Bản án số 102/2024/DS-ST ngày 12/08/2024 của TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 102/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 102/2024/DS-ST ngày 12/08/2024 của TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Tân Uyên (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 102/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Lý Thế H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Lý Thế M giao trả cho ông Lý Thế H diện tích đất 178,5 m2 thuộc một phần thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TÂN UYÊN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 102/2024/DS-ST
Ngày: 12-8-2024
V/v tranh chấp chia tài sản
chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Chữ Cần.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Huỳnh Sơn Tây;
Ông Tống Văn Tâm.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Nam, Thư Tòa án nhân dân thành
phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Bà Lê Thị Ngọc Trinh, Kiểm sát viên.
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương t xử thẩm công khai vụ án thụ số 236/2022/TLST-
DS ngày 15 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp chia tài sản chung theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử thẩm số 110/2024/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 7 năm
2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Thế H, sinh năm 1956, thường trú: tổ B, khu phố K,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người đại diện hp pháp của nguyên đơn: Nguyễn Thị H1, sinh năm
1960, thường trú: số A, Huỳnh Văn N, tổ B, khu D, phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, địa chỉ: tổ B, khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương,
là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 17/11/2022), có mặt;
- Bị đơn: Ông Thế M, sinh năm 1954, thường trú: tB, khu phố K,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn
và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trình bày:
2
Cha mẹ ông Lý Thế H là cụThế T (sinh năm 1926, chết năm 1967)
cụ Vương Thị K (sinh năm 1928, chết năm 1999). Cụ T, cụ K 03 người con
gồm:
- Lý Thị Huế A, sinh năm 1952, chết năm 2023 (không có chồng con)
- Ông Lý Thế M, sinh năm 1954
- Ông Lý Thế H, sinh năm 1956
Cụ T, cụ K không có con riêng, con nuôi, con ngoài giá thú.
Khi còn sống cụ T, cK quản lý sử dụng diện tích đất 536 m
2
, đo đạc thực
tế 285,6 m
2
thuộc thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 toạ lạc tại phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương. Sau khi cụ K chết năm 1999, ông M, bà H2 Anh tự chia
nhau sử dụng thửa đất 65 nêu trên. Huế A sử dụng một phần đất được
UBND phường T xây dựng nhà tình thương trên đất diện tích 29,5 m
2
, ông
Thế M xây dựng 01 căn nhà cấp 04 diện tích 62 m
2
,
phần đất còn lại để trống.
Năm 2004, ông M đi đăng kê khai được UBND huyện (nay thành phố)
Tân Uyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa AB 985571, số vào sổ
cấp GCN H00312 ngày 06/10/2005. Đây tài sản chung của cụ T, cụ K để lại
cho ông H, ông M, H2 Anh sử dụng, các bên không văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản chung.
Ông Lý Thế H khởi kiện yêu cầu:
- Buộc ông Thế M giao trả cho ông Thế H diện tích đất 178,5 m
2
thuộc một phần thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại phường T, thành phố T,
tỉnh Bình Dương.
Trong quá trình tố tụng tại phiên tòa bđơn ông Thế M thống nhất
trình bày:
Ông Thế M sống trên thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 tại phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương ng cha mẹ từ khi sinh ra cho đến nay. Nguồn gốc đất
của ông bà ngoại là cụ Vương Văn N1 (đã chết) và bà Lý Thị N2 (đã chết) để lại
cho cha mẹ ông M cụ Thế T mẹ cụ Vương Thị K ở; sau khi cha mẹ
ông M chết thì để lại cho ông M. Khi Nhà nước đợt cho người dân làm giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đại tthì ông M đi đăng được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Cha mẹ ông M có 03 người con gồm ông M, ông
Lý Thế H và bà Lý Thị Huế A. Bà Thị Huế A có nhà tình thương sát căn nhà
của ông M trên thửa đất 65; còn ông Thế H sống cùng ông nội cụ
Ngọc L cụ Vương Thị B tkhoảng năm 1977-1978 để gìn giữ phần đất bên
gia đình nội.
Việc ông H yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất trên thì ông M không
đồng ý, do thửa đất trên ông M đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa:
3
- Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, do Thị Huế A đã chết,
không chồng con, yêu cầu Tòa án chia tài sản chung diện tích đất đo đạc
thực tế 285,6 m
2
thuộc thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 toạ lạc tại phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương cho ông Thế H, Thế M theo quy định của pháp
luật.
Bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến, không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật thì Thẩm phán, Hội đồng
xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bluật Tố tụng dân sự. Vthời hạn xét
xử vụ án thì việc a án đưa vụ án ra xét xử là quá thời hạn xét xử vụ án theo quy
định. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng các đương sự
đã thực hiện đúng quy định. Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, nguyên đơn
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định khởi kiện yêu cầu chia tài sản
chung đề nghị Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp giữa nguyên đơn và
bị đơn “tranh chấp chia tài sản chung” áp dụng pháp luật về chia tài sản
chung để giải quyết tranh chấp.
Về nội dung: Nguyên đơn tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung nhưng không
cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nh đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Vquan hệ pháp luật: Theo các văn bản tố tụng, Tòa án xác định quan
hệ tranh chấp “Tranh chấp chia thừa kế tài sản”. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện,
quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa nguyên đơn xác định khởi kiện yêu cầu
tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 65 tờ bản đồ số
22 ti phường T, thành phố T. Do đó Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ tranh
chấp là “Tranh chấp chia tài sản chung”. Căn cứ vào các Điều 26, 35 và 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
[1.2] Thị H3 Anh chết năm 2023, không chồng con nên Hội đồng
xét xử không đưa bà H3 Anh vào tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
[2] Về nội dung:
[2.1] Nguyên đơn, bị đơn đều thống nhất thừa nhận vquan hệ nhân thân
như sau: cụ Lý Thế T (sinh năm 1926, chết năm 1967) và cụ Vương Thị K (sinh
năm 1928, chết năm 1999). Cụ T, cụ K 03 người con, gồm: Bà Lý Thị Huế A,
sinh năm 1952, chết năm 2023 (không chồng con); ông Thế M, sinh năm
4
1954; ông Thế H, sinh năm 1956. Ngoài những người con chung trên, cT và
cụ K không còn con riêng, con nuôi nào khác.
[2.2] Theo Đơn đăng ký quyền sử dụng đất đề ngày 02/02/2005, người
khai là ông Thế M khai nhận thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 toạ lạc tại phường
T, thành phố T, tỉnh nh Dương nguồn gốc của ông bà để lại năm 1981. C
T, cụ K khi chết không đlại di chúc diện tích đất nêu trên chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cụ qua các thời kỳ. Nguyên đơn, bị đơn
đều xác định thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 là do ông Lý Thế M quản lý sử dụng,
trên đất có căn nhà tình thương của Thị Huế A và căn nhà cấp 04 của ông
Lý Thế M. Đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo khoản 1 Điều 92 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2.3] Theo kết quả xác minh tại UBND phường T và hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì ông Thế M người được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22; tra cứu sổ mục
không tìm thấy thông tin về người kê khai đối với thửa đất 65.
[2.4] Nguyên đơn Lý Thế H thừa nhận không sinh sống trên thửa đất tranh
chấp từ năm 1989 mà sống trên thửa đất 67 tờ bản đồ số 22. Ngoài việc xác định
giữa nguyên đơn và bị đơn là anh em cùng là con của cụ Lý Thế T và cụ Vương
Thị K và việc cụ T, cụ K từng sinh sống trên thửa đất số 65, tờ bản đồ 22, tọa lạc
tại phường T thì nguyên đơn không có tài liệu, chứng cứ o khác để chứng minh
thửa đất số 65, tờ bản đồ 22 tài sản của vợ chồng cụ T cụ K để lại, cũng
không có chứng cứ thể hiện về việc thỏa thuận về việc chia tài sản chung đối với
thửa 65 hoặc thỏa thuận cử ông Lý Thế M người đại diện cho bà Huế A, ông H
để đi đăng ký kê khai đối với thửa đất 65 nêu trên.
[2.5] Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thừa nhận trên
thửa đất nêu trên hiện không còn nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc các cây lâu năm
do cụ T, cK xây dựng và trồng. Như vậy, cụ T, cụ K chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, không có một trong những giấy tquy định tại các khoản
1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, không có tài sản là công trình kiến trúc
hay cây trồng gì trên đất nên quyền sử dụng đất tranh chấp không phải di sản của
cụ T, cụ K.
[3] Như phân tích tại các mục [2.3], [2.4], [2.5], Hội đồng xét xử xét thấy
không có căn cứ xác định thửa đất số 65 tờ bản đồ số 22 tại phường T, thành phố
T, tỉnh Bình Dương tài sản chung của ông Lý Thế H, ông Thế M do cụ
Thế T, cụ Vương Thị K chết để lại nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông Thế M vviệc “tranh chấp chia tài sản chung” đối
với bị đơn ông Lý Thế M.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[5] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá: Nguyên đơn
phải chịu theo quy định tại Điều 157 và 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về án phí dân sự thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Thế H không được chấp nhận phải chịu án phí. Tuy nhiên, ông Lý Thế H người
5
cao tuổi và đơn xin miễn án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39; điểm
c khoản 1 Điều 217; các điều 92, 147, 157, 165, 228, 229, 266, 271 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 102, Điều 105, Điều 115, Điều 180, Điều 183, Điều 185, Điều
221 và Điều 236 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Các Điều 50, Điều 105 Luật Đất đai năm 2003; các Điều 95, Điều 98,
Điều 99, Điều 100, Điều 101, Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013;
- Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ
án dân sự, hôn nhân và gia đình;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thế H với
bị đơn ông Lý Thế M về việc “Tranh chấp chia tài sản chung” đối với thửa đất số
65, tờ bản đồ số 22 toạ lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn ông Thế H phải
chịu 9.466.000 đồng (đã thực hiện xong).
3. Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Lý Thế H được miễn nộp tiền
án phí.
Các đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố Tân Uyên;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Chữ Cần
6
Tải về
Bản án số 102/2024/DS-ST Bản án số 102/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 102/2024/DS-ST Bản án số 102/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất