Bản án số 15/2025/DS-ST ngày 12/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 15/2025/DS-ST ngày 12/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk |
| Số hiệu: | 15/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Văn Công Cường
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Xuân Dũng;
2. Bà Nguyễn Thị Vui.
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Lý - Thư ký Tòa án nhân dân Khu vực 6 - Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 6 - Đắk Lắk tham gia phiên
tòa: Ông Nguyễn Thanh Thạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 05 và ngày 12 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 6
- Đắk Lắk mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
105/2024/TLST-DS ngày 15 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
08/2025/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyên đơn: Ông Y P, sinh năm 1977, số CCCD:
066077000978, địa chỉ: Buôn D, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (nay là xã Đ, tỉnh
Đắk Lắk), có mặt.
2. Bị đơn: Ông Y T, sinh năm 1952, số CMND: 240081037, địa chỉ: Buôn T,
xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (nay là xã Đ, tỉnh Đắk Lắk) (đã chết).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Y T, đồng thời là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà H N, sinh năm 1977, số CCCD: 066177009596,
có mặt; ông Y M, sinh năm 1982, số CCCD: 066082008518, có mặt; ông Y S, sinh
năm 1985, số CCCD: 066085003982; vắng mặt; ông Y Si, sinh năm 1989, số
CCCD: 066089015225, vắng mặt; anh Y P, sinh năm 1992, số CCCD:
066092010443, vắng mặt; cùng địa chỉ: Buôn T, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk
(nay là buôn T, xã Đắk L, tỉnh Đắk Lắk).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà H D, sinh năm 1973, số CCCD: 066173000515, địa chỉ: Buôn D, xã Đ,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk (nay buôn D, xã Đ, tỉnh Đắk Lắk), có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - ĐẮK LẮK
Bản án số: 15/2025/DS-ST
Ngày: 12/9/2025
“V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
- Ông Y P, sinh năm 1949, địa chỉ: Buôn D, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk
(nay buôn D, xã Đắk L, tỉnh Đắk Lắk), vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên
đơn ông Y P trình bày như sau:
Do có mối quan hệ huyết thống nên vào ngày 08 tháng 9 năm 2007, mẹ con
bà H M (tên thường gọi là H M, đã chết) và ông Y T (đã chết), cùng trú tại buôn T,
xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk có bán cho tôi 2.600 m
2
(hai ngàn sáu trăm mét
vuông) đất ruộng tại buôn T, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp rẫy ông Y M, cạnh dài 65 m; Phía Nam giáp ruộng bà H M, cạnh
dài 40m; Phía Tây giáp quốc lộ 27, cạnh dài 65m; phía Bắc giáp đất bà O, cạnh dài
40m. Nay thuộc thửa đất số 86, 69, 16 và một phần của thửa đất số 54 theo kết quả
đo đạc trích lục địa chính thửa đất của Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ Kĩ
thuật trắc địa Sài Gòn - Chi nhánh Đắk Lắk. Khi mua còn có ông Y T là bố đẻ của
tôi hiện nay đã chết nhưng ông Y T chỉ là người đứng ra chứng kiến trong việc
mua bán nói trên. Tôi là người mua đất, các bên thỏa thuận việc mua bán nói trên
với giá 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) và tôi đã giao đủ tiền cho bên bán
và bên bán đã bàn giao đất cho tôi trên thực địa. Bà H là mẹ của ông Y T là người
đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 875015, do Ủy ban nhân
dân huyện L cấp ngày 27/11/1997.
Ông Y T là con đẻ của bà H M, bà H M là vợ ông Y T. Chị H N, anh Y M,
anh Y P, Y Sor L là con chung của ông Y T và bà H M. Khi mua thì có ông Y T là
người ký vào giấy bên phía người bán và tôi là người ký bên mua. Đến nay ông Y
T, bà H M, bà H M đều đã chết và tôi là người sử dụng diện tích đất nói trên từ khi
mua bán đến năm 2023 tôi yêu cầu bà H N cùng các con của ông Y Tthực hiện
việc sang nhượng đất mà tôi đã mua với ông Y T nhưng các con của ông Y T chỉ
đồng ý sang nhượng cho tôi diện tích của thửa số 69, 16 và thửa đất số 54 nhưng
họ không thực hiện làm thủ tục sang tên cho tôi. Còn đối với diện tích thửa đất số
86 thì họ không đồng ý sang nhượng vì cho rằng đất này đã giao cho dòng họ
Hmõk bên phía bà H M. Hiện tại các thửa đất nêu trên tôi là người đã mua hợp
pháp và sử dụng ổn định từ năm 2007 đến nay không có ai ngăn cản hay tranh chấp
gì.
Nay tôi đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất theo “giấy sang nhượng đất ruộng” ngày 08 tháng 9 năm 2007 giữa tôi với ông
Y T và bà H M, ngoài ra tôi không có yêu cầu gì khác.
Tôi không đồng ý về phần trình bày của những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đối với thửa đất số 86 vì diện tích đất tôi mua trước khi các bên thực hiện
việc phân chia tài sản, việc chia đất của dòng họ ông Y T cho bà H D là sau khi
ông Y T đã bán đất cho tôi và sau khi ông Y T chết.
Đối với việc xem xét thẩm định tại chỗ cùng kết quả định giá tài sản thì
nguyên đơn đồng ý không có ý kiến bổ sung gì và tự nguyện chịu toàn bộ tiền chi
phí tố tụng.
3
* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, đại diện người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Y T đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà H N có ý kiến trình bày:
Bà H N, ông Y M, ông Y S, ông Y T, sinh năm 1979 (đã chết); ông Y Si, sinh
năm 1989 và anh Y P, sinh năm 1992, cùng địa chỉ: Buôn T, xã Đắk L, huyện L,
tỉnh Đắk Lắk là con đẻ của ông Y T, sinh năm 1952 và bà H’ M (đều đã chết). Ông
Y T là con đẻ của bà H M, sinh năm 1924, tên thường gọi là H M (đã chết). Ông Y
T là bố đẻ của ông Y P và là em ruột của bà H M.
Ngày 08 tháng 9 năm 2007, các anh chị em trong gia đình được biết ông Y T
có bán cho ông Y P diện tích đất là 2.600m
2
có tứ cận phía Đông giáp rẫy ông Y M
có cạnh dài 65m; phía Nam giáp ruộng của bà H N dài 40m; Phía Bắc giáp rẫy ông
Y M dài 40m và phía Tây giáp đường quốc lộ 27 dài 65m như ông Y P là đúng.
Chúng tôi khẳng định nội dung theo "Giấy sang nhượng đất ruộng" ngày 08 tháng
9 năm 2007 là đúng sự thật; chữ ký, chữ viết của ông Y T trong giấy sang nhượng
là đúng. Nay chúng tôi được biết diện tích đất mà ông Y P mua nay thuộc các thửa
đất thửa số 69, thửa đất số 86, thửa đất số 16 và 54 đều thuộc tờ bản đồ số 52 tại
buôn T, xã Đăk L, huyện L, chúng tôi đã nhận được kết quả đo đạc trích lục các
thửa đất và ông Y P đã sử dụng đất đó từ năm 2007 đến nay không ai tranh chấp
gì. Tuy nhiên đối với thửa đất 69; 16 và 54 thì ông Y T đã bán cho ông Y P và hiện
tại ông Y T đã chết và đất hiện nay các anh chị em trong gia đình không quản lý,
không sử dụng nên ông Y P khởi kiện thì chúng tôi đồng ý công nhận việc mua
bán đất giữa bố tôi với ông Y P vào năm 2007 theo “giấy sang nhượng đất ruộng”
ngày 08/9/2007, không có tranh chấp gì. Còn đối với thửa đất số 86 thì chúng tôi
không liên quan gì và thửa đất này không phải là của chúng tôi, hiện nay ai đang
sử dụng thì chúng tôi không biết mà chỉ biết là thửa đất 86 này bố tôi là ông Y T đã
chia cho dòng họ Hmǒk bên phía gia đình bà H M chứ không nằm trong phần diện
tích mà ông Y P mua với ông Y T nhưng chúng tôi không có giấy tờ gì về việc
chia đất cho dòng họ Hmǒk và cũng không có tranh chấp gì với ông Y P đối với
thửa đất này.
Hiện tại các chị em chúng tôi đang sử dụng thửa đất số 336, tờ bản đồ số 18
(nay là thuộc thửa đất 98), đất đã được ủy ban nhân dân huyện Lắk cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số M875015 ngày 27 tháng 01 năm 1997 đứng tên bà H
M. Diện tích đất chị em chúng tôi đang sử dụng không có tranh chấp gì với ai và
cũng không nằm trong diện tích đất mà ông Y P đang khởi kiện.
Nay ông Y P khởi kiện yêu cầu chúng tôi sang nhượng các thửa đất số 69; 16
và 54 đều thuộc tờ bản đồ số 52 thì chúng tôi đồng ý. Còn đối với thửa đất số 86
thì chúng tôi không có ý kiến gì và không có tranh chấp gì, vì thửa đất 86 không
liên quan gì đến chị em chúng tôi.
Đối với ông Y T, sinh năm 1979 đã chết vào năm 1999 do tai nạn giao thông,
khi chết thì chưa có vợ, con nên hiện nay không có ai thừa kế.
Đối với anh Y P, sinh năm 1992 hiện nay đang ở tại buôn T, xã Đ, tỉnh Đắk
Lắk nhưng chưa có vợ, con và bị khuyết tật về thần kinh, tâm thần và đang được

4
hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng của Nhà nước. Đối với bà H Mưm H còn có tên
gọi khác là H Mơ Hmǒk.
Về việc xem xét thẩm định tại chỗ cùng kết quả đo đạc và định giá tài sản
chúng tôi đồng ý không có ý kiến bổ sung gì. Tôi nghe được, hiểu được tiếng Việt
phổ thông nên không cần người phiên dịch và trợ giúp pháp lý.
* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa ông Y M đồng ý với ý kiến trình
bày của bà H N, không có ý kiến bổ sung gì khác.
* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà H D trình bày:
Tôi với ông Y T là anh em chú bác ruột. Sau khi ông Y T chết thì đến năm
2018 các con của ông Y T là H N, Y M, Y S, Y Si và Y P đã đồng ý chia cho tôi
diện tích đất là 605m
2
thuộc thửa đất số 337, nay là thửa đất số 86 theo kết quả đo
về trích lục thửa đất hiện nay. Khi chia đất có đại diện dòng họ Long Ding là ông
Y P đứng ra lập biên bản phân chia đất của ông Y T cho tôi, biên bản viết tay
không có xác nhận của chính quyền địa phương, khi phân chia thì đất đang đứng
tên bà H M là mẹ ông Y T.
Năm 2007, ông Y P mua đất ông Y T là đúng nhưng diện tích đất là ông Y P
yêu cầu công nhận trong đó có thửa đất số 86 thì tôi không đồng ý vì thửa đất số
86 nằm trong diện tích đất mà ông Y P yêu cầu thì dòng họ Long Ding đã chia cho
tôi, còn đối với các thửa đất khác tôi không có ý kiến và không có tranh chấp gì.
Đối với diện tích mà dòng họ Long Ding chia cho tôi (thửa đất số 86) thì hiện nay
chưa có bìa đỏ nhưng tôi vẫn quản lý và đã rào lưới bao phân cách giữa thửa đất 86
và thửa đất 69 của ông Y P, theo tôi được biết ông Y T chỉ bán cho ông Y P là thửa
đất số 69, 16 và một phần thửa đất số 54 chứ không bán cho ông Y P thửa đất số
86.
Nay ông Y P đi khởi kiện yêu cầu sang nhượng các thửa đất số 69; 16 và 54
thì tôi không có ý kiến gì và không có tranh chấp gì. Còn đối với thửa đất số 86 thì
tôi không đồng ý vì thửa đất này dòng họ Long Ding đã chia cho tôi nhưng hiện tại
vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về việc xem xét thẩm định tại chỗ cùng kết quả định giá tài sản và đo đạc thì
tôi không có ý kiến gì. Tôi nghe được, hiểu được tiếng Việt phổ thông nên không
cần người phiên dịch và trợ giúp pháp lý.
* Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Y P trình bày:
Năm 2018 tôi có đại diện cho dòng họ Long Ding đứng ra chia đất của ông Y
T cho dòng họ Hmǒk, trong đó bà H D được chia diện tích đất 605m
2
thuộc thửa
đất số 86 như đo vẽ hiện nay. Năm 2007 ông Y T có bán đất cho ông Y P nhưng
không bán diện tích đất này mà chỉ bán thửa đất số 69, 16 và 54 như hiện nay. Khi
đứng ra chia đất cho bà H D thì các bên chỉ chia bằng miệng chứ chưa có giấy tờ gì
mà có ghi giấy tay tôi là đại diện dòng họ Long Ding, còn ông Y T bố của ông Y P
đại diện dòng họ Hmǒk đứng ra lập biên bản ghi tay, sau khi phân chia xong thì
5
không ai đứng ra nhận và sử dụng đất. Nay tôi không có tranh chấp gì các thửa đất
mà ông Y P yêu cầu công nhận, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật. Do sức khỏe nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt tôi, tôi không
có yêu cầu gì.
* Tại biên bản xác minh ngày 16/4/2025 ở buôn T, xã Đắk L có nội dung:
Ông Y T, sinh năm 1952 trước đây cư trú và đăng ký hộ khẩu thường trú tại buôn
T, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk nhưng đã chết. Ông Y T là bố đẻ của bà bà H
N, sinh năm 1977; ông Y M, sinh năm 1982; ông Y So, sinh năm 1985; ông Y Sik,
sinh năm 1989 và anh Y P, sinh năm 1992, cùng địa chỉ: Buôn T, xã Đắk L, huyện
L, tỉnh Đắk Lắk và có vợ là bà H M, sinh năm 1955 (đã chết). Năm 2007 ông Y T
có bán đất cho ông Y P tại buôn T, xã Đắk L nay là các thửa đất số 86, 69, 16 và
54 đều thuộc tờ bản đồ số 52 là đúng thực tế, các thửa đất khi hai bên thực hiện
việc mua bán là đất của ông Y T, đất thuộc đất nông nghiệp và ông Y P quản lý, sử
dụng từ đó cho đến nay không tranh chấp gì với ai, các bên đã xác định mốc ranh
giới giữa các thửa đất và diện tích sử dụng.
* Tại biên bản xác minh ngày 08/9/2025 ở buôn T, xã Đắk L có nội dung:
Thửa đất số 86 trước đây là thửa đất số 337; thửa đất số 69, trước đây là thửa đất
số 334 và thửa đất số 16, trước đây là thửa đất số 333 đều thuộc tờ bản đồ số 52,
trước đây là tờ bản đồ số 18, địa chỉ: Buôn T, xã Đăk L, huyện L, tỉnh Đăk Lăk
(nay là buôn T, xã Đăk L, tỉnh Đăk Lăk). Các thửa đất nói trên đều là đất nông
nghiệp dùng để trồng lúa, do ngập nước nên khoảng năm 2007 người dân đã tự ý
đổ đất để nâng cao các thửa đất, trong đó có ông Y P thực hiện việc đổ đất này, còn
việc ai là người đổ đất trước, ai là người đổ sau và đổ như thế nào thì ban tự quản
buôn và chính quyền địa phương không xác định được.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 6 phát biểu:
- Thẩm quyền thụ lý vụ án: Đây là vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo
quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39
Bộ luật tố tụng Dân sự.
- Vấn đề thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử và chuyển hồ sơ cho
Viện kiểm sát nghiên cứu và việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực
hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
các quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 và 78 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (viết là
HĐXX), Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã chấp hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
- Ý kiến về giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157 Bộ luật tố tụng dân; Căn cứ các
Điều 129, 175 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8
năm 2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Căn cứ điểm đ khoản
6
1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp quản lý và sử dụng án
phí lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y Pơi Byă: Công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/9/2007 giữa bên chuyển
nhượng là ông Y T và bà H M với bên được chuyển nhượng là ông Y P đối với
các thửa đất số 86, 69, 16 và một phần thửa đất số 54 đều thuộc tờ bản đồ số 52
có vị trí tại buôn T, xã Đăk L, tỉnh Đăk Lăk.
Về án phí DSST và chi phí tố tụng: Bị đơn được miễn án phí DSST. Nguyên
đơn tự nguyện nên phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí đo đạc và
định giá tài sản theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại
phiên tòa; lời trình bày của những người tham gia tố tụng, kết quả tranh tụng và ý kiến
của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Y P khởi kiện yêu
cầu công nhận quyền sử dụng đất theo “giấy sang nhượng đất ruộng” ngày 08
tháng 9 năm 2007 giữa bên mua là ông Y P với bên bán là ông Y T và bà H M tại
buôn T, xã Đắk L. HĐXX xác định đây là vụ án tranh chấp giao dịch dân sự về
“hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ
luật tố tụng Dân sự; người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn cư trú tại tại
buôn T, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (nay là buôn T, xã Đắk L, tỉnh Đắk Lắk)
nên Tòa án nhân dân huyện Lắk (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 6 - Đắk Lắk căn cứ
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự để thụ lý
vụ án là đúng thẩm quyền.
[2] Về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Tòa
án đã thông báo hợp lệ cho các đương sự tham gia phiên họp để kiểm tra việc giao
nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự đã thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa các đương sự không cung cấp tài liệu,
chứng cứ gì thêm. Do đó HĐXX sẽ xem xét các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu
thập được và đương sự giao nộp có lưu trong hồ sơ để giải quyết vụ án.
[3] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện ngày 08 tháng 9 năm 2007 giữa
nguyên đơn ông Y P và bị đơn Y Teh H (đã chết) có thực hiện việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo “giấy sang nhượng đất ruộng” có tổng diện tích 2.600m
2
thuộc các thửa đất số 337, 334 và 333 tờ bản đồ số 18, nay là các thửa đất số 86,
69, 16 và 54 tờ bản đồ số 52 tại buôn T, xã Đắk L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (nay là
buôn T, xã Đắk L, tỉnh Đắk Lắk) có vị trí phía Đông giáp rẫy ông Y M dài 65 m;
phía Nam giáp ruộng bà H M dài 40m; phía Tây giáp quốc lộ 27 dài 65m; phía Bắc
giáp đất bà O dài 40m. Hai bên thỏa thuận bị đơn chuyển nhượng cho nguyên đơn
diện tích đất 2.600m
2
với giá 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng), nguyên đơn
đã trả đầy đủ tiền cho bị đơn. Sau khi thực hiện việc mua bán đất thì các bên đã
bàn giao đất và nguyên đơn đã nhận đất trên thực địa và sử dụng ổn định từ đó cho
đến nay không có ai tranh chấp. Tuy nhiên khi hai bên thực hiện việc chuyển
7
nhượng đất chỉ thực hiện viết giấy tờ tay là “giấy sang nhượng đất ruộng” vì theo
đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đứng tên bà H M là mẹ ruột
của ông Y T. Xét việc mua bán đất giữa ông Y P với ông Y T diễn ra vào năm
2007 hiện nay là các thửa đất 86, 69, 16, 54 là đúng sự thật và đúng vị trí đất trên
thực địa vì theo “giấy sang nhượng đất ruộng” ghi đất mua, bán có tổng diện tích
2.600m
2
và phía Tây giáp quốc lộ 27. Đối chiếu với kết quả đo đạc hiện trạng các
thửa đất của Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ kĩ thuật trắc địa Sài Gòn - Chi
nhánh Đắk Lắk do nguyên đơn chỉ dẫn thì xét thấy vị trí các thửa đất là đúng và
diện tích đất tương đối phù hợp với nhau (619,7 + 1202 + 621,7) = 2.443.4m
2
.
[3.1] Mặt khác ông Y T đã chết và các con của ông Y T là người thừa kế
quyền và nghĩa vụ của ông Y T cũng thừa nhận và đồng ý việc mua bán đất giữa
ông Y Teh với ông Y P vào năm 2007 không có tranh chấp gì, do đó áp dụng các
điều 15, 17, 26, 152; 235; 236 luật Đất đai năm 2024; mục 2 Nghị Quyết số:
02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân gia đình; điểm b khoản 1 Điều 688, Điều 129, các điều 158, 164, 401 và Điều
500 Bộ luật Dân sự năm 2015, cần công nhận việc mua bán đất giữa ông Y Teh với
ông Y Pơi vào năm 2007 theo “giấy sang nhượng đất ruộng” ngày 08/9/2007 nay
là các thửa đất số 86, 69, 16 và một phần thửa đất số 54 (có diện tích 619m
2
)
đều
thuộc tờ bản đồ số 52 tại buôn T, xã Đắk L, tỉnh Đắk Lắk và phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát tại phiên tòa. (sơ đồ, vị trí đất được kèm theo kết quả đo đạc trích
lục địa chính các thửa đất của Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ Kỹ thuật trắc
địa Sài Gòn - Chi nhánh Đắk Lắk).
[3.2] Về việc dòng họ Long Ding đại diện là ông Y P đứng ra lập biên bản
phân chia đất của bà H M cho bà Diêm H đối với thửa đất số 86 vào năm 2018, khi
phân chia thì đất đang do bà H M đứng sỡ hữu và việc phân chia đất không có sự
đồng ý của bà H M và ông Y T bằng văn bản gì, mặt khác bà H M chết năm 2007,
ông Y T chết năm 2017 (đều chết trước khi các bên tự phân chia đất) và trên thực
tế ông Y P đang quản lý và sử dụng đất nên việc tự phân chia đất này vào năm
2018 là trái với quy định của pháp luật,
[4] Về án phí và tạm ứng án phí: p dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 2
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án và danh mục án phí lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, xác
định như sau:
[4.1] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nên bị đơn
phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm tranh chấp về dân sự có giá ngạch đối
với giá trị tài sản mà nguyên đơn yêu cầu nhưng bị đơn thuộc trường hợp là người
đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[4.2] Về tạm ứng án phí: Nguyên đơn ông Y Pơi B thuộc trường hợp là người
đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
8
khăn nên được miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trước khi thụ lý vụ
án nên không xem xét giải quyết.
[5] Về chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nên bị đơn
phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 Bộ luật tố tụng Dân sự nhưng do nguyên đơn
tự nguyện chịu tiền chi phí này nên phải chịu 6.500.000 đồng tiền chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, khấu trừ số tiền đã nộp tạm ứng tại Tòa án theo
phiếu thu số 41 ngày 12/02/2025 và bảng kê chi phí tố tụng ngày 26/3/2025
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các điều
144; 147; 157; 165; 203; 220; 227; 235; 244; 266 và 273 Bộ luật tố tụng Dân sự
năm 2015;
Căn cứ các điều 15, 17, 26, 152; 235; 236 luật Đất đai năm 2024; tiểu mục 2.2
mục 2 Nghị Quyết số: 02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 688, Điều 129, các điều 158, 164, 401 và Điều
500 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phía Tòa án
ban hành kèm theo Nghị quyết.
Tuyên xử:
1. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn ông Y P.
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên nhận
chuyển nhượng ông Y P với bên chuyển nhượng ông Y T theo “giấy sang nhượng
đất ruộng” ngày 08/9/2007 nay thuộc các thửa đất số 86, 69, 16 và một phần thửa
đất số 54 (có diện tích 619,7m
2
), đều thuộc tờ bản đồ số 52 có vị trí tại buôn T, xã
Đắk L, tỉnh Đắk Lắk.
- Ông Y P có quyền sở hữu và có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà
nước, tổ chức có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục về đất đai đối với các thửa
đất và diện tích đất được công nhận theo quy định của pháp luật. (Sơ đồ, vị trí đất
được kèm theo kết quả đo đạc trích lục địa chính các thửa đất của Công ty trách
nhiệm hữu hạn dịch vụ Kỹ thuật trắc địa Sài Gòn - Chi nhánh Đắk Lắk).
2. Về án phí và tạm ứng án phí:
- Về án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn.
9
- Về tạm ứng án phí: Nguyên đơn ông Y P thuộc trường hợp là người đồng
bào dân tộc thiểu số cư trú tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
nên được miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trước khi thụ lý vụ án
nên không xem xét giải quyết.
3. Về chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn ông Y P tự nguyện chịu tiền chi phí tố
tụng nên phải chịu 6.500.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản, khấu trừ số tiền đã nộp tạm ứng tại Tòa án theo phiếu thu số 41 ngày
12/02/2025 và bảng kê chi phí tố tụng ngày 26/3/2025.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều
2 Luật THADS thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật
THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
THADS./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND Khu vực 6 - Đắk Lắk;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Văn Công Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm