đất ông K thuê của bà T thì bà S là
người trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, từ tháng 4 năm 2024 đến nay bà S đã di dời toàn
bộ tài sản của bà Và ông K ra khỏi nhà thuê của bà T, nhà thuê của bà T hiện nay đã
đóng cửa không ai quản lý. Địa chỉ cư trú mới hiện nay của bà S Và ông K là đường
26/3, khóm 3, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Đối Với yêu cầu huỷ hợp
đồng Và bồi thường thiệt hại của các đương sự thì bà S không có ý kiến, bà xác định
hiện nay bà không có quyền Và nghĩa Vụ liên quan gì Vì bà không có ký hợp đồng
thuê đất mà ông K là người ký hợp đồng nên ông K là người chịu trách nhiệm, bà S
không liên quan trong Vụ án. Bà S yêu cầu Tòa án giải quyết Vắng mặt bà.
Trong quá trình giải quyết vụ án được bổ sung tại phiên tòa, người có quyền
lợi, nghĩa Vụ liên quan ông Trần Quốc V Và bà Nguyễn Thị P thống nhất trình bày:
Ông V có thỏa thuận Với ông Nguyễn Văn K để thuê lại quán cà phê trên phần đất
xung quanh căn nhà của bà Trương Mỹ T đã cho ông K thuê tọa lạc tại số 134 Trương
Phùng Xuân, khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau để kinh doanh quán cà
phê. Sau khi thỏa thuận ông K Và ông V ký hợp đồng thuê quán cà phê Vào ngày
01/11/2020, thời hạn hợp đồng thuê đến ngày 01/5/2025. Giá thuê là 7.000.000 đồng/
tháng, mỗi năm tăng 5%. Khi thuê thì ông V Và bà P có biết Việc nhà Và đất tọa lạc số
134 Trương Phùng Xuân, khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau không
phải của ông K mà là do ông K thuê lại từ người khác. Quá trình thực hiện hợp đồng ông
V thực hiện đúng nghĩa Vụ thanh toán Với ông K, không có Vi phạm hợp đồng. Sau khi
thuê đất ông V đã đầu tư thêm mặt bằng, mái che để kinh doanh quán cà phê đến nay,
ông V là người ký hợp đồng Với ông K, còn bà P hiện nay là người trực tiếp quản lý
quán cà phê đã thuê. Đối Với yêu cầu khởi kiện của bà T Về Việc chấm dứt hợp đồng
thuê nhà đất Với ông K Và đòi trả lại hiện trạng mặt bằng nhà đất thì ông V Và bà P
không đồng ý Vì ông V Và bà P đã đầu tư giá trị lớn trên đất đã thuê, Việc chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà T sẽ gây ảnh hưởng đến quyền lợi của ông V Và bà P nên ông V Và
4
bà P yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê đất Với ông K để được đảm bảo quyền lợi.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T hủy hợp đồng thuê nhà đất
giữa bà T Và ông K Và hủy hợp đồng thuê quán cà phê giữa ông V Với ông K thì ông V
Và bà P yêu cầu ông K trả lại tiền cọc số tiền 84.000.000 đồng Và bồi thường chi phí đầu
tư Với số tiền 150.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 22/6/2020
giữa bà T ký kết Với ông K; Hủy hợp đồng thuê quán cà phê ngày 01/11/2020 giữa
ông K ký kết Với ông V; buộc ông K, ông V, bà P di dời tài sản trả lại toàn bộ hiện
trạng nhà Và đất cho bà T. Đồng thời, yêu cầu ông K thanh toán tiền thuê đất còn nợ
tính đến ngày 16/7/2024 là 135.000.000 đồng, bà T đồng ý đối trừ 24.000.000 đồng
tiền ông K đặt cọc, yêu cầu ông K thanh toán tiếp số tiền 111.000.000 đồng, không
yêu cầu Th lãi.
Kiểm sát Viên phát biểu ý kiến Về Việc tuân theo pháp luật tố tụng Và nội dung
giải quyết Vụ án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên tòa Và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết Vụ án kể
từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của
pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Xét thấy bị đơn ông Nguyễn Văn K đã Vi
phạm Về nghĩa Vụ thanh toán Với bà T. Do đó, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của nguyên đơn Về Việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày
22/6/2020 giữa bà T ký kết Với ông K; Hủy hợp đồng thuê quán cà phê ngày
01/11/2020 giữa ông K ký kết Với ông V; buộc ông K, ông V, bà P di dời tài sản trả
lại toàn bộ hiện trạng nhà Và đất cho bà T. Đồng thời, buộc ông K thanh toán tiền
thuê đất còn nợ Th đến ngày 16/7/2024 là 135.000.000 đồng, bà T đồng ý đối trừ
24.000.000 đồng tiền ông K đặt cọc, nên buộc ông K thanh toán tiếp số tiền
111.000.000 đồng. Buộc ông K thanh toán lại tiền cọc cho ông V số tiền 84.000.000
đồng.
Án phí Và chi phí tố tụng các đương sự phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Căn cứ những chứng cứ đã được thu thập trong quá trình giải quyết Vụ án, lời
trình bày của các đương sự Và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Thị S, ông Trần Quốc V,
bà Nguyễn Thị P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa sơ thẩm
nhưng Vẫn Vắng mặt không lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử Vắng mặt đương sự
theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh
chấp hợp đồng dân sự, cụ thể là tranh chấp Về hợp đồng thuê quyền sử dụng đất Và
hợp đồng thuê tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều
26, 35 Và 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
5
[3] Xét nội dung tranh chấp: Vào ngày 22/6/2020, bà T Và ông K có thỏa thuận
ký hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất của bà T diện tích 199,17m², tờ bản đồ số
17, thửa đất 129 tọa lạc tại phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau để ở Và kinh
doanh quán cà phê theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 006465 ký tại Văn
phòng công chứng Trần Mai Hương; thời gian thuê là 05 năm từ ngày 24/5/2020 -
24/5/2025; Mặc dù theo hợp đồng bà T chỉ cho thuê phần đất diện tích 199,17m²
nhưng thực tế bà T đã giao nhà trên đất Và thêm một phần đất 185m
2
kế bên (nằm
ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) cho ông K sử dụng. Theo thỏa thuận trong
hợp đồng, giá thuê quyền sử dụng đất trong năm đầu là 8.000.000 đồng/tháng, năm
thứ hai là 10.000.000 đồng/tháng, kể năm thứ ba trở đi mỗi năm giá thuê tăng thêm
10%/tháng nên năm thứ ba giá thuê là 11.000.000 đồng/tháng. Phương thức thanh
toán là chuyển khoản, bên thuê là ông K có đặt cọc trước số tiền 24.000.000 đồng.
Đến ngày 01/11/2020, ông Trần Quốc V Với ông Nguyễn Văn K có thỏa thuận
ký hợp đồng thuê quán cà phê tọa lạc số 134 Trương Phùng Xuân, khóm 2, phường 8,
thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, thời hạn hợp đồng đến ngày 01/5/2025. Giá thuê là
7.000.000 đồng/ tháng, mỗi năm tăng 5%. Ông K cho ông V thuê lại quán cà phê xây
dựng trên đất của bà T, đối Với căn nhà của bà T thì phía ông K Vẫn quản lý Và sử
dụng. Sau khi thuê mặt bằng ông V có S chữa Và đầu tư thêm mái che, thiết bị âm
thanh, ánh sáng, bàn ghế để phục Vụ kinh doanh quán cà phê đến nay, ông V có biết
đất là của ông K thuê từ người khác.
Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất giữa bà T Và ông K Vì ông K Vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn
đồng ý đối trừ tiền cọc đã nhận từ ông K số tiền 24.000.000 đồng, yêu cầu ông K tiếp
tục thanh toán số tiền còn thuê đất còn nợ Th đến ngày 16/7/2024 là 111.000.000
đồng; Yêu cầu hủy hợp đồng thuê quán cà phê giữa ông K Và ông V ký ngày
01/11/2020. Buộc ông K, bà S, ông V, bà P di dời tài sản, bàn giao hiện trạng nhà Và
đất cho bà T.
[4] Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4.1] Xét Hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa bà T Với ông K ký ngày
22/6/2020, theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 006465 ký tại Văn phòng công
chứng Trần Mai Hương đối Với phần đất diện tích 199,17m², tờ bản đồ số 17, thửa
đất 129 tọa lạc tại phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau được thiết lập trên tinh
thần tự nguyện Và phù hợp quy định pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng
ông K nhiều lần Vi phạm nghĩa Vụ thanh toán, không trả tiền thuê đất đúng như thỏa
thuận, từ ngày 16/02/2023 đến nay chưa thanh toán tiền thuê quyền sử dụng đất cho
bà T tổng cộng Với số tiền 135.000.000 đồng. Tuy hợp đồng có thỏa thuận Việc vi
phạm hợp đồng sẽ không được nhận lại tiền cọc, tuy nhiên tại phiên tòa Đại diện
nguyên đơn đồng ý đối trừ số tiền đặt cọc 24.000.000 đồng, chỉ yêu cầu bị đơn tiếp
tục thanh toán 111.000.000 đồng là có lợi cho bị đơn Và có cơ sở nên được chấp
nhận. Nguyên đơn không yêu cầu Th lãi nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
6
[4.2] Xét Hợp đồng thuê quán cà phê ký giữa ông K Và ông V ký kết ngày
01/11/2020 được thiết lập trên tinh thần tự nguyện thỏa thuận giữa ông K Và ông V.
Tuy nhiên, Việc ông K cho ông V thuê lại tài sản không có sự đồng ý bằng Văn bản
của bà T, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa ông K Và bà T chấm dứt nên không
có căn cứ tiếp tục thực hiện hợp đồng giữa ông K Và ông V. Do đó, Việc bà T yêu
cầu hủy hợp đồng thuê quán cà phê giữa ông K Và ông V có cơ sở chấp nhận, buộc
ông K thanh toán lại tiền nhận cọc cho ông V số tiền 84.000.000 đồng theo đề nghị
của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[5] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông K và ông V có đặt ra
vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp các hợp đồng chấm dứt không tiếp tục
thực hiện. Tòa án đã tiến hành làm Việc ghi ý kiến, giải thích Với ông K, ông V, bà P
về việc cần thiết nộp đơn yêu cầu độc lập, yêu cầu phản tố, đồng thời Tòa án đã ra
thông báo ấn định thời gian, tạm ngừng phiên tòa để các đương sự nộp đơn yêu cầu
bồi thường thiệt hại, nộp đơn yêu cầu thẩm định giá tài sản, cung cấp tài liệu chứng
cứ chứng minh giá trị đầu tư trên đất để Hội đồng xét xử có cơ sở xem xét giải quyết,
tuy nhiên ông K, ông V, bà P không nộp tài liệu chứng cứ chứng minh, không nộp
đơn yêu cầu đến Tòa án, không dự nộp án phí theo quy định nên không có cơ sở xem
xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông K, ông V Và bà P.
[6] Nguyên đơn, bị đơn Và người có quyền lợi, nghĩa Vụ liên quan không yêu
cầu đo đạc, thẩm định giá tài sản. Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
01/11/2023, trên phần đất bà T cho ông K thuê Và ông K cho ông V thuê lại hiện hữu
công trình kiến trúc Và các tài sản bao gồm: Mái che tiền chế kết cấu bằng sắt thép,
mái Và Vách lợp tol, sân lát gạch, ngoài ra còn các thiết bị như bàn ghế, hệ thống đèn
điện, ti Vi, thùng pass, quầy bar Và nhà Vệ sinh. Đây là những tài sản của ông K, ông
V đầu tư kinh doanh Và bà P là người trực tiếp đang quản lý nên ông K, ông V Và bà
P có trách nhiệm di dời toàn bộ các tài sản đã đầu tư để trả lại hiện trạng đất cho bà T.
[7] Từ các phân tích trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T Về
Việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ký ngày 22/6/2020 giữa bà
T Với ông K. Buộc ông K thanh toán tiếp cho bà T số tiền thuê đất còn nợ Th đến
ngày 16/7/2024 tổng cộng là 111.000.000 đồng, buộc ông K, bà S bàn giao cho bà T
căn nhà Và đất tọa lạc tại số 134 Trương Phùng Xuân, khóm 2, phường 8, thành phố
Cà Mau, tỉnh Cà Mau có diện tích 199.17m
2
tờ bản đồ số 17, thửa số 129 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất BI 370472 do UBND thành phố Cà Mau cấp ngày
14/02/2012; Hủy hợp đồng thuê mặt bằng quán cà phê ký ngày 01/11/2020 giữa ông
K Với ông V. Buộc ông K thanh toán tiền cọc cho ông V số tiền 84.000.000 đồng;
Buộc ông K, ông V, bà P di dời toàn bộ tài sản, công trình kiến trúc đã đầu tư kinh
doanh để trả lại hiện trạng đất tọa lạc tại số 134 Trương Phùng Xuân, khóm 2, phường
8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau cho bà T (Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất DG 799042 do UBND thành phố Cà Mau cấp ngày 07/12/2022 cho bà Trương Thị
Mỹ T).
7
[8] Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 400.000 đồng, bà Trương
Thị Mỹ T tự chịu không yêu cầu bị đơn thanh toán nên không đặt ra xem xét.
[9] Về án phí: Ông Nguyễn Văn K, ông Trần Quốc V phải chịu án phí theo quy
định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 157, 158, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng: Điều 401, 422, 423, 427, 428 468, 472, 473, 475, 481, 482, 502 của
Bộ luật dân sự; Điều 166, 167, 188 Luật đất đai;
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường Vụ Quốc Hội quy định Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý Và sử dụng
án phí Và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị
Mỹ T.
- Chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa bà Trương Thị Mỹ T Với
ông Nguyễn Văn K theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 006465 ký ngày
22/6/2020 tại Văn phòng công chứng Trần Mai Hương. Buộc ông Nguyễn Văn K
thanh toán cho bà Trương Thị Mỹ T số tiền 111.000.000 đồng. Buộc ông Nguyễn Văn
K Và bà Trần Thị S di dời tài sản để giao cho bà Trương Thị Mỹ T căn nhà Và đất tọa
lạc tại số 134 Trương Phùng Xuân, khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà
Mau có diện tích 199.17m
2
tờ bản đồ số 17, thửa số 129 theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất BI 370472 do UBND thành phố Cà Mau cấp ngày 14/02/2012 cho bà
Trương Thị Mỹ T;
- Hủy hợp đồng thuê quán cà phê giữa ông Nguyễn Văn K Với ông Trần Quốc
V ký ngày 01/11/2020. Buộc ông Nguyễn Văn K thanh toán cho ông Trần Quốc V số
tiền 84.000.000 đồng; Buộc ông Nguyễn Văn K, ông Trần Quốc V, bà Nguyễn Thị P
di dời toàn bộ tài sản, công trình kiến trúc đã đầu tư kinh doanh trên đất để trả lại hiện
trạng phần đất diện tích 185m
2
thửa số 113 tờ bản đồ số 17 tọa lạc tại số 134 Trương
Phùng Xuân, khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau cho bà Trương Thị
Mỹ T (Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất DG 799042 do UBND thành phố Cà
Mau cấp ngày 07/12/2022 cho bà Trương Thị Mỹ T).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải
thi hành án không thực hiện nghĩa Vụ trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi
chậm trả đối Với số tiền chậm trả tương ứng Với thời gian chậm trả, mức lãi suất
phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định của khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự.
- Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 400.000 đồng bà Trương
Thị Mỹ T tự chịu (Đã thanh toán xong).
8
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Ông Nguyễn Văn K Và ông Trần
Quốc V mỗi người phải chịu 300.000 đồng (Chưa nộp). Bà Trương Thị Mỹ T không
phải chịu án phí. Bà Trương Thị Mỹ T được miễn nộp tạm ứng án phí theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường
Vụ Quốc hội quy định Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý Và sử dụng án phí
Và lệ phí Tòa án nên không xem xét Việc nhận lại án phí.
- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Nguyễn Văn K phải chịu 9.750.000
đồng (chưa nộp).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b Và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự Vắng mặt có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Hàng Bích Trâm
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Cà Mau;
- VKSND Tp.Cà Mau;
- THA dân sự TPCM;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn.
Tải về
Bản án số 228/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 228/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm