Bản án số 305/2024/DS-PT ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 305/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 305/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 305/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 305/2024/DS-PT ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 305/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 305/2024/DS-PT
Ngày 18-12-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê nhà và
đất; hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Ngọc Phỉ
Các Thẩm phán: Ông Lưu Hữu Giàu và ông Nguyễn Hoàng Thám.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Bé Thơ – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Mỹ Duyên – Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giangxét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 362/2024/TLPT-DS ngày 15
tháng 11 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và đất; hợp đồng đặt
cọc”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 120/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 366/2024/QĐ-PT
ngày 15 tháng 11 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số:
378/2024/QĐ-PT ngày 06 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp B, xã B,
huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hửu T, sinh năm 1998; nơi cư trú: Ấp H, xã Đ,
huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn D, sinh năm
1988; nơi cư trú: Ấp B, xã B, huyện T, tỉnh An Giang (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Phạm Văn D theo văn bản ủy quyền
ngày 21/8/2024: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp B, xã B,
huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Hửu T, là bị đơn trong vụ án.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà
Nguyễn Thị H (sau đây gọi tắt là bà H) trình bày:
Ngày 08/6/2022, bà H cho ông Nguyễn Hửu T (sau đây gọi là ông T) thuê
đất, gồm: Diện tích 68,2m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây
viết tắt là GCN QSD đất) số CS00836 ngày 11/6/2019 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh An Giang (sau đây viết tắt là Sở TN&MT tỉnh An Giang) cấp cho bà
H; diện tích 66,8m
2
theo GCN QSD đất số CS01620 ngày 31/10/2019 do Sở
TN&MT tỉnh An Giang cấp cho bà H.
Thời gian thuê là 03 năm; giá thuê là 5.500.000đ/tháng; số tiền thuê 03
năm là 198.000.000đ; phương thức thanh toán là 06lần/03năm, mỗi lần thanh
toán 33.000.000đ. Ông T có đặt cọc là 16.500.000đ, hết hợp đồng sẽ trả cho ông
T tiền đặt cọc 16.500.000đ (thỏa thuận bằng lời nói).
Quá trình thực hiện hợp đồng thuê, ông T xin trả tiền thuê hàng tháng là
5.500.000đ; bà H đồng ý cho ông T trả tiền thuê hàng tháng.
Đến ngày 07/10/2023, ông T đóng cửa nhà, giữ chìa khóa và bỏ đi nhưng
không rõ lý do và không thông báo cho bà H; lúc đó, trong nhà vẫn mở đèn, máy
lạnh và nước nhưng nhà khóa cửa bên ngoài; bà H nhiều lần liên hệ yêu cầu ông
T trả chìa khóa và giao trả tài sản thuê nhưng ông T không thực hiện.
Bà H khởi kiện yêu cầu: Hủy hợp đồng thuê đất ngày 08/6/2022 giữa bà
H với ông T; ông T phải trả tiền thuê nhà, đất từ ngày 08/10/2023 đến ngày xét
xử sơ thẩm theo giá thuê 5.500.000đ/tháng; ông T phải giao trả tài sản đúng hiện
trạng ban đầu theo Hợp đồng thuê đất ngày 08/6/2022.
Bà H sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện: Hủy hợp đồng thuê đất ngày
08/6/2022 giữa bà H với ông T; ông T phải trả tiền thuê nhà, đất từ ngày
08/10/2023 đến ngày 16/5/2024 (là ngày ông T giao trả chìa khóa cửa nhà cho
bà H) làm tròn là 07 tháng là 38.500.000đ.
Bà H rút một phần khởi kiện đối với yêu cầu ông T trả tài sản thuê theo
Hợp đồng thuê đất ngày 08/6/2022.
Do ông T tự ý chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn mà không thông
báo trước; nay bà H không đồng ý phản tố của ông T về yêu cầu trả tiền đặt cọc
16.500.000đ.
Theo bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông T trình
bày:
Ông T thống nhất như trình bày của bà H về xác lập hợp đồng thuê đất
ngày 08/6/2022 giữa bà H và ông T.
Ông T có đặt cọc tiền thuê là 16.500.000đ cho bà H nhận; thỏa thuận khi
chấm dứt hợp đồng thuê, bà H sẽ trả lại cho ông T tiền đặt cọc 16.500.000đ
(thỏa thuận bằng lời nói).
3
Quá trình thực hiện hợp đồng thuê, ông T trả tiền thuê hàng tháng.
Do kinh doanh không lợi nhuận, ông T muốn chấm dứt hợp đồng thuê
nhà, đất với bà H nên ngày 08/9/2023 ông T gặp trực tiếp chồng bà H là ông
Phạm Văn D (sau đây gọi tắt là ông D) để thương lượng chấm dứt hợp đồng
thuê và ông T đề nghị với ông D việc thanh toán tiền thuê nhà bằng hình thức
trừ 01 tháng tiền thuê nhà (5.500.000đ) vào tiền đặt cọc, số tiền đặt cọc còn lại
(11.000.000đ) sẽ trừ vào 02 tháng thuê nhà tiếp theo nhưng ông D không đồng
ý; ông D nói là nếu ông T không tiếp tục hợp đồng thuê đất thì mất tiền đặt cọc.
Sau đó, ông D điện thoại cho ông T và nói là cho ông T thuê thêm 01
tháng và phải trả tiền thuê 02 tháng là 11.000.000đ (gồm: Nợ 01 tháng và 01
tháng thuê tiếp tục), thì ông D sẽ trả lại tiền đặt cọc.
Ngày 09/9/2023, ông T chuyển khoản 11.000.000đ vào tài khoản của bà
H để trả tiền thuê nhà từ tháng 8/2023 đến tháng 9/2023.
Ngày 07/10/2023, ông T nhắn tin qua zalo cho ông D về giao trả nhà, đất
và yêu cầu nhận lại tiền đặt cọc nhưng ông D không trả lời.
Sau đó, ông T trực tiếp gặp bà H và ông D yêu cầu trả tiền đặt cọc nhưng
bà H và ông D không trả nên các bên xảy ra tranh cãi, ông D đánh ông T; ông D
và ông T đã thỏa thuận xong tại chính quyền địa phương việc bồi thường thiệt
hại về tiền thuốc.
Do bà H không trả lại tiền đặt cọc nên ông T không giao trả chìa khóa nhà
cho bà H. Ngày 16/5/2024, ông T giao trả chìa khóa nhà cho bà H.
Nay ông T đồng ý hủy hợp đồng thuê đất ngày 08/6/2022; ông T không
đồng ý trả tiền thuê 38.500.000đ theo yêu cầu của bà H.
Ông T phản tố yêu cầu bà H trả tiền đặt cọc 16.500.000đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D trình bày:
Ông D là chồng của bà H; ông D thống nhất trình bày của bà H về hợp
đồng thuê nhà, đất giữa bà H với ông T. Việc bà H cho ông T nhà, đất là do bà H
quyết định và xác lập hợp đồng thuê, ông D không có ý kiến. Ngày 10/10/2023,
ông T có điện thoại nhờ ông D ra kiểm tra nhà để chấm dứt hợp đồng thuê. Ông
D kiểm tra, phát hiện thấy ống nước bị chảy, mất điện, có nhiều rác thải nên yêu
cầu ông T khắc phục. Sau khi xảy ra tranh chấp, ông T giao trả chìa khóa cửa
nhà cho bà H và bà H đã cho người khác thuê.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 120/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Thoại Sơn tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H.
- Hủy Hợp đồng thuê đất ngày 08/6/2022 giữa bà H và ông T.
- Buộc ông T có trách nhiệm trả cho bà H 38.500.000đ.
4
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà H đối với yêu cầu ông T giao trả nhà
và đất thuê như hiện trạng ban đầu.
- Chấp nhận phản tố của ông T.
- Buộc bà H có trách nhiệm trả cho ông T tiền đặt cọc 16.500.000đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 20/9/2024, ông T kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bà H trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Ông T trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư
ký phiên tòa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm; đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử. Các
đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản
1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông T, giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 120/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông T kháng cáo trong thời hạn và có nộp tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử
cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[2] Về nội dung kháng cáo:
Ông T thống nhất về việc xác lập hợp đồng thuê đất của bà H theo hợp
đồng thuê đất ngày 08/6/2022; về nội dung hợp đồng thuê có thỏa thuận: “Thời
hạn thuê 03 năm (từ ngày 08/6/2022 đến ngày 08/12/2024); hợp đồng thuê chấm
dứt trong các trường hợp sau đây: Hết thời hạn thuê đất mà không được gia hạn
thuê tiếp; do đề nghị của một bên hoặc các bên tham gia hợp đồng và được bên
cho thuê đất chấp nhận”.
Quá trình thực hiện hợp đồng thuê, chưa đến thời hạn 03 năm (chưa đến
ngày 08/12/2024) thì ông T chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, ông T không thông
báo cho bà H biết và việc ông T chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn nhưng
chưa được bên bà H chấp nhận; đồng thời, việc ông T giữ chìa khóa nhà, không
trực tiếp giao trả tài sản thuê cho bà H, coi như ông T vẫn tiếp tục thuê nhà.
5
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu bà H và buộc ông T có
trách nhiệm trả cho bà H tiền thuê nhà từ ngày 08/9/2023 đến ngày 16/5/2024
(ngày giao chìa khóa nhà cho bà H) với số tiền 38.500.000đ (theo giá thuê thỏa
thuận là 5.500.000đ/tháng) là có cơ sở và đúng quy định tại khoản 4 Điều 482
của Bộ luật Dân sự năm 2015 (“Khi bên thuê chậm trả lại tài sản thuê thì bên
cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê trả lại tài sản thuê, trả tiền thuê trong thời
gian chậm trả…..”).
Tại cấp phúc thẩm, ông T không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, cấp phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của ông T và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
ông T phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hửu T.
2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 120/2024/DS-ST ngày
20/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
- Hủy Hợp đồng thuê đất lập ngày 08/6/2022 giữa bà Nguyễn Thị H và
ông Nguyễn Hửu T.
- Buộc ông Nguyễn Hửu T có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị H số
tiền thuê nhà, đất là 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng).
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về yêu cầu
ông Nguyễn Hửu T giao trả nhà, đất diện tích 68,2m
2
thuộc thửa số 1, tờ bản đồ
số 7 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp cho bà Nguyễn Thị H ngày
11/6/2019 và diện tích 66,8m
2
đất thuộc thửa số 2, tờ bản đồ số 7 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp cho bà Nguyễn Thị H ngày
31/10/2019.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Hửu T về yêu cầu bà
Nguyễn Thị H trả tiền đặt cọc thuê nhà, đất.
6
- Buộc bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Hửu T tiền
đặt cọc là 16.500.000đ (mười sáu triệu năm trăm nghìn đồng).
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Ông Nguyễn Hửu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.925.000đ
(một triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí
412.500đ (bốn trăm mười hai nghìn năm trăm đồng) đã nộp theo Biên lai thu số
0014004 ngày 25/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh
An Giang. Ông Nguyễn Hửu T phải nộp thêm số tiền 1.512.500đ (một triệu năm
trăm mười hai nghìn năm trăm đồng).
+ Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 825.000đ (tám
trăm hai mươi lăm nghìn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí 987.500đ (chín
trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm đồng) đã nộp theo Biên lai thu số 0013663
ngày 01/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang. Bà Nguyễn Thị H được nhận lại tạm ứng án phí là 162.500đ (một trăm
sáu mươi hai nghìn năm trăm đồng) theo Biên lai thu số 0013663 ngày
01/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hửu T phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí là
300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu số 0011558 ngày
11/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Tp.Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh An Giang;
- TAND huyện Thoại Sơn;
- Chi cục THADS huyện Thoại Sơn;
- Đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, Văn phòng,
Tòa Dân sự, Phòng KTNV&THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Ngô Ngọc Phỉ
Tải về
Bản án số 305/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 305/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm