Bản án số 558/2024/DSPT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 558/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 558/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 558/2024/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 558/2024/DSPT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 558/2024/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 558/2024/DS-PT
Ngày: 23/10/2024
Vv. tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu
cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Đoàn;
Các Thẩm phán: Ông Vũ Minh Tuấn;
Ông Nguyễn Tiến Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Nhạn - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Phan Diệu Nhân - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số:
324/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng
đất, yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2024/DS- ST ngày 19/3/2024 của Toà án nhân
dân tỉnh H có kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11469/2024/QĐ-PT ngày 09 tháng 10
năm 2024 các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Doãn D, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm
1965; địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H. Có mặt ông D, vắng mặt bà T.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D, bà T: Ông Nguyễn Kiều Đ; địa chỉ: Số
15A, đường H
1
, phường N, thành phố H
2
, tỉnh H; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà Phạm Thị D
1
- Luật sư
Văn phòng luật sư T
2
, thuộc Đoàn luật sư tỉnh H. Có mặt.
Bị đơn: Ông Vũ Duy H
3
, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1969; địa chỉ:
Thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H. Có mặt ông H
3
, vắng mặt bà O.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H
3
, bà O: Ông Nguyễn Văn Q
1
, sinh
2
năm 1965; địa chỉ: Số 36A Vũ Tông P, phường T
3
, thành phố H
2
, tỉnh H. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Vũ Duy T
4
, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H; (vắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của anh T
4
: Ông Nguyễn Văn Q
1
, sinh năm
1965; địa chỉ: Số 36A Vũ Tông P, phường T
3
, thành phố H
2
, tỉnh H. Có mặt.
2. Ủy ban nhân dân xã V
1
, huyện T
1
, tỉnh H.
Đại diện hợp pháp: Ông Phạm Đức L - Chức vụ: Chủ tịch UBND
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình M - Chức vụ: Phó chủ tịch
UBND. Vắng mặt.
- Ủy ban nhân dân huyện T
5
, tỉnh H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Việt A - Chức vụ: Chủ tịch UBND.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn C - Chức vụ: Trưởng phòng Tài
nguyên và môi trường huyện T
1
, tỉnh H. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là ông Trần
Doãn D, bà Nguyễn Thị T và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Gia đình ông bà có thửa đất số 306, tờ bản đồ số 5, diện tích 145m
2
(theo hồ sơ
địa chính 299) địa chỉ tại thôn Q, xã V, huyện T
1
, nguồn gốc do cha ông để lại. Quá
trình sử dụng, thửa đất không có tranh chấp với ai. Khoảng năm 1998, vợ chồng ông
xây dựng một dãy chuồng trại trên toàn bộ diện tích đất để chăn nuôi. Đến năm 2015
thì ông bà xây sửa, cải tạo lại một phần chuồng trại (khoảng 15m
2
) thành kho để chứa
kem vì gia đình ông bà làm đại lý phân phối cho một số hãng kem tại H và xây một
phần nhà cấp 4 lợp mái tôn. Năm 2003, địa phương thực hiện việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết là GCNQSDĐ) đồng loạt trên toàn địa bàn xã.
Cùng đợt này, gia đình ông bà được Ủy ban nhân dân huyện T
5
cấp GCNQSDĐ. Sau
khi nhận GCNQSDĐ ông bà mang về nhà cất đi, từ đó đến nay không có việc sử
dụng đến. Quá trình sử dụng đất, chính quyền thôn Q đã lấy một phần diện tích của
thửa đất để mở rộng đường thôn. Vì vậy, theo bản đồ địa chính hiện trạng sử dụng đất
năm 2010, diện tích của thửa đất của gia đình ông bà chỉ còn 91m
2
là phù hợp với hồ
sơ 299 và thực tế sử dụng. Tuy nhiên, đến tháng 12/2020 thì giữa gia đình ông bà với
gia đình ông Vũ Duy H
3
, bà Nguyễn Thị O xảy ra tranh chấp đối với một phần của
thửa đất trên. Ông H
3
, bà O cho rằng một phần công trình của gia đình ông bà nằm
trong GCNQSDĐ của gia đình ông H
3
, bà O. Lúc này, ông bà mới bỏ GCNQSDĐ ra
kiểm tra lại thì mới biết GCNQSDĐ của gia đình ông bà được cấp có sai sót về diện
tích và hình thể của thửa đất, cụ thể: Về diện tích thiếu 43m
2
so với hiện trạng sử
dụng; về hình thể: Căn cứ theo bản đồ 299, thửa đất của gia đình ông bà có cạnh đất
mặt đường thôn Q khoảng hơn 16m, còn thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O không có
3
phần đất nào giáp mặt đường thôn. Tuy nhiên, theo GCNQSDĐ của gia đình ông H
3
,
bà O cũng được cấp năm 2003 lại thể hiện có cạnh đất giáp mặt đường thôn dài
khoảng hơn 10m, còn trong GCNQSDĐ của gia đình ông bà thì cạnh giáp mặt đường
thôn chỉ còn 5,9m.
Sau khi tìm hiểu thì ông bà được biết diện tích đất còn thiếu của gia đình ông
bà có phần nằm ở mặt đường thôn Q bị cấp nhầm vào GCNQSDĐ của gia đình ông
H
3
, bà O. Nay, ông bà khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết Công nhận diện tích đất
ông bà đang sử dụng qua xem xét thẩm định thực tế của Tòa án là 116,7m
2
; Hủy
GCNQSDĐ số W007122 do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003 mang tên ông D,
bà T và GCNQSDĐ mang tên ông H
3
, bà O do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003.
Buộc UBND huyện T
5
, tỉnh H cấp lại GCNQSDĐ cho hai gia đình theo đúng nguồn
gốc và diện tích thực tế hai gia đình đang sử dụng.
Tại đơn phản tố và quá trình làm việc với Tòa án, bị đơn là ông Vũ Duy H
3
, bà
Nguyễn Thị O và người đại diện theo ủy quyền trình bày: Thửa đất ông bà đang ở có
nguồn gốc do cụ Nguyễn Thị R là bà ngoại của ông H
3
cho từ năm 1988. Theo bản hồ
sơ địa chính 299 là thửa đất số 307, tờ bản đồ 05, diện tích 712m
2
. Khi ông bà lên ở
trên thửa đất này thì cụ R đang ở một mình ở phía trong của thửa đất, ông bà xây nhà
mái bằng ở phía ngoài thửa đất (nửa đất giáp đường). Sau này cụ R tách thửa đất
thành 02 thửa, một thửa cho vợ chồng ông bà và một thửa thì cụ ở. Sau này, con gái
cụ là bà L
1
đã bán cho ông bà K G sử dụng hiện nay. Khi xây nhà thì ông bà đã xây
tường bao ngăn cách giữa phần đất của ông bà được cho với phần đất còn lại của cụ
R. Năm 1997, khi Nhà nước thiết lập bản đồ địa chính thì thửa đất của ông bà được
thể hiện là thửa số 113 (mang tên vợ chồng ông bà) và thửa 149 (mang tên cụ R).
Đến năm 2003, thì UBND huyện T
5
cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng ông bà đối với
thửa 113. Khi ông bà lên ở trên thửa đất thì phần đất phía trước giáp đường thôn là
một cái ao, chính là thửa đất số 306 trong bản đồ 299 do gia đình ông D, bà T sử
dụng còn đất ở của gia đình ông D, bà T ở phía đối diện bên kia đường thôn. Tại thời
điểm đó, thì gia đình ông D, bà T đã sử dụng một phần đất mà cụ R đã cho vợ chồng
ông để xây hố xí và chuồng chăn nuôi. Sau này, ông D, bà T đã lấp ao đi để xây nhà
chăn nuôi. Khoảng năm 1993 – 1994, khi Nhà nước mở rộng đường thôn có lấy đi
một phần đất của thửa đất ao 306 của gia đình ông D, bà T. Vì thửa đất không có
chiều sâu mà chỉ có chiều mặt đường nên diện tích đất còn lại không nhiều, trong khi
đó gia đình ông D, bà T đang sử dụng một phần đất của gia đình ông H
3
, bà O nên hai
bên có thỏa thuận đổi đất cho nhau, gia đình ông bà được sử dụng một phần đất ao
giáp mặt đường thôn, còn gia đình ông D, bà T sử dụng phần đất của gia đình ông bà
để thửa đất có chiều sâu. Việc đổi đất này hai bên không làm văn bản gì, sau này
được hai bên thống nhất và ký vào hiện trạng thửa đất trong hồ sơ địa chính năm
1997 do Nhà nước lập và như trong GCNQSDĐ đất mà UBND huyện T
5
đã cấp cho
hai gia đình. Sau khi đổi đất, thì phần đất ao thửa 306 ông bà sử dụng một phần làm
cổng, phần còn lại đến khoảng năm 2004 thì ông bà cho ông D, bà T mượn để xây
dựng chuồng trại chăn nuôi vì chưa có nhu cầu sử dụng. Đến năm 2020, ông bà xây
4
nhà cho con trai mới sang trao đổi với ông D, bà T phá bỏ công trình nhà kho để trả
lại phần đất cho mượn thì ông bà D, T không đồng ý trả nên xảy ra tranh chấp. Nay
ông bà đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông D, bà T,
đề nghị Tòa án buộc ông D, bà T phải tháo dỡ các công trình đã xây dựng và trả lại
ông bà diện tích đất mượn (khoảng 30m
2
) nêu trên. Đối với phần diện tích lưu không
hành lang đường thôn, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Duy T
4
trình bày: Anh là con
của ông H
3
, bà O. Năm 1993, khi Nhà nước chia ruộng ngoài đồng thì anh và mẹ anh
là đối tượng được chia ruộng. Vì diện tích đất của gia đình anh đang sử dụng lớn lên
khi chia ruộng ngoài đồng bị trừ 44m
2
trong đó có cả tiêu chuẩn ruộng của anh.
Đại diện UBND huyện T
5
trình bày:
Theo hồ sơ địa chính 299: Thửa đất số 306, tờ bản đồ số 13, diện tích 145m
2
đăng ký tên ông Trần Doãn D. Thửa đất của ông H
3
, bà O đang sử dụng là một phần
của thửa đất số 307, tờ bản đồ số 13, diện tích 712m
2
, đăng ký tên cụ R là bà ngoại
ông H
3
.
Theo hồ sơ địa chính 1997: Thửa đất số 307 được tách thành 02 thửa là thửa
149, diện tích 375m
2
mang tên cụ R và thửa đất 113, diện tích 327m
2
mang tên bà O.
Thửa đất của gia đình ông D là thửa 114, diện tích còn lại 48m
2
mang tên ông D.
Theo hồ sơ địa chính năm 2010: Thửa đất của R là thửa 206, tờ bản đồ số 13,
diện tích 369m
2
đăng ký tên bà Nguyễn Thị L (con gái cụ R); thửa đất của ông H
3
, bà
O là thửa số 173, diện tích 273m
2
, đăng ký mang tên bà O; thửa đất của gia đình ông
D là thửa 172, diện tích 91m
2
đăng ký tên ông D.
Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ: Năm 1989, cụ R có đơn xin tách đất cho
cháu là bà O, ông H
3
một phần thửa đất, diện tích 372m
2
. Năm 2003, thực hiện việc
cấp GCNQSDĐ đại trà trên địa bàn, UBND xã V
1
đã xây dựng hồ sơ và trình UBND
huyện T
5
đề nghị cấp GCNQSDĐ cho bà O, ông H
3
đối với thửa đất 113, tờ bản đồ
số 13, diện tích 327m
2
và đề nghị cấp GCNQSDĐ cho ông D, bà T đối với thửa đất
số 114, tờ bản đồ số 13, diện tích 48m
2
. Ngày 20/6/2003, UBND huyện T
5
đã cấp
GCNQSDĐ cho gia đình ông D và gia đình ông H
3
theo đúng hồ sơ địa chính đo đạc
năm 1997. Sau khi cấp GCNQSDĐ, UBND huyện T
5
đã chuyển lại toàn bộ hồ sơ
kèm theo GCNQSDĐ cho UBND xã V
1
để trả GCNQSDĐ cho các hộ dân và UBND
xã thực hiện việc lưu trữ hồ sơ. UBND huyện T
5
đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Đại diện UBND xã V
1
cung cấp thông tin và trình bày:
Theo hồ sơ 299: Tại bản đồ địa chính và Sổ mục kê, sổ khai báo ruộng đất thì
phần đất hiện có tranh chấp giữa gia đình ông D và gia đình ông H
3
là một phần của
thửa đất số 306, tờ bản đồ số 05, diện tích 145m
2
đứng tên ông Trần Doãn H
4
(là anh
trai ông D). Trong bản đổ địa chính thì thửa đất 306 có một cạnh bám với mặt đường
thôn. Thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O là một phần của thửa đất số 307, tờ bản đồ
5
số 05, diện tích 712m
2
đứng tên cụ R (là bà ngoại ông H
3
), trong bản đồ địa chính thì
thửa đất không có cạnh nào giáp với đường thôn.
Theo hồ sơ địa chính năm 1997: Thửa đất của gia đình ông D, bà T là thửa 114,
tờ bản đồ số 13, diện tích 48m
2
. Tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất
làm cơ sở để thiết lập bản đồ địa chính năm 1997 thì thửa đất số 114 có cạnh mặt
đường thôn là 5,9m, chiều sâu lần lượt là 7,7m và 7,5 m, cạnh đất phía sau giáp đất
ông H
3
, bà O 6,1m. Thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O là thửa 113, tờ bản đồ số 13,
diện tích 327m
2
(thửa đất này là một phần được tách ra từ thửa đấ số 307 theo hồ sơ
299 của của cụ R).
Theo hồ sơ địa chính năm 2010: Tại bản đồ địa chính và sổ mục kê thì gia đình
ông D, bà T sử dụng thửa đất số 172, tờ bản đồ số 13, diện tích 91m
2
, được xác định
là đất ở nông thôn. Thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O là thửa số 173, diện tích
237m
2
.
Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất: Thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O có
nguồn gốc là của cụ R (là bà ngoại ông H
3
, chết năm 2001). Khoảng năm 1989, vợ
chồng ông H
3
, bà O chuyển đến ở trên diện tích đất này. Sau đó, cụ R có đơn xin tách
đất cho vợ chồng ông H
3
, bà O diện tích 327m
2
, diện tích đất còn lại của cụ R là
385m
2
. Thửa đất 306 theo hồ sơ 299 trước đây là ao do gia đình ông D, bà T sử dụng
và sau này gia đình ông bà lấp đi để làm chuồng trại chăn nuôi. Trước khi lấp ao, gia
đình D, bà T có sử dụng một phần đất thuộc thửa đất của cụ R sau này tách cho ông
H
3
, bà O. Lý do tại sao trước đây cụ R cho gia đình ông D, bà T sử dụng phần đất này
thì địa phương không nắm được. Con đường thôn Q được mở từ năm 1970, khi mở
chỉ khoảng 2,5 đến 3m. Sau này địa phương mở rộng đường có lấy một phần diện
tích các thửa đất giáp đường trong đó có một phần diện tích của thửa đất 306 theo hồ
sơ 299 của gia đình ông D, bà T. Năm 1997, Nhà nước thiết lập bản đồ địa chính để
phục vụ cho việc cấp GCNQSDĐ đồng loạt trên địa bàn. Tại thời điểm đo vẽ, lập bản
đồ thì đo thực tế diện tích đất mà các hộ đang sử dụng, thiết lập các Biên bản xác
định ranh giới, mốc giới của từng thừa đất theo sự chỉ giới của chủ sử dụng đất. Thời
điểm đo vẽ, gia đình ông D đang sử dụng thửa đất 114, diện tích 48m
2
, có cạnh giáp
phần lưu không đường thôn là 5,9m.
Năm 2003, thực hiện việc cấp GCNQSDĐ đại trà tại địa phương, UBND xã V
1
xây dựng hồ sơ sau đó trình UBND huyện T
5
cấp GCNQSDĐ. Thửa đất của gia đình
ông D, bà T thuộc thửa số 114, diện tích 48m
2
được cấp GCNQSDĐ số W007112
ngày 20/6/2003 cùng với thửa đất số 104 mà hiện nay ông bà đang xây nhà ở. Thửa
đất của gia đình ông H
3
, bà O cũng được cấp GCNQSDĐ ngày 20/6/2003. Hồ sơ cấp
GCNQSDĐ thời điểm đó gồm có Thông báo của UBND xã cho các hộ gia đình tự
kiểm tra thửa đất đang sử dụng, trong thông báo có thể hiện rõ hình thể, diện tích,
kích thước của thửa đất và 01 Đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ có xác nhận của UBND
xã V
1
. Các GCNQSDĐ thì UBND xã đã giao cho các hộ dân còn hồ sơ cấp giấy thì
hiện không lưu giữ do cán bộ địa chính thời kỳ đó không bàn giao lại. Sau khi được
6
xem hồ sơ cấp GCNQSDĐ do ông Q
2
là cán bộ địa chính thời điểm đó giao nộp cho
Tòa án thì xác định đây chính là hồ sơ cấp GCNQSD đất được lập theo đúng trình tự
tại thời điểm cấp GCNQSDĐ.
Năm 1993, khi thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp do người dân sử
dụng, hộ gia đình bà O có 02 nhân khẩu là bà O và con trai là anh T
4
thuộc đối tượng
được giao đất. Vì diện tích đất đang ở của gia đình bà O rộng nên khi chia đất nông
nghiệp ngoài đồng, hộ gia đình bà O bị trừ 44m
2
là tiêu chuẩn của bà O và anh T
4
.
Quan điểm của UBND xã V
1
: Việc thiết lập hồ sơ địa chính năm 1997 là hoàn
toàn hợp pháp và đúng quy định của pháp luật, được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt. Các GCNQSDĐ đã cấp cho gia đình ông D, bà T và ông H
3
, bà O đảm bảo
trình tự, thủ tục, phù hợp với hồ sơ địa chính năm 1997. Đề nghị Tòa án căn cứ vào
hồ sơ địa chính năm 1997 làm căn cứ giải quyết vụ án. Diện tích đất mà ông D, bà T
đề nghị Tòa án công nhận có một phần nằm trong GCNQSDĐ của gia đình ông H
3
,
bà O và một phần là đất thuộc hành lang giao thông đường thôn do UBND xã quản
lý. Về xác định diện tích đất lưu không hàng lang đường thôn đề nghị Tòa án xác
định một đường thẳng từ điểm A39, A40 trong sơ đồ thẩm định song song với rãnh
thoát nước đường thôn để làm cơ sở xác định phần đất còn lại thuộc quyền sử dụng
của ông H
3
, bà O.
Trưởng thôn Q, xã V cung cấp thông tin: Về nguồn gốc các thửa đất và hồ sơ
địa chính như UBND xã V
1
cung cấp nêu trên. Trước đây, gia đình ông D sử dụng
thửa đất ao 306 (theo hồ sơ 299) để thả bèo nuôi lợn. Cụ R có cho gia đình ông D xây
dựng hố xí, chuồng chăn nuôi trên phần đất thổ cư của cụ, phía trước vẫn là ao, lối đi
vào bằng một con đường đất ở phía lối đi vào đất ông bà K, G hiện nay. Quá trình sử
dụng, gia đình ông D, bà O có lấp thửa đất ao 306 nhưng lấp thành 02 lần, lần đầu là
lấp khu vực xây chuồng chăn nuôi hiện nay. Sau khi thôn Q làm đường bêtông năm
2000 thì khoảng 1, 2 năm sau thì ông D, bà T lấp tiếp phần ao còn lại chính là phần
đất hiện nay hai gia đình đang tranh chấp. Sau khi lấp phần đất tranh chấp này thì gia
đình ông D, bà T làm chuồng chăn nuôi gà công nghiệp, đến năm 2016 thì phá
chuồng gà đi xây 02 nhà kho như hiện nay. Con đường thôn Q trước đây, khi được
mở rất nhỏ, năm 2000 đổ bê tông lần 1 thì đường rộng khoảng 3m, đến năm 2020 mở
rộng mỗi bên 1,5m nữa. Khi mở rộng đường thì không yêu cầu các gia đình đã xây
dựng công trình phải phá công trình đi nên đường thôn có đoạn rộng, có đoạn hẹp
như đoạn đường nhà ông D, ông H
3
hiện nay. Hành lang giao thông đường thôn khu
đất có tranh chấp có độ rộng như bức tường bao của gia đình ông T
6
là hộ gần đó,
trên sơ đồ đo vẽ thẩm định của Tòa án chính là đoạn góc A39. Lối đi vào thửa đất của
nhà ông bà H
3
, O trước đây là 1 con đường đất nhỏ là ranh giới giữa thửa đất ao số
306 và 308 trong hồ sơ 299. Trong quá trình sử dụng, gia đình ông H
3
, bà O có mở
rộng cổng sử dụng một phần thửa đất 306. Việc gia đình ông bà H
3
, O sử dụng phần
đất của thửa đất ao 306 thông qua giao dịch nào địa phương không nắm được.
Commented [HN1]: Chỗ này phải là Ông Dũng và bà Thúy chứ
ạ?
7
Người làm chứng là ông Phạm Đắc Q
2
trình bày: Ông là cán bộ địa chính xã V
từ năm 1990 đến năm 2008. Theo hồ sơ địa chính 299 thì gia đình ông D đứng tên
thửa đất ao 306, diện tích 145m
2
. Đến năm 1997, Nhà nước tiến hành đo đạc bản đồ
địa chính thì sau khi trừ đi diện tích hàng lang giao thông đường thôn thì diện tích
thửa đất ao còn nhỏ. Thời điểm đó, các hộ gia đình tự thỏa thuận đổi đất cho nhau để
đảm bảo cho việc sử dụng và xây công trình. Khi đo vẽ bản đồ 1997 đều do chủ sử
dụng đất chỉ mốc giới, trong đó có gia đình ông D và gia đình ông H
3
. Khi lập hồ sơ
cấp CNQSDĐ (năm 2001) UBND xã đều gửi Thông báo cho các hộ gia đình về hình
thể, kích thước, diện tích đất để các gia đình tự kiểm tra, nếu có thắc mắc thì đề nghị
ghi vào mặt sau của thông báo. Ngày 05/6/2001, ông D có ý kiến đề nghị xem xét lại
số đo của thửa đất. Tuy nhiên, sau khi tự kiểm tra lại, ngày 12/8/2001 ông D đã ghi rõ
ý kiến và ký xác nhận không thắc mắc gì đối với thông báo của UBND xã. Sau đó,
UBND xã hướng dẫn gia đình ông D làm đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với thửa 104
và thửa số 114 tờ bản đồ số 13. Ngày 20/6/2003, UBND huyện T
5
đã cấp GCNQSDĐ
cho gia đình ông D. Ông Q
2
khẳng định việc cấp GCNQSDĐ của UBND huyện T
5
cho gia đình ông D và gia đình ông H
3
đảm bảo trình tự, thủ tục. Sơ đồ, hình thể, kích
thước, diện tích đều phù hợp với hồ sơ địa chính năm 1997. Việc thỏa thuận đổi đất
giữa hai gia đình thì ông không nắm được. Năm 2003, các thửa đất của hai gia đình
đều được cấp GCNQSDĐ lần đầu, hồ sơ chỉ có Thông báo tự kiểm tra đất và Đơn xin
cấp GCNQSDĐ đã có phê duyệt của UBND xã. Sau khi UBND huyện T
5
cấp
GCNQSDĐ thì có giao lại cho UBND xã để trả giấy chứng nhận cho các hộ dân. Khi
thôi không còn làm việc tại UBND xã V
1
ông chưa bàn giao một số tài liệu của
UBND xã V
1
trong đó có hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của gia đình ông H
3
và gia đình
ông D, nay ông giao nộp bản gốc cho Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án. Hành
lang giao thông đường thôn Q đoạn đất của hai gia đình tranh chấp như bức tường
bao của gia đình ông T
6
hiện nay là xây đúng mốc giới, công trình của gia đình ông
D, bà T có phần xây dựng trên đất hành lang giao thông đường thôn.
Người làm chứng là bà Nguyễn Thị L
1
trình bày: Bà là con cụ Nguyễn Thị R
và là dì họ ông H
3
, cụ R chết năm 2001. Bà sinh sống cùng cụ R đến năm 2004 thì
chuyển đến sinh sống tại chùa K
1
thuộc tổ dân phố N
1
, phường T
7
, thị xã D
2
, tỉnh H
5
.
Hàng năm, những dịp giỗ, tết bà mới về thăm quê. Nguồn gốc đất của cụ R do ông
cha để lại, do ông H
3
là cháu ngoại nên được cụ R cho một phần đất ở, cho diện tích
bao nhiêu bà không nắm được. Phần đất ông D, bà T lấp ao để xây dựng chuồng chăn
nuôi có một phần đất của cụ R. Do bà chuyển đi khỏi địa phương đã lâu nên quá trình
sử dụng đất giữa gia đình ông D và gia đình ông H
3
bà không nắm được, đề nghị Tòa
án xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng tại chính quyền địa phương để có căn cứ
giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản thể hiện: Thửa đất của gia
đình ông H
3
, bà O diện tích còn lại (không tính phần đất có tranh chấp) 305m
2
. Thửa đất
gia đình ông D đang sử dụng = 116,7m
2
(gồm cả diện tích đất tranh chấp và hành lang
giao thông đường thôn). Giá trị quyền sử dụng đất ở nông thôn tại vị trí tranh chấp =
8
6.200.000 đồng/m
2
; đất vườn ao trong khu dân cư = 3.600.000 đồng/m
2
. Các tài sản của
gia đình ông D, bà T xây dựng trên phần đất tranh chấp gồm: 02 nhà kho, nền bêtông,
tường gạch chỉ tổng trị giá 25.789.000 đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 19/3/2024 của Toà án nhân
dân tỉnh H đã quyết định;
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 39, Điều 200, khoản 2 Điều 244,
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 512, Điều 517 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều
688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 73 Luật đất đai năm 1993, Điều 166 Luật đất đai năm
2013; Điều 32 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Xử:
[1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T
về việc hủy GCNQSDĐ do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003 cho ông Trần Doãn
D và bà Nguyễn Thị T đối với thửa đất số 104 và 114, tờ bản đồ số 13 và GCNQSDĐ
do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003 cho ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O đối
với thửa đất số 113, tờ bản đồ số 13 tại thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H.
[2] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị
T. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O. Xác định ông
Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T có quyền sử dụng hợp pháp diện tích 48m
2
đất tại thửa
số 114, tờ bản đồ số 13 tại thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H, được giới hạn bởi các điểm
A42, A40, A31, A30, A29, A28 đến A42. Buộc ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T
phải tháo dỡ các công trình xây dựng trên đất để trả lại ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị
O diện tích đất 29,0m
2
tại thôn Q, xã V, huyện T
1
, tỉnh H, được giới hạn bởi các điểm
A43, A42, A28, A27, A26, A25 đến A43.
Tạm giao cho ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T được sử dụng 16,8m
2
đất
hành lang giao thông đường thôn được giới hạn bởi các điểm A41, A33, A40, A42
đến A41 đến khi nào Nhà nước có nhu cầu sử dụng thì phải trả lại.
Tạm giao cho ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O diện tích 23,3m
2
đất hành lang
giao thông đường thôn được giới hạn bởi các điểm A43, A24, A38, A37, A36, A35, A34,
A41, A42 đến A43 đến khi nào Nhà nước có nhu cầu sử dụng thì phải trả lại.
(Có sơ đồ kèm theo bản án).
Chấp nhận sự tự nguyện của ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O về việc trả ông
Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T 1/3 giá trị công trình xây dựng phải tháo dỡ =
8.596.333 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
9
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/4/2024 nguyên đơn ông Trần Doãn D và bà
Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm. Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đồng thời
giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn đề nghị HĐXX phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Đại diện Viên kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia
phiên toà:
- Về tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành các thủ tục tố
tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá
trình tranh tụng tại phiên toà.
Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ; Điều 512, Điều 517 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 73 Luật đất đai năm 1993, Điều 166 Luật đất
đai năm 2013 đã giải quyết là có căn cứ. Do vậy đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ theo
quy định tại khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
1.1 Đơn kháng cáo của ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T làm trong thời
hạn pháp luật quy định và đúng hình thức, nội dung theo quy định tại các Điều 272,
Điều 273, Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
1.2 Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị O và một số người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không rõ lý do, nhận thấy những người vắng
mặt không có kháng cáo và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, có đương sự
đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ theo quy định tại Điều 296 BLTTDS, Hội
đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
1.3. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Toà án nhân dân tỉnh H đã thụ lý
giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất” vào ngày 20/10/2021. Ngày 27/6/2023 Toà án nhân dân tỉnh H đã lập biên
bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ. Tại biên bản thể hiện,
10
nguyên đơn không bổ sung yêu cầu khởi kiện. Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập.
Tuy nhiên ngày 05/11/2023, bị đơn là ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O mới
có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu nguyên đơn phải trả lại cho bị đơn 42,3m
2
trên đất đã
xây dựng nhà kho, tường đồng thời nguyên đơn phải có trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ
công trình trên đất để trả lại hiện trạng cho bị đơn.
Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý yêu cầu phản tố và ban hành thông báo nộp tiền tạm
ứng án phí đối với bị đơn là không đúng quy định tại Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với yêu cầu của ông Trần Doãn D
3
(con trai ông D, bà T) khiếu nại cho
rằng Toà án cấp sơ thẩm không đưa ông vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vì ông là người đang quản lý sử dụng kho
trên đất. HĐXX phúc thẩm thấy rằng mặc dù Toà án cấp sơ thẩm không đưa ông D
3
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng toàn bộ
tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã được thu thập
đầy đủ, nguyên đơn cũng trình bày toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất là của
nguyên đơn và đang yêu cầu bị đơn phải trả lại. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm
không đưa ông D
3
vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án là có thiếu sót.
Các sai sót nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm, tuy nhiên quyền
lợi của ông D
3
đã được đảm bảo bởi quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là bố
mẹ của ông D
3
.
[2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:
Nguồn gốc thửa đất 306 theo hồ sơ 299 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia
đình ông D, bà T. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án, gia đình ông D,
bà T đang sử dụng diện tích đất 116,7m
2
.
Thửa đất của ông H
3
, bà O được cụ R tặng cho, tách từ một phần của thửa đất số
307 (theo hồ sơ 299 của cụ R).
Nguyên đơn trình bày: Gia đình ông bà có thửa đất số 306, tờ bản đồ số 5, diện
tích 145m
2
(theo hồ sơ địa chính 299) địa chỉ tại thôn Q, xã V, huyện T
1
, nguồn gốc
do cha ông để lại. Quá trình sử dụng, thửa đất không có tranh chấp với ai. Khoảng
năm 1998, vợ chồng ông xây dựng một dãy chuồng trại trên toàn bộ diện tích đất để
chăn nuôi. Đến năm 2015 thì ông bà xây sửa, cải tạo lại một phần chuồng trại
(khoảng 15m
2
) thành kho để chứa kem vì gia đình ông bà làm đại lý phân phối cho
một số hãng kem tại H và xây một phần nhà cấp 4 lợp mái tôn. Năm 2003, địa
phương thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết là
GCNQSDĐ) đồng loạt trên toàn địa bàn xã. Cùng đợt này, gia đình ông bà được Ủy
ban nhân dân huyện T
5
cấp GCNQSDĐ. Sau khi nhận GCNQSDĐ ông bà mang về
nhà cất đi, từ đó đến nay không có việc sử dụng đến. Quá trình sử dụng đất, chính
quyền thôn Q đã lấy một phần diện tích của thửa đất để mở rộng đường thôn. Vì vậy,
theo bản đồ địa chính hiện trạng sử dụng đất năm 2010, diện tích của thửa đất của gia
11
đình ông bà chỉ còn 91m
2
là phù hợp với hồ sơ 299 và thực tế sử dụng. Tuy nhiên,
đến tháng 12/2020 thì giữa gia đình ông bà với gia đình ông Vũ Duy H
3
, bà Nguyễn
Thị O xảy ra tranh chấp đối với một phần của thửa đất trên. Ông H
3
, bà O cho rằng
một phần công trình của gia đình ông bà nằm trong GCNQSDĐ của gia đình ông H
3
,
bà O. Lúc này, ông bà mới xem lại GCNQSDĐ thì mới biết GCNQSDĐ của gia đình
ông bà được cấp có sai sót về diện tích và hình thể của thửa đất, cụ thể: Về diện tích
thiếu 43m
2
so với hiện trạng sử dụng; về hình thể:
Căn cứ theo bản đồ 299, thửa đất của gia đình ông bà có cạnh đất mặt đường
thôn Q khoảng hơn 16m, còn thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O không có phần đất
nào giáp mặt đường thôn.
Các bên đương sự, chính quyền địa phương và những người làm chứng đều xác
định: Trước đây, thửa đất của gia đình ông H
3
, bà O không bám mặt đường thôn Q mà
có cạnh giáp ranh với thửa đất của gia đình ông D, bà T thời điểm đó là đất ao, phù hợp
với bản đồ địa chính 299.
Quá trình thu thập chứng cứ có căn cứ xác định quá trình sử dụng đất thì đường
thôn Q được mở rộng thành nhiều lần dẫn đến thửa đất 306 (theo hồ sơ 299) còn ít diện
tích. Hình thể, diện tích, kích thước của các thửa đất theo hồ sơ địa chính năm 1997 đã
có sự thay đổi. Theo đó, thửa đất của gia đình ông D, bà T có diện tích còn lại là 48m
2
,
có cạnh mặt đường thôn Q là 5,9m;
Mặt khác, nguồn gốc đất của bị đơn là do cụ R tặng cho, mặc dù trong hồ sơ vụ
án không có tài liệu nào thể hiện việc cụ R đã tặng cho, chuyển nhượng cho bị đơn.
Quá trình sử dụng đất của cả nguyên đơn và bị đơn trước đó đều không xảy ra tranh
chấp và nguyên đơn đã sử dụng ổn định liên tục. Bị đơn cho rằng quá trình sử dụng
đất có đổi đất cho bị đơn nên mới có hình thể thửa đất như Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp năm 2003. Tuy nhiên, Bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh. Những người làm chứng và xác nhận của UBND xã V
1
và UBND huyện
T
5
đều khẳng định không biết việc đổi đất giữa hai gia đình, hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2003 hiện UBND xã và UBND huyện không còn lưu
giữ.
Do đó, việc UBND huyện T
5
, tỉnh H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 2003 cho gia đình ông D và gia đình ông H
3
đều không đúng về diện tích, hình
thể và hiện trạng sử dụng đất, dẫn đến việc tranh chấp. Nguyên nhân của việc diện
tích, hình thể mảnh đất được cấp trong giấy chứng nhận cho nguyên đơn và bị đơn
đều không phù hợp với thực tế diện tích đất của các bên đang sử dụng là do có phần
lỗi của người sử dụng đất.
Vì vậy cần phải huỷ hai giấy chứng nhận này để các bên liên hệ với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng
diện tích, hình thể mà mình có quyền sử dụng.
[3] Theo xác minh tại địa phương xác định, quá trình sử dụng đất, chính quyền
địa phương đã lấy một phần đất của gia đình ông D, bà T để mở rộng đường nên diện
tích đất hiện trạng thể hiện gia đình ông D sử dụng đất lấn hành lang giao thông là
12
40,1m
2
. Hiện phần đất này, gia đình ông D đã xây dựng công trình trên đất và sử dụng
ổn định, nên cần tạm giao cho nguyên đơn tiếp tục sử dụng đến khi Nhà nước thực hiện
chính sách về đất đai thì phải thực hiện theo quy định của Nhà nước.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện trả lại cho bị đơn diện tích
đất là 27,6m
2
giáp đất của bị đơn và không yêu cầu bị đơn thanh toán giá trị các công
trình trên phần đất này. Xét thấy đề nghị của nguyên đơn là tự nguyện, không trái đạo
đức, không vi phạm quy định pháp luật nên cần xem xét chấp nhận.
Từ những phân tích nêu trên thấy rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Toà án cấp sơ thẩm chưa xem
xét đầy đủ các chứng cứ và quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là chưa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy,
Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mà cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn,
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ chấp
nhận nên bị đơn là ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O phải chịu toàn bộ chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.000.000 đồng. Số tiền này ông D,
bà T đã nộp toàn bộ, nên ông H
3
, bà O phải thanh toán cho ông D, bà T 5.000.000
đồng.
[6] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
- Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo được chấp
nhận nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T,
sửa Bản án sơ thẩm số: 06/DS-ST ngày 19/3/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Toà án nhân dân
tỉnh H, cụ thể như sau:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 39, khoản 2 Điều 244, Điều 147
Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 512, Điều 517 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 688 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 73 Luật đất đai năm 1993, Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Điều
32 Luật tố tụng hành chính; Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T.
13
1.1. Hủy GCNQSDĐ do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003 cho ông Trần
Doãn D và bà Nguyễn Thị T đối với thửa đất số 104 và 114, tờ bản đồ số 13 và
GCNQSDĐ do UBND huyện T
5
cấp ngày 20/6/2003 cho ông Vũ Duy H
3
và bà
Nguyễn Thị O đối với thửa đất số 113, tờ bản đồ số 13 tại thôn Q, xã V, huyện T
1
,
tỉnh H.
1.2. Xác định ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T có quyền sử dụng hợp pháp
diện tích 49,4m
2
đất, được giới hạn bởi các điểm A40, A42, A43, A25, A26, A27, A28,
A32 đến A40.
1.3. Tạm giao cho ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T được sử dụng 16,8m
2
đất hành lang giao thông đường thôn được giới hạn bởi các điểm A41, A33, A40,
A42 đến A41 và diện tích 23,3m
2
đất hành lang giao thông đường thôn được giới hạn bởi
các điểm A43, A24, A38, A37, A36, A35, A34, A41, A42 đến A43 đến khi nào Nhà
nước có nhu cầu sử dụng thì phải trả lại.
[1.4]. Bị đơn có quyền sử dụng diện tích đất 27,6m
2
được giới hạn bởi các
điểm A32, A28, A29, A30, A31 đến A32.
(Có sơ đồ kèm theo bản án).
Các đương sự có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
được cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Về chi phí tố tụng: Ông Vũ Duy H
3
và bà Nguyễn Thị O có nghĩa vụ thanh toán
trả ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T số tiền 5.000.000 đồng.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu 300.000 đồng, đối trừ theo số tiền đã nộp
tại Biên lai thu tiền số 0000295 ngày 14/11/2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh H. Hoàn
trả cho ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự
sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0004553 ngày 20/10/2021 tại Cục thi hành án dân
sự tỉnh H.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Doãn D và bà Nguyễn Thị T không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả ông D bà T số tiền 300.000 đồng đã nộp tại
Biên lai thu tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm số 0000601 ngày 10/4/2024 của
Cục thi hành án dân sự tỉnh H.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
14
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh H;
- VKSND tỉnh H;
- Cục THADS tỉnh H;
- Các đương sự;
- Lưu: TA, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trọng Đoàn
Tải về
Bản án số 558/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 558/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm