Bản án số 768/2024/DSPT ngày 27/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 768/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 768/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 768/2024/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 768/2024/DSPT ngày 27/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 768/2024/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | HUDS - NGUYỄN THỊ NGA |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 768/2024/DS - PT.
Ngày: 27/12/2024
V/v tranh chấp: Hợp đồng thuê ki ốt
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa : Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
Các Thẩm phán :Bà Trần Thị Diệp Linh
Bà Đặng Mai Hoa
Thư ký ghi biên bản phiên toà : Ông Lê Minh Đức
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội : Bà Nguyễn Thị Phương Lan – KSV
Ngày 27 tháng 12 năm 2024 , tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử
công khai vụ án Dân sự phúc thẩm thụ lý số 445/DSPT ngày 08/11/2024 về Tranh chấp
Hợp đồng thuê ki ốt.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS – ST ngày 15/07/2024 của Toà án
nhân dân Quận Long Biên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 526/2024/QĐXXPT ngày 12/11/2024,
Quyết định hoãn phiên toà số 666/2024/QĐPT ngày 12/12/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ nhà ở và khu đô thị ( gọi tắt H1)
Địa chỉ: số 1 Đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Thiều Hữu Hảo – Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Trương Quốc Huy – Giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH MTV Dịch vụ nhà ở
và khu đô thị - Xí nghiệp 4.
2. Ông Nguyễn Chiến Thắng – Phó Giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH Một thành viên
Dịch vụ nhà ở và khu đô thị - Xí nghiệp 4.
3. Bà Đinh Thị Minh Loan – Trưởng phòng Pháp chế Công ty TNHH Một thành viên
Dịch vụ nhà ở và khu đô thị.
4. Bà Đinh Thị Thương – Chuyên viên pháp chế Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ
nhà ở và khu đô thị.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thúy N, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Số 48 Nguyễn Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. UBND Thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: Số 12 phố Lê Lai, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
Đại diện theo ủy quyền:
- Ông Vũ Đức Thắng – Phó Trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản, Sở
xây dựng Thành phố Hà Nội;
- Ông Lê Khắc Thiệp – Chuyên viên phòng quản lý nhà và Thị trường bất động sản, Sở
xây dựng Thành phố Hà Nội;
2. Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị ( gọi tắt Tổng H2);
Địa chỉ: Tòa nhà H2 TOWER, số 37 Lê Văn Lương, phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoài Đông – Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Phú Chung – Phó Giám đốc BQL Dự án số 11.
Ông Thắng, bà N, ông Chung có mặt. Các đương sự khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện Nguyên đơn trình bày:
H1 là đơn vị 100% vốn nhà nước trực thuộc Tổng H2 được giao quản lý và vận
hành 27 chung cư 05 tầng, 12 chung cư cao tầng tại dự án Khu đô thị Việt Hưng, quận
Long Biên, Hà Nội, bao gồm việc quản lý và cho thuê 74 ki ốt, 08 siêu thị từ tầng 1 năm
2006.
Ngày 01/4/2015, H1 giao kết Hợp đồng cho thuê kiốt số 495/15/HĐTKÔ/XN4 (sau
đây gọi tắt là “Hợp đồng”) với bà Nguyễn Thúy N (sau đây gọi tắt là “bị đơn” hoặc “bà
N”) với những nội dung chính sau:
✓ Địa điểm: kiot số 2 tầng 1 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng, quận Long Biên,
✓ Diện tích thuê: 29,2 m
2
;
✓ Mục đích: sử dụng để kinh doanh tạp hóa.
✓ Thời hạn kể từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2016; Đơn giá thuê:
125.000đ/ m
2
/tháng (bao gồm thuế VAT)
✓ Giá trị tiền thuê kể từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2016 là:
29,2 m
2
x 125.000 đồng/ m
2
/ tháng x 24 tháng = 87.600.000 đồng
✓ Ngoài ra còn thỏa thuận về trách nhiệm của các bên, vi phạm và xử lý vi phạm,
chấm dứt hợp đồng…
Trong giai đoạn từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2016, H1 với tư cách là Bên
cho thuê kiốt tiếp nhận và thực hiện theo chỉ đạo tại một số văn bản như sau:
- Kết luận số 811/KL-TTCP ngày 13/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về việc chấp
hành pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại Tổng H2. Thanh tra Chính phủ yêu cầu
Tổng H2 và các Công ty thành viên có kế hoạch cụ thể bàn giao tầng 1 các chung cư thuộc
diện phải bàn giao cho UBND thành phố Hà Nội quản lý.
- Nghị quyết số 565/NQ-HĐTV ngày 12/8/2015 của Tổng H2, theo đó H1 có trách
nhiệm phối hợp với Ban QLDA số 11 các ban chức năng của Tổng công ty thực hiện bàn
giao tầng 1 Việt Hưng cho thành phố Hà Nội.
Thực hiện theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và Nghị quyết của Hội đồng thành
viên Tổng công ty, ngày 10/9/2015 Hội đồng thành viên H1 đã có Nghị quyết số 419/NQ-
HĐTV về việc dừng ký hợp đồng với khách hàng. Theo đó, kể từ thời điểm 10/9/2015 H1
dừng không ký hợp đồng với khách hàng để chuẩn bị công tác bàn giao mặt bằng ki-ốt, siêu
thị tầng 1 cho UBND thành phố Hà Nội.
Trong thời điểm cuối năm 2015, đầu năm 2016, H1 đã phối hợp với Ban QLDA số 11
thuộc Tổng H2 rà soát hồ sơ, kiểm đếm thực trạng phục vụ công tác bàn giao ki-ốt, siêu thị
tầng 1 theo chỉ đạo của thành phố.
Ngày 5/4/2016, UBND thành phố Hà Nội có Thông báo số 57/TB-UBND về việc
thông báo kết luận của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội tại cuộc họp về bàn giao, tiếp
nhận các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tại Khu đô thị mới Việt Hưng. Theo đó,
UBND thành phố Hà Nội giao UBND quận Long Biên tiếp nhận tầng 1 các nhà chung cư
từ H1.
Ngày 01/6/2016, UBND thành phố Hà Nội có văn bản số 3232/UBND-KT yêu cầu
Tổng H2 chấm dứt việc cho thuê, thực hiện kê khai, nộp nghĩa vụ tài chính đúng quy định.
Theo đó, H1 dừng thu tiền thuê của khách hàng từ thời điểm 1/6/2016.
Ngày 21/6/2016, H1 đã tiến hành bàn giao toàn bộ hồ sơ tầng 1 chung cư Việt
Hưng cho UBND quận Long Biên, đề nghị UBND Quận Long Biên tiếp nhận bàn giao
toàn bộ mặt bằng kiốt. Tuy nhiên, phía UBND Quận Long Biên mới chỉ tiếp nhận hồ sơ,
chưa tiếp nhận mặt bằng.
Như vậy, quá trình thuê mặt bằng kiốt số 2 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng bị
gián đoạn từ 01/6/2016 là do khách quan.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội, H1 đã tuyên truyền, gửi các
văn bản của Thành phố, vận động, yêu cầu bà Nguyễn Thúy N dừng kinh doanh và trả lại
mặt bằng kiốt số 2 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng cho H1 kể từ ngày 01/6/2016,
thanh lý hợp đồng số 495/15/HĐKTÔ/XN4 căn cứ khoản 7.2 Điều 7 của hợp đồng nhưng
bà Nguyễn Thúy N không chấp hành, tiếp tục sử dụng kiốt tới nay.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của H1, kính đề nghị tòa án nhân dân quận
Long Biên yêu cầu bà Nguyễn Thúy N như sau:
1. Bà Nguyễn Thúy N và những người khác liên quan di chuyển tất cả tài sản ra
ngoài và trả lại mặt bằng kiốt số 2 tầng 1 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng cho H1 để
Công ty bàn giao cho UBND thành phố Hà Nội.
2. Bà Nguyễn Thúy N phải bồi thường cho H1 thuộc Tổng H2 số tiền tạm tính từ
ngày 01/6/2016 đến hết ngày 15/7/2024 là 341.281.875 đồng gồm 02 giai đoạn:
Từ ngày 01/6/2016 đến hết ngày 31/12/2016: 25.550.000 đồng.
Từ ngày 01/01/2017 đến hết ngày 15/07/2024: 315.731.875 đồng.
Khi Tòa án nhân dân quận Long Biên xét xử, số tiền bà Nguyễn Thúy N phải trả
cho H1 sẽ được tính tiếp từ ngày 16/7/2024 đến ngày xét xử cộng với lãi suất chậm trả thi
hành án (nếu có).
Đối với diện tích thông thủy được áp dụng là cơ sở tính tiền sử dụng kiốt đối với bà
Nguyễn Thúy N, H1 giải trình như sau:
- Diện tích ghi trong hợp đồng là 29,2 m
2
.
- Tháng 6/2014, mặc dù Luật Nhà ở chưa được ban hành, quy định phần diện tích
thông thủy trong nhà chung cư chưa được áp dụng, nhưng để giảm thiểu chi phí thuê mặt
bằng kiốt, siêu thị cho các khách hàng, H1 đã mời 01 đơn vị chuyên nghiệp tiến hành đo
đạc lại diện tích các kiốt, trong đó có mặt bằng kiốt số 2, tầng 1, chung cư K6 Khu đô thị
Việt Hưng. Diện tích thông thủy của kiốt này là cơ sở tính tiền thuê kiốt kể từ năm 2014
cho tới nay, cụ thể là 27,91 m
2
.
* Bị đơn – bà Nguyễn Thúy N đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng
mặt không có lý do.
* Tổng H2 trình bày: H1 vẫn đang được Tổng H2 giao quản lý các kiốt, truy thu
tiền thuê các kiốt liên quan đến vụ án và thực hiện việc thu hồi để bà N giao kiốt cho các
cấp ngành theo Hợp đồng số 495/15/HĐKTÔ/XN4 ngày 01/4/2015 và Văn bản số
2836/H2-PCTT ngày 12/9/2019 về việc giao nhiệm vụ/uỷ quyền cho H1.
Thực hiện các công việc được giao nêu trên trong bối cảnh bên thuê kiot không tự
nguyện hoàn trả kiốt và trả tiền thuê, H1 khởi kiện các cá nhân, tổ chức đang chiếm giữ
kiốt để yêu cầu bà N giao và trả số tiền tương ứng với thời gian chiếm giữ mặt bằng kiốt
như đơn khởi kiện là có cơ sở. Đề nghị Toà án xem xét giải quyết các yêu cầu của nguyên
đơn theo quy định của pháp luật.
* UBND thành phố Hà Nội có đơn xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng
và phiên tòa xét xử sở thẩm vụ án: không có ý kiến gì khác.
Bản án Dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS – ST ngày 15/07/2024 của Toà án nhân
dân Quận Long Biên đã quyết định như sau:
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là Công ty TNHH một thành
viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị (H1) đối với bị đơn là bà Nguyễn Thúy N.
2. Buộc bà Nguyễn Thúy N có nghĩa vụ thanh toán tiền sử dụng kiốt số 02 tầng 1
chung cư K6 khu đô thị Việt Hưng, phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà
Nội tính từ ngày 01/6/2016 đến hết ngày 15/7/2024 là 341.281.875 đồng (Bằng chữ: Ba
trăm bốn mốt triệu hai trăm tám mốt nghìn tám trăm bảy lăm đồng) cho Công ty TNHH
một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị.
Buộc bà Nguyễn Thúy N và những người liên quan khác di chuyển tất cả tài sản
ra ngoài và trả lại mặt bằng kiốt số 2 tầng 1 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng cho
Công ty H1 để Công ty bàn giao cho UBND thành phố Hà Nội.
3. Không chấp nhận yêu cầu của H1 về việc buộc bà Nguyễn Thúy N phải trả tiền
bồi thường do sử dụng mặt bằng kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thực tế bàn
giao mặt bằng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án dân sự của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất là 10%/năm tương
ứng với thời gian chưa thi hành án.
4. Về án phí:
- Bị đơn là bà Nguyễn Thúy N phải chịu toàn bộ số tiền án phí dân sự sơ thẩm là
19.384.108 VND (Mười chín triệu ba trăm tám tư nghìn một trăm linh tám đồng);
- Hoàn trả nguyên đơn là Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô
thị (H1) 7.706.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0066281 ngày
31/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Long Biên.
- Nguyên đơn là Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị (H1)
phải chịu 300.000 đồng án phí đối với phần yêu cầu không được chấp nhận.
Sau khi xét xử sơ thẩm :
Bà Nguyễn Thúy N kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn trình bày: Theo yêu cầu của UBND Thành phố Hà Nội nên H1 yêu
cầu bà N trả kiốt nhưng bà N không tự nguyện trả nên từ tháng 6/2022 H1 đã cắt điện và
cắt nước đối với kiốt nhưng bà N vẫn kinh doanh đến nay chưa trả cho nguyên đơn, do
vậy nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà N giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn trình bày: Từ năm 2020, 2021 tình hình dịch bệnh Covid kéo dài nên kiốt
không kinh doanh được, từ tháng 6/2022 đến nay H1 đã cắt điện và cắt nước đối với kiốt
nên bà N đóng cửa kiốt, việc nguyên đơn cho rằng bà N vẫn kinh doanh là không đúng,
vì vậy bà N không đồng ý trả tiền thuê kiốt cho nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của bà N sửa bản án sơ thẩm về việc giảm toàn bộ tiền thuê kiốt từ
năm 2020 đến nay. Bà N đề nghị miễn án phí.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có quan
điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và giải
quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đơn kháng cáo của Bà Nguyễn Thúy N trong thời hạn Luật định và
hợp lệ. Sau khi phân tích nội dung vụ án , đại diện viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bà N
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Về án phí: Bà Nguyễn Thúy N được miễn án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
* Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của Bà Nguyễn Thúy N trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
- Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ theo Hợp
đồng thuê kiốt, do vậy Toà án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là
Tranh chấp Hợp đồng thuê kiốt theo khoản 3 điều 26 Bộ luật dân sự là có căn cứ.
- Điểm c khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “ Đối tượng tranh
chấp là bất động sản thì chỉ Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Kiốt
các bên đang có tranh chấp có địa chỉ tại Quận Long Biên do vậy Tòa án nhân dân Quận
Long Biên thụ lý và giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 3 điều 26, điểm c
khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
* Về nội dung vụ án:
- Về Hợp đồng thuê ki ốt:
H1 được thành lập trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số
0101042990 do Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà
Nội cấp lần đầu ngày 03/01/2006, thay đổi lần thứ thứ 9 ngày 04/7/2013, thứ 10 ngày
04/12/2018 với các ngành nghề kinh doanh: Kinh doanh bất động sản, kinh doanh phát
triển nhà, khu đô thị và khu công nghiệp; cung cấp quản lý các dịch vụ nhà ở cao tầng,
quản lý khu công cộng trong nhà chung cư, khai thác các dịch vụ kiốt;...
Theo Quyết định số 3819/QĐ-UB ngày 18/6/2004 của UBND thành phố Hà Nội
thì Tổng H2 được giao là Chủ đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Việt Hưng. Theo đó,
Thành phố thu hồi 1.980.233m2 đất tại các phường Việt Hưng, Giang Biên, Thượng
Thanh, Đức Giang, quận Long Biên giao cho Tổng H2 để đầu tư xây dựng Khu đô thị
mới Việt Hưng, diện tích tầng 1 làm dịch vụ, đối với tầng 1 các chung cư cao tầng phải
giao cho Thành phố, không tính tiền. Năm 2011, Tổng H2 hoàn thành xây dựng dự án
Khu đô thị mới Việt Hưng và đưa vào sử dụng. Sau đó Tổng H2 giao cho H1 quản lý
vận hành 27 chung cư 05 tầng, 12 chung cư cao tầng tại KĐT Việt Hưng, bao gồm việc
quản lý và cho thuê 74 kiốt, 08 siêu thị tầng 1 từ năm 2006 thông qua giao kết Hợp đồng
số 114/HĐKT-TCT ngày 14/11/2006 giữa Tổng H2 và H1, cho đến nay Tổng H2 vẫn
xác nhận H1 vẫn đang được H2 giao quản lý các kiốt, truy thu tiền sử dụng kiốt theo
Hợp đồng số 114 ngày 14/11/2006 và văn bản số 2836/H2-PCTT ngày 12/9/2019 về
việc giao nhiệm vụ/uỷ quyền cho H1.
Ngày 01/4/2015, H1 do ông Phạm Hồng Quân đại diện và bà Nguyễn Thúy N ký
Hợp đồng thuê kiốt số 495/15/HĐTKÔ/XN4 về việc thuê kiốt số 02 chung cư K6 Khu
đô thị Việt Hưng. Thấy rằng, Hợp đồng được xác lập trên cơ sở tự nguyện giữa các bên,
mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại các Điều 401, 402, 403, 404, 405 và 406 của
Bộ luật Dân sự năm 2005 nên phát sinh hiệu lực và phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với
các bên tham gia giao kết.
Ngày 01/6/2016, UBND thành phố Hà Nội có văn bản số 3232/UBND-KT yêu
cầu Tổng H2 chấm dứt việc cho thuê, thực hiện kê khai, nộp nghĩa vụ tài chính đúng quy
định. Theo đó, H1 dừng thu tiền thuê của khách hàng từ thời điểm 1/6/2016. H1 đã tuyên
truyền, gửi các văn bản của Thành phố, vận động, yêu cầu bà Nguyễn Thúy N dừng kinh
doanh và trả lại mặt bằng kiốt số 2 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng cho H1 kể từ
ngày 01/6/2016, thanh lý hợp đồng số 495/15/HĐKTÔ/XN4 theo khoản 7.2 Điều 7 của
hợp đồng nhưng bà Nguyễn Thúy N không chấp hành, tiếp tục sử dụng kiốt tới nay.
Điều này đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp, xâm phạm đến chính sách quản
lý tài sản công, do vậy Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
buộc bị đơn hoàn trả mặt bằng kios số 2 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng là có căn
cứ.
- Về đơn giá làm căn cứ truy thu: H1 căn cứ vào đơn giá tại Phụ lục kèm theo văn
bản số 462/UBND-ĐT ngày 17/02/2021 của UBND thành phố Hà Nội để làm cơ sở truy
thu tiền thuê kiốt, theo đó giá thuê kiốt tại nhà K6 là 125.000 đồng/m
2
/tháng, đơn giá
này đã được UBND Thành phố tham khảo trên cơ sở Chứng thư số 72201/CT-
VVGC/BAN5 ngày 22/7/2020 của Công ty Cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt
Nam. Do vậy, H1 thực hiện việc áp giá truy thu theo văn bản số 462/UBND-ĐT ngày
17/02/2021 của UBND thành phố Hà Nội là có cơ sở.
Về số tiền thuê trong thời hạn của Hợp đồng từ 1/6/2016 đến 30/12/2016 là
25.550.000 đồng, các bên không có tranh chấp, nên Toà không xem xét.
Từ sau ngày 1/1/2017 đến hết ngày 30/6/2022 bà N vẫn quản lý và kinh doanh tại
kiốt nên Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà N
phải trả tiền thuê kiốt là có căn cứ, do vậy không chấp nhận kháng cáo của bà N về việc
không đồng ý trả tiền thuê kiốt từ năm 2020 đến hết ngày 30/6/2022 do covid. Như vậy
từ 1/1/2017 đến hết 30/6/2022 bà N phải trả tiền thuê ki ốt là :
27,91 m
2
x 125.000 đồng/ m
2
x 66 tháng = 230.257.500 đồng.
Tổng tiền thuê từ ngày 1/6/2016 đến hết ngày 30/6/2022 là 255.807.500 đồng
Căn cứ lời khai của nguyên đơn thể hiện từ tháng 7/2022 nguyên đơn cắt toàn bộ
điện nước, do vậy bị đơn không thể kinh doanh được, do vậy việc nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu bị đơn thanh toán tiền thuê nhà là không có căn cứ để chấp nhận. Nguyên đơn
không có tài liệu chứng cứ chứng minh việc từ sau tháng 7/2022 thì bị đơn vẫn đang
kinh doanh tại kiốt nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi tiền thuê kiốt từ tháng
7/2022 đến khi xét xử sơ thẩm không được chấp nhận, do vậy căn cứ khoản 2 điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận 1 phần kháng cáo của bà N sửa bản án sơ thẩm theo
nội dung trên.
- Về án phí : Do bà N trên 60 tuổi nên được miễn án phí sơ thẩm và phúc thẩm.
Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp
với pháp luật.
Từ những nhận định trên!
Căn cứ điều 147, 148, khoản 2 điều 308, điều 313, 349 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ các Điều 305, 401, 402, 480, Khoản 4 Điều 490 của Bộ luật Dân sự năm
2005; Điều 357 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 và Điều 26, 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
QUYẾT ĐỊNH
Xử: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của bà Nguyễn Thuý N.
Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS – ST ngày 15/07/2024 của Toà án
nhân dân Quận Long Biên và quyết định như sau:
1. Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên Dịch
vụ nhà ở và khu đô thị đối với bà Nguyễn Thúy N.
2. Buộc bà Nguyễn Thúy N có nghĩa vụ thanh toán tiền sử dụng kiốt số 02 tầng 1
chung cư K6 khu đô thị Việt Hưng, phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà
Nội tính từ ngày 01/6/2016 đến hết ngày 30/6/2022 là 255.807.500 đồng cho Công ty
TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị.
Buộc bà Nguyễn Thúy N và những người liên quan khác di chuyển tất cả tài sản
ra ngoài và trả lại mặt bằng kiốt số 2 tầng 1 chung cư K6 Khu đô thị Việt Hưng cho
Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị để bàn giao cho UBND
thành phố Hà Nội.
3. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và
khu đô thị về việc buộc bà Nguyễn Thúy N phải trả tiền bồi thường do sử dụng mặt bằng
kể từ sau ngày 1/7/2022 cho đến khi thực tế bàn giao mặt bằng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án dân sự của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất là 10%/năm tương
ứng với thời gian chưa thi hành án.
4. Về án phí:
- Bà Nguyễn Thúy N được miễn toàn bộ số tiền án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm.
- Trả Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ nhà ở và khu đô thị (H1) 7.706.000
đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0066281 ngày 31/10/2023 của Chi cục
Thi hành án Dân sự quận Long Biên.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày 27/12/2024.
Nơi nhận:
- Tòa án ND Quận Long Biên
- Chi cục THADS Quận Long Biên
- Viên kiểm sát ND TP Hà Nội;
- Đương sự. Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Tải về
Bản án số 768/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 768/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm