Bản án số 96/2025/HC-PT ngày 23/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 96/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 96/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 96/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 96/2025/HC-PT ngày 23/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 96/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Nguyễn Văn T là ông Vũ Hải N. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 38/2024/HC-ST ngày 13/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 96/2025/HC-PT
Ngày: 23/01/2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
về quản lý đất đai trong trường hợp thu
hồi, bồi thường, hỗ trợ”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Trần Đức Kiên
ông Nguyễn Tấn Long
ông Phùng Anh Dũng
- Thư ký phiên tòa: bà Đinh Thị Trang, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia
phiên tòa: bà Trần Thị Thắng, Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
439/2024/TLPT-HC ngày 18 tháng 11 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành
chính về quản lý đất đai trong trường hợp thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 38/2024/HC-ST ngày 13 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 298/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1962;
Địa chỉ: A đường số I, tổ B, Khu dân cư T, Ấp D, B, B, TP ..
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: ông Vũ Hải N, sinh
năm: 1979;
Nơi cư trú: 326/60/12 L, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (theo
Hợp đồng ủy quyền số 001865 ngày 05/9/2023 tại Văn phòng C1; Giấy ủy quyền
số 000812 ngày 01/7/2024 tại Văn phòng C2.); vắng mặt và có đơn xin xét xử
vắng mặt.
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: ông Nguyễn
Trọng N1.
Nơi cư trú: tổ A V, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N
Địa chỉ: D L, phường T, TP ., tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: ông Lưu Thành N2, chức
vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N (Giấy ủy quyền số 5710/UBND-
TNMT ngày 18/7/2023; Giấy ủy quyền số 6305/UBND-TNMT ngày 07/8/2024);
vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
1. Bà Trương Thị Yến T1, chức vụ: Chuyên viên Phòng tài nguyên và Môi
trường thành phố N; có mặt.
2. Ông Nguyễn Duy T2, chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ
đất thành phố N; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Khánh H, Nhân viên Trung Tâm phát triển quỹ đất thành
phố N; có mặt.
4. Ông Vũ Văn H1, Giám đốc Trung Tâm phát triển quỹ đất thành phố N;
vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị H2, Viên chức Trung Tâm phát triển quỹ đất thành phố
N; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị H3, chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường V; vắng mặt.
2. Công ty Cổ phần V, địa chỉ: tổ A, Khu V, khóm Đ, phường V, TP ., tỉnh
Khánh Hòa; vắng mặt.
3. Bà Bùi Thị D, sinh năm: 1961, địa chỉ: A đường số I, tổ B, Khu dân cư
T, Ấp D, B, B, TP .; vắng mặt.
* Người kháng cáo: người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông
Nguyễn Văn T là ông Vũ Hải N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện đề ngày 27/7/2022, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
12/4/2024 và quá trình tố tụng, người khởi kiện là ông Nguyễn Văn T và đại diện
theo ủy quyền của ông T trình bày:
3
Ông Nguyễn Văn T là người đứng tên trên hồ sơ kê khai và các Quyết định
liên quan đến việc thu hồi, đền bù, hỗ trợ đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05
thuộc Mảnh trích đo địa chính số 88-2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày
01/8/2018 và được Sở T4 xác nhận ngày 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc
ranh giới số 175-2016 được Sở T4 xác nhận ngày 13/10/2016, tọa lạc tại: Đường
Đ, B, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Thửa đất đang bị ảnh hưởng bởi
Dự án Champarama Resort & S phường V, thành phố N do Công ty Cổ phần V
làm chủ đầu tư.
Cuối năm 2011, Ủy ban nhân dân tỉnh K có quyết định chọn Công ty Cổ
phần D2 (Focus Travel N) là nhà đầu tư. Thực ra, Công ty Cổ phần D2 là của ông
Nguyễn Đức C (Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đ1 (RIT) trước đây), được
thành lập ngày 16/12/2011. Sau đó, dự án R đổi tên thành C3.
Ngày 16/4/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh K cấp giấy chứng nhận đầu tư mới
cho dự án với tên gọi Champarama R & S. Ngày 12/12/2015, Công ty Cổ phần
D2 đổi tên thành Công ty Cổ phần K vẫn do ông Nguyễn Đức C làm Chủ tịch
HĐQT.
Ngày 03/6/2019, phòng Đăng ký Kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh K cấp Chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4201401023 cho chủ đầu tư dự án
là Công ty Cổ phần V1 (Sau khi đã đổi tên từ Công ty cổ phần D2).
Ngày 12/3/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh K có quyết định chủ trương đầu tư
số 506 QĐ/UBND, chấp thuận nhà đầu tư dự án là Công ty Cổ phần V1 Mục tiêu
dự án là xây dựng khu nghỉ dưỡng với các chức năng chính: Nghỉ dưỡng, dịch vụ
thể thao, spa, nhà hàng, hội nghị.
Căn cứ quy định của pháp luật, với diện tích đất chưa có quyết định thu hồi,
năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh K cho phép cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất để người dân ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, do có một số vướng mắc nên ngày
06/8/2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành Công văn số 5153/UBND
giải quyết khiếu nại của người dân, phân tích cơ sở pháp lý và yêu cầu cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho dân.
Công văn nêu rõ: “Đối với khu A và khu B, UBND tỉnh K đã cấp Giấy
chứng nhận đầu tư cho Công ty Cổ phần D2 đầu tư tuy nhiên đến nay vẫn chưa
có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất đối với khu vực này. Do đó, căn cứ quy
định tại khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai 2013 thì dự án C & Spa (đối với khu A và
khu B) không thuộc trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng”.
Do vậy, các thửa đất thuộc khu A và khu B “vẫn tiến hành kê khai đăng ký
và được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Nội dung công văn đề
nghị các hộ dân “liên hệ Ủy ban nhân dân thành phố N để được xem xét cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định Luật Đất đai 2013”.
Năm 2016, nhiều người dân tại đây đã được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang sử dụng trong dự án. Chẳng hạn như hộ ông Lê Vi H4 – bà Mai
Lê Ngọc H5 cấp ngày 04/3/2016, hộ bà Huỳnh Thị Kim T3 cấp ngày 12/5/2016;
4
hộ ông Phan R1 – bà Trần Thị L cấp ngày 30/5/2016; hộ ông Lê Văn N3 – bà Đỗ
Cao Thị Diễm A cấp ngày 01/7/2016; hộ bà Nguyễn Thị Thúy H6 cấp ngày
21/7/2016. Như vậy, rõ ràng rằng năm 2016, Khu B vẫn chưa có kế hoạch sử dụng
đất để thực hiện dự án C & Spa.
Ngày 27/10/2016, Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Thông báo số
826 về thu hồi đất khu B Bãi Tiên để thực hiện dự án C & Spa. Như vậy Thông
báo này không phù hợp với các văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành trước
đó. Mặt khác, Thông báo số 826/TB-UBND không đúng theo biểu mẫu số 07 kèm
Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ T5 như không có kế
hoạch điều tra khảo sát, không có kế hoạch thu hồi đất, không ghi tên người có
đất bị thu hồi, dự kiến kế hoạch di chuyển, bố trí tái định cư, thông báo không gửi
cho từng người có đất bị thu hồi. Thông báo thu hồi đất này Ủy ban nhân dân
thành phố N ban hành không tuân thủ theo trình tự, thủ tục của Luật Đất đai, đồng
thời đã vi phạm nội dung Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT và Điều 69 Luật Đất
đai năm 2013.
Đến năm 2022, Ủy ban nhân dân thành phố N ra các quyết định thu hồi đất
của dân, xác định “thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng theo Điều 62 Luật Đất đai năm 2013”. Cụ thể, Ủy ban nhân dân thành
phố N ban hành Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 về việc thu hồi
đất đối hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng để thực hiện dự án C & S, phường V,
thành phố N... Quyết định này đã ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình Nguyễn
Văn T vì được ban hành không đúng với quy định của pháp luật.
Như đã nêu trên, dự án C & Spa V của Công ty Cổ phần D2 là dự án mới
và công ty mới nên đáng lẽ ra phải thực hiện cấp phép theo đúng quy định của
pháp luật. Bởi lẽ, trước đó, Bộ K1 và Đầu tư đã ban hành Quyết định số 581/QĐ-
BKH ngày 24/10/2006 chấm dứt hoạt động của Dự án Rusalka và thu hồi giấy
phép đầu tư (đồng thời là giấy đăng ký kinh doanh) đã cấp năm 2000 cho Công
ty Đ1 (Công ty R2). Do đó, dự án đầu tư đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4
Điều 65 Luật đầu tư năm 2005. Vậy nên, khi công ty thực hiện dự án mới phải
tiến hành các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật, cụ thể thực hiện thủ tục
đăng ký đầu tư khi có dự án đầu tư hoặc thẩm tra dự án đầu tư để được cấp giấy
chứng nhận đầu tư quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 48 Luật đầu tư năm 2005.
Tuy nhiên, đây là dự án có vốn đầu tư 1.200 tỷ đồng nhưng không thông qua thẩm
tra dự án với nội dung quy định tại Điều 47 và điểm a khoản 2 Điều 48 Luật đầu
tư năm 2005. Cụ thể, giấy phép đầu tư được cấp ngày 16/4/2013 nhưng đến ngày
19/3/2014 Ủy ban nhân dân tỉnh K mới ra Quyết định số 7639/QĐ-UBND về phê
duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ
đầu (2011-2015) của phường V, thành phố N.
Ngoài ra, các quyết định thu hồi đất căn cứ vào Thông báo 826/TB-UBND
ngày 27/10/2016, nhưng Thông báo này lại căn cứ vào vào Quyết định số 111/QĐ-
UBND ngày 13/01/2014 của UBND tỉnh K và Quyết định số 833/QĐ-TTg ngày
05/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên đến ngày 28/10/2016 UBND tỉnh
K lại ban hành Quyết định số 3268/QĐ-UBND để thay thế Quyết định 111/QĐ-
5
UBND ngày 13/01/2014 của UBND tỉnh K về việc điều chỉnh Quyết định số
833/QĐ-TTg ngày 05/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, Quyết định
111/QĐ-UBND ngày 13/01/2014 của UBND tỉnh K về việc điều chỉnh Quyết
định số 833/QĐ-TTg ngày 05/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã hết hiệu lực
pháp lý nên thông báo 826/TB-UBND cũng đồng thời không có giá trị từ ngày
28/10/2016. Mặt khác, Quyết định 111/QĐ-UBND ngày 13/01/2014 được ban
hành để “Điều chỉnh quyết định số 833/QĐ-TTg ngày 05/07/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc cho Công ty Đ1 (Công ty 100% vốn nước ngoài) thuê đất để
đầu tư xây dựng khu nghỉ mát R tại phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa”.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh một văn bản hành chính thuộc thẩm quyền của chủ thể
nào thì chủ thể đó có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh, thay thế hoặc hủy bỏ, hoặc
trong trường hợp được giao quyền theo quy định của pháp luật. Xét trong trường
hợp này Ủy ban nhân dân tỉnh K không có thẩm quyền điều chỉnh Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ ban hành, việc ban hành Quyết định của Ủy ban nhân dân
tỉnh K là vượt thẩm quyền. Vì vậy, Quyết định số 111/QĐ-UBND đã ban hành
sai quy định pháp luật và không có giá trị pháp lý. Ngoài ra, Quyết định số
833/QĐ-TTg ngày 05/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho Công ty Đ1
“Rus-Invest-Tur” (Công ty 100% vốn nước ngoài) thuê đất để đầu tư xây dựng
Khu N tại phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa liệu còn có hiệu lực pháp lý
hay không. Bởi ngày 24/10/2006, Bộ K1 và Đầu tư đã ra Quyết định số 581/QĐ-
BKH về việc chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư Khu N tại phường V, thành
phố N, tỉnh Khánh Hòa và thu hồi Giấy phép đầu tư của Công ty Đ1 “Rus-Invest-
Tur”.
Quan trọng là, các văn bản ban hành liên quan về việc thu hồi đất của các
cơ quan có thẩm quyền đều căn cứ vào Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày
10/12/2014 để thông báo/ban hành các văn bản/quyết định về việc thu hồi đất để
thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N. Tuy nhiên, Nghị quyết số 13/NQ-
HĐND ngày 10/12/2014 lại căn cứ cũng như xem xét Tờ trình số 7156/TTr-
UBND ngày 11/11/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh K và Báo cáo thẩm tra số
62/BC-HĐND ngày 02/12/2014 của Ban kinh tế và ngân sách Hội đồng nhân dân
tỉnh để quyết định về việc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng trong năm 2015 trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Rõ ràng, trong các
văn bản làm căn cứ để ban hành Nghị quyết số 13/NQ-HĐND không có dự án C
& Spa. Vậy Nghị quyết số 13/NQ-HĐND căn cứ vào đâu và từ cơ sở nào để quyết
định thu hồi đất để thực hiện dự án C & Spa. Do đó, điều này dẫn đến Nghị quyết
số 13/NQ-HĐND không có hiệu lực pháp luật theo Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định số 24/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và
biện pháp thi hành luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Minh chứng rõ
ràng cho vấn đề này, nội dung Công văn số 214/LTLS của Trung tâm lưu trữ lịch
sử - Sở Nội vụ tỉnh K về việc phúc đáp phiếu yêu cầu sao tài liệu ngày 04/10/2023,
qua tra tìm hồ sơ, tài liệu đang lưu trữ:
+ Trung tâm không tìm thấy sổ lưu trữ văn bản trang có Nghị quyết số
13/NQ-HĐND ngày 10/12/2014, Công văn 329/CQHĐĐ-PGĐCTĐ ngày
28/12/2018 của Sở T4;
6
+ Đối với Tờ trình số 7156/TTr-UBND ngày 11/11/2014 của Ủy ban nhân
dân tỉnh K và Báo cáo thẩm tra số 62/BC-HĐND ngày 02/12/2014 của Ban kinh
tế và ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh, trung tâm có lưu trữ, tuy nhiên, qua rà
soát không có thông tin liên quan đến dự án Champarama Resort & S phường V,
thành phố N.
Như vậy, Nghị quyết số 13/NQ-HĐND có đưa dự án C & S phường V,
thành phố N vào là một trong những dự án thuộc diện được tiến hành thu hồi đất
là không có căn cứ, vì các căn cứ kèm theo để làm mục xem xét ban hành nghị
quyết thì không có dự án này. Vậy nên, việc ban hành nghị quyết và các văn bản
liên quan không có giá trị pháp lý.
Bên cạnh đó, quyết định thu hồi đất không phù hợp với tinh thần nội dung
Điều 99 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Nghị định 01/2017/NĐ-CP. Nhà nước thực
hiện thu hồi đất trong trường hợp dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, có
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được phê duyệt. Tuy
nhiên, HĐND tỉnh K, UBND thành phố N, mặc dù biết rằng khu B Dự án
Champarama &Spa V chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng vẫn đưa
khu B vào diện Nhà nước thu hồi đất bằng cách thêm khu B vào kế hoạch sử dụng
đất qua các năm của UBND thành phố N nhằm hợp thức hóa việc nhà nước thu
hồi đất, điều này đã vi phạm nghiêm trọng Luật Đất đai năm 2013, đồng thời vi
phạm khoản 3 Điều 152 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số
80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 sửa đổi bổ sung số 63/2020/QH14 ngày 18/6/2020
là văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp,
chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt không được quy
định hiệu lực trở về trước, bởi lẽ tại thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực
thì khu B vẫn chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Do đó, dự án C & Spa V
bị buộc phải dừng lại và nếu muốn tiếp tục thì phải áp dụng Điều 73 Luật Đất đai
năm 2013. Một điều minh chứng rõ ràng rằng, sau khi Nghị quyết số 13/NQ-
HĐND ngày 10/12/2014, Hội đồng nhân dân tỉnh K thông qua danh mục nhà nước
thu hồi đối với dự án C & Spa thì UBND tỉnh K ra Văn bản số 5153/UBND ngày
06/8/2015 vẫn cho phép người dân xây dựng nhà ở và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định pháp luật. Kết hợp với Thông báo số 351/TB – UBND
ngày 22/8/2013 thì UBND tỉnh K chỉ cho phép Dự án Champarama Resort & Spa
thực hiện tại khu C, còn khu A và B vẫn cho phép người dân sử dụng.
Ngoài ra, đối với trường hợp đất do người dân khai hoang và sử dụng ổn
định, không có tranh chấp thì nhà nước phải thực hiện chính sách cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho người dân theo quy định tại Điều 2 Luật Đất đai năm
1993 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại vẫn
có nhiều hộ dân chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc Ủy ban nhân dân thành phố N áp dụng đơn giá Nhà nước để làm căn
cứ tính toán, lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông T với tổng số tiền chỉ
2.057.135.679 đồng theo các quyết định: Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày
30/6/2022 của UBND thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ; Quyết định số
133/QĐ-UBND ngày 30/1/2023; Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023
7
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là
không đúng quy định của pháp luật. Do đây không thuộc trường hợp thu hồi đất
để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng, nên Nhà nước không
thể tính theo đơn giá, bảng giá Nhà nước để làm căn cứ bồi thường, hỗ trợ. Ngoài
ra, theo dữ liệu đo vẽ, diện tích đất, tài sản trên đất có sai lệch so với thực tế tại
thời điểm ra quyết định nhưng vẫn ra quyết định thu hồi đất và quyết định đền bù,
hỗ trợ, tái định cư là vi phạm pháp luật và gây thiệt hại kinh tế đối với gia đình
ông Nguyễn Văn T. Hơn nữa, Dự án C &Spa V là một dự án kinh doanh thương
mại, không thuộc 1 trong 5 dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà
phải thu hồi đất theo khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Vì vậy, việc bồi
thường, tái định cư phải được sự thống nhất giữa chủ đầu tư và các chủ hộ có đất
tại dự án. Việc nhà nước tiến hành thu hồi và bồi thường giá rất thấp khi áp dụng
giá nhà nước là không đúng với quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền
lợi và tài sản, cuộc sống gia đình ông Nguyễn Văn T. Vì vậy, gia đình ông Nguyễn
Văn T không đồng ý với các quyết định thu hồi đất và bồi thường của Ủy ban
nhân dân thành phố N vì không đúng với quy định của pháp luật. Ông Nguyễn
Văn T cũng như nhiều hộ dân khác đã tiến hành khiếu nại đến các cơ quan/cá
nhân có thẩm quyền để giải quyết. Tại Biên bản đối thoại ngày 22/3/2023 và Quyết
định số 10764/QĐ-UBND ngày 15/5/2023 về việc giải quyết khiêu nại lần đầu
đều cho rằng việc thu hồi đất nhằm mục đích vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tuy
nhiên, điều này đi ngược lại với những gì mà UBND tỉnh K đã khẳng định tại
Công văn số 5153/UBND ngày 06/8/2015.
Ngày 27/6/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N ra Quyết định số
14623/QĐ-UBND ngày 27/6/2023 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông
Nguyễn Văn T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05) tại Tổ A B, Đường Đ, phường V,
thành phố N để thực hiện dự án C & Spa. Việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố N thay mặt doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư để ra quyết định cưỡng chế
thu hồi đất của gia đình ông Nguyễn Văn T cũng như những hộ dân ở đây là có
dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, Champarama R & Spa là dự án
khu du lịch, khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng và dịch vụ... có vốn đầu tư của
doanh nghiệp nước ngoài nhằm mục đích thu lợi cho doanh nghiệp, không mang
lại lợi ích cho gia đình ông Nguyễn Văn T và cộng đồng dân cư. Do đó, trường
hợp này, Ủy ban nhân dân thành phố N không thể dùng quyền lực của Nhà nước
để can thiệp mà chính doanh nghiệp đầu tư phải thương lượng với gia đình ông
Nguyễn Văn T về các mức đền bù, hỗ trợ tái định cư để thực hiện dự án.
Những Quyết định hành chính trên đã ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân nên ông T khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu hủy các quyết
định:
- Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của UBND thành phố N
về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng để thực hiện dự
án C & S, phường V, thành phố N.
8
- Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của UBND thành phố N
về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án C & S, phường V, TP ..
- Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 của UBND thành phố N
về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi nhà nước
thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N.
- Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 của UBND thành phố N
về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi nhà nước
thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N.
- Quyết định số 14623/QĐ-UBND ngày 26/7/2023 của UBND thành phố
N về việc Cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T (Thửa đất số 29,
tờ bản đồ số 5) tại Tổ A B, Đường Đ, phường V, thành phố N để thực hiện dự án
C & S, phường V, thành phố N.
* Tại Văn bản số 5711/UBND-TNMT ngày 18/7/2023; Văn bản số
3816/UBNT-TNMT ngày 20/5/2024 của Ủy ban nhân dân thành phố N; Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố N và quá trình tố tụng, người bị kiện là UBND và
Chủ tịch UBND thành phố N, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày:
1. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của
UBND thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T để thực
hiện dự án Champarama Resort & Spa, phường Vĩnh Hòa, thành phố Nha Trang:
Dự án Champarama Resort & Spa được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận
đầu tư số 37121000389 ngày 16/4/2013 chứng nhận Công ty Cổ phần D2 thực
hiện dự án đầu tư C4 tại khu đất liền ven biển B, phường V, N với diện tích khoảng
46ha; mục tiêu: đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp (đạt tiêu chuẩn 5 sao);
vốn đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng; nguồn vốn: 100% vốn trong nước, từ nguồn
vốn tự có của Doanh nghiệp và vốn huy động khác; thời hạn hoạt động: 50 năm
kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 và hướng dẫn của Bộ T5 tại khoản 2 Mục X Thông tư số
06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 quy định về việc thu hồi đất để thực hiện
các dự án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp quy định tại khoản
2 Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, cụ thể:“Các dự án phát triển kinh tế
trong khu đô thị hiện có gồm dự án xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê theo quy
định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về kinh doanh bất động sản, dự án xây
dựng nhà ở xã hội, dự án xây dựng nhà ở phục vụ tái định cư, dự án xây dựng nhà
ở công vụ, dự án xây dựng trung tâm thương mại, trung tâm H8; dự án xây dựng
khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn từ hạng 3 sao trở lên.”
Như vậy, dự án C & S thuộc nhóm đối tượng Nhà nước thu hồi đất theo
quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về xử lý các trường hợp đang thực hiện thủ tục thu hồi
9
đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, cụ thể:“1. Trường hợp đã có văn bản chấp
thuận chủ trương đầu tư, giới thiệu địa điểm hoặc thông báo thu hồi đất gửi đến
từng người có đất thu hồi hoặc văn bản cho phép chủ đầu tư thỏa thuận với người
sử dụng đất thuộc phạm vi dự án từ trước ngày 01 tháng 7năm 2014 nhưng chưa
có quyết định thu hồi đất thì xử lý như sau: a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép
tiếp tục thực hiện dự án và áp dụng hình thức thu hồi đất hoặc chủ đầu tư nhận
chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất
theo quy định của Luật Đất đai, nếu phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm
cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;”
Dự án Champarama Resort & Spa được Ủy ban nhân dân tỉnh K cấp chủ
trương đầu tư trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực. Thực hiện Luật Đất
đai năm 2013 và Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về xử lý các trường hợp đang thực hiện thủ tục thu hồi đất trước
ngày 01/7/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh K đã thống nhất cho phép tiếp tục thực
hiện dự án và áp dụng hình thức thu hồi đất để thực hiện dự án, trình Hội đồng
nhân dân tỉnh Khánh Hòa thông qua tại Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày
10/12/2014.
Sau khi Hội đồng nhân dân tỉnh K thông qua Nghị quyết, Ủy ban nhân dân
thành phố N đã cập nhật phần diện tích thu hồi vào Kế hoạch sử dụng đất từ năm
2015 cho đến nay của thành phố N.
Ngày 06/01/2016, Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư số
5488314111 cho Công ty Cổ phần K để thực hiện dự án C & Spa.
Ngày 24/02/2016, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 465/QĐ-UBND
về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Khu nghỉ dưỡng C, phường
V, thành phố N.
Ngày 27/10/2016, UBND thành phố N đã ban hành Thông báo số 826/TB-
UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N.
Theo quy định tại khoản 60 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ về bổ sung khoản 3, 4 vào Điều 99 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, cụ thể: “3. Đối với dự án đầu tư
thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003
và các văn bản hướng dẫn thi hành nhưng không thuộc trường hợp Nhà nước thu
hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà đã lựa chọn chủ đầu tư theo
quy định của pháp luật về đầu tư trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, phù hợp với
kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổng
hợp vào danh mục dự án cần thu hồi đất để trình Hội đồng nhân dân thông qua
trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất; Trình tự, thủ
tục thu hồi đất đối với trường hợp quy định tại khoản này thực hiện theo quy định
tại Điều 69 của Luật Đất đai.” (Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định về trình
tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia công cộng).
10
Ngày 28/12/2018, T6 có Văn bản số 329/CQHĐĐ-PGĐ,CTĐ gửi Sở T4
hướng dẫn chuyên môn về việc thu hồi đất thực hiện dự án.
Ngày 25/01/2019, Sở T4 có Văn bản số 449/STNMT-CCQLĐĐ báo cáo
giải trình và làm rõ nội dung dự án C & Spa có được tiếp tục thực hiện theo hình
thức Nhà nước thu hồi đất đối với Khu B. Sở T4 kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh
C Ủy ban nhân dân thành phố N, các đơn vị liên quan tiếp tục triển khai công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với phần diện tích còn lại của dự án là phù
hợp quy định. Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh K có Văn bản số 1695/UBND-
XDNĐ ngày 22/2/2019 và Văn bản số 1064/UBND-XDNĐ ngày 30/01/2019
đồng ý với nội dung đề nghị của Sở T4; yêu cầu UBND thành phố N, chủ đầu tư
tiếp tục thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với phần diện tích
còn lại của dự án C & Spa.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố N ban
hành Thông báo số 826/TB-UBND ngày 27/10/2016 về việc thu hồi đất để thực
hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là đúng theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện dự án, hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng thửa
đất số 29 tờ bản đồ số 05 thuộc Mảnh trích đo địa chính số 88 – 2018 do Công ty
TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018 và được Sở T4 xác nhận 21/9/2018, trên cơ
sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175 – 2016 được Sở T4 xác nhận ngày 13/10/2016
có diện tích 828,7m² do ông Nguyễn Văn T kê khai đã được Ủy ban nhân dân
phường V xác nhận tại Giấy xác nhận số 886/XN-UBND ngày 16/06/2022 nằm
trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, TP ..
Trước khi ban hành các Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng đã tiến hành khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây dựng phương án
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tổ chức niêm yết công khai, lấy ý kiến theo đúng
trình tự quy định pháp luật.
Như vậy, việc Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Quyết định số
1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn
T đang sử dụng để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là đúng theo
trình tự, thẩm quyền. Do đó, ông Nguyễn Văn T yêu cầu hủy Quyết định số
1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố N về việc thu
hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng để thực hiện dự án C & S,
phường V, thành phố N là không có cơ sở.
2. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022
của UBND thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Nguyễn Văn T
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 của UBND thành phố N về việc
bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N và Quyết định số 1227/QĐ-
UBND ngày 20/04/2023 của UBND thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ
sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án
C & S, phường V, thành phố N.
11
Theo Giấy xác nhận số 886/XN-UBND ngày 16/06/2022 của UBND
phường V: “Thửa đất số 29 tờ bản đồ số 05 thuộc Mảnh trích đo địa chính số 88
– 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018 và được Sở T4 xác nhận
21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175-2016 được Sở T4 xác
nhận ngày 13/10/2016, có diện tích 828,7 m²”.
Nguồn gốc: Theo Hồ sơ Sổ dã ngoại năm 1996: Do bà Khổng Thị H7 kê
khai với diện tích 1.719 m2 (thửa đất số 29; tờ bản đồ 5F; loại ruộng đất: T).
Theo giấy tờ hộ dân cung cấp: Năm 1986, Ủy ban nhân dân phường V,
thành phố N ban hành Quyết định số 33/QĐ-UB về việc thành lập Ban chỉ đạo
kinh tế mới B.
Ngày 21/9/1987, ông Nguyễn Đức Q có Giấy giới thiệu của Ủy ban nhân
dân phường V, TP . đến B để nhận đất làm nhà đi cơ sở II.
Ngày 15/02/1989, ông Nguyễn Đức Q và bà Khổng Thị H7 có làm đơn xin
sửa chữa nhà ở và mở rộng và được Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N xác
nhận ngày 21/02/1989.
Đồng thời ngày 15/02/1989, ông Nguyễn Đức Q và bà Khổng Thị H7 có
làm tờ khai cam đoan và được UBND phường V xác nhận ngày 21/02/1989.
Năm 2001, bà Khổng Thị H7 có kê khai hồ sơ kỹ thuật đền bù giải tỏa dự
án Khu nghỉ mát cao cấp Rusalka thửa đất 13 với diện tích 1.656,9 m2.
Ngày 05/8/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành Bản án số
20/2008/HNGĐ-PT về việc ly hôn giữa ông Nguyễn Đức Q và bà Khổng Thị H7.
Trong đó có nội dung Quyết định: Giao 01 phần diện tích nhà, đất tại A B, Đường
Đ, V, N đã có quy hoạch giải tỏa cho bà Khổng Thị H7 tạm quản lí sử dụng có
diện tích đất là: 834,8 m² (kèm sơ đồ bản vẽ theo bản án).
Ngày 31/8/2015, bà Khổng Thị H7 làm Văn bản xác nhận và cam kết
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T với diện tích 773 m2 và được Văn phòng
C5 xác nhận.
Ngày 20/01/2016, ông Nguyễn Văn T trích đo địa chính thửa đất với diện
tích 838,0 m2 và được Văn phòng Đ2 xác nhận.
Diện tích đo đạc thực tế sử dụng của ông Nguyễn Văn T là 828,7 m² trong
đó:
- Phần diện tích thuộc taluy đường Phạm Văn Đ hướng đi M Gà đã được
Nhà nước thu hồi đất và bồi thường cho bà Khổng Thị H7: 0,4 m2)
- Phần diện tích còn lại thuộc phạm vi thu hồi dự án C & Spa: 823,3 m²).
Diện tích đo đạc thực tế chênh lệch tăng 55,7 m2 so với giấy tờ là do sai số đo
đạc. Toàn bộ khuôn viên ranh giới thửa đất đã được xác định, không có tranh chấp
với những người sử dụng đất liền kề. Ông Nguyễn Văn T tiếp tục sử dụng đất từ
đó cho đến nay ổn định, không lấn, chiếm và không có tranh chấp.
- Hộ gia đình không đủ điều kiện được giao đất nông nghiệp theo quy định.
Tuy nhiên, hộ gia đình có trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại vị trí thửa đất bị giải
12
tỏa và có nguồn thu nhập ổn định từ việc sử dụng sản xuất nông nghiệp, không
thuộc đối tượng hưởng lương thường xuyên, đối tượng đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức
lao động, thôi việc hưởng trợ cấp xã hội. Số nhân khẩu trực tiếp sản xuất nông
nghiệp: 02 khẩu (ông Nguyễn Văn T, bà Bùi Thị D).
- Hộ gia đình ăn ở, sinh hoạt ổn định tại vị trí giải tỏa (từ thời điểm
22/10/2015 đến năm 2019). Sau đó, hộ gia đình chuyển vào thành phố Hồ Chí
Minh làm ăn và không có mặt tại địa phương cho đến nay. Thời điểm sử dụng đất:
Từ năm 2015 cho đến nay.
- Thời điểm xây dựng nhà, công trình và vật kiến trúc khác trên đất: Do bà
Khổng Thị H7 xây dựng năm 2008 – không có giấy phép xây dựng.
- Loại đất: đất trồng cây lâu năm. Tổng diện tích đất: 828,7m2.
- Tổng diện tích đất nông nghiệp đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại
địa phương 828,7m2 - 74,8m2 (Phần diện tích nhà) - 22,0m2 (Phần diện tích mái
che) = 731,9m2.
Theo nội dung xác minh của UBND phường V, Hội đồng bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư đã họp xét thông qua Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư của hộ ông Nguyễn Văn T ngày 20/12/2021 và ngày 07/3/2022 và được niêm
yết Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Thông báo số 85/TB-HĐBT ngày
27/04/2022. Theo đó, UBND thành phố N phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ
trợ tại Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022. Phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cụ thể như sau:
+ Về đất: Trường hợp hộ ông Nguyễn Văn T sử dụng đất sau ngày
01/07/2014, loại đất: Đất trồng cây lâu năm, không có giấy tờ về quyền sử dụng
đất theo quy định. Do vậy không được bồi thường về đất theo khoản 4 Điều 82
Luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ điểm a khoản 8 Điều 22 Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày
26/8/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành quy định chi tiết một số nội dung
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh
Hòa được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND
ngày 09/3/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh K sửa đổi bổ sung một số điều tại quy
định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ban hành kèm theo Quyết định số
10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh K.
Căn cứ Quyết định số 4837/QĐ-UBND ngày 24/12/2021 của Ủy ban nhân
dân tỉnh K về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất thực hiện dự án Khu Nghỉ dưỡng C, phường V, thành phố N và Công văn
số 846/UBND-XDNĐ ngày 25/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh K về việc chủ
trương áp dụng giá cụ thể tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án đã
phê duyệt giá đất cụ thể năm 2021 thuộc địa bàn thành phố N.
Trường hợp hộ ông Nguyễn Văn T bị thu hồi toàn bộ diện tích thửa đất
828,7m2 trong đó: Phần diện tích đất 0,4m2 thuộc taluy đường Phạm Văn Đồng
13
đi Mũi Kê G đã được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn Đức Q, bà
Khổng Thị H7 (chủ đất trước khi nhận chuyển nhượng);
Phần diện tích 828,3m2: hỗ trợ về đất ở được xác định theo phần diện tích
xây dựng công trình nhà ở với diện tích 74,8 m2 loại đất: đất ở đô thị, thuộc vị trí
1, do đó việc Ủy ban nhân dân thành phố hỗ trợ về đất: 4.500.000 đồng/m2 x 90%
x 74,8 m2= 302.940.000 đồng và hỗ trợ về đất trồng cây lâu năm: 753,8 m2 loại
đất trồng cây lâu năm, thuộc vị trí 1, do đó việc UBND thành phố hỗ trợ về đất:
1.560.000 đồng/m2 x 90% x 753,5 m2= 1.057.914.000 đồng là phù hợp theo quy
định.
+ Về tài sản gắn liền trên đất: Công trình vật kiến trúc xây dựng không có
giấy phép xây dựng. Do vậy, không được bồi thường theo khoản 2 Điều 92 Luật
Đất đai năm 2013, chỉ được hỗ trợ theo điểm 7, khoản 4, Điều 1 Quyết định số
04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K.
+ Về cây trồng: Ủy ban nhân dân thành phố N đã phê duyệt bồi thường, hỗ
trợ bổ sung đơn giá cây trồng của hộ ông Nguyễn Văn T tại Quyết định số
133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 và Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày
20/4/2023.
+ Về chính sách hỗ trợ: Căn cứ theo khoản 1 Điều 22 Quyết định số
10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K, hộ gia đình đủ điều kiện
hỗ trợ ổn định đời sống: Hỗ trợ 50%.
Căn cứ theo mục b, điểm 8, khoản 4, Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-
UBND ngày 09/3/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh K, hộ gia đình đủ điều kiện hỗ
trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm: Hỗ trợ 90%.
+ Về chính sách tái định cư: Trường hợp hộ ông Nguyễn Văn T bị thu hồi
toàn bộ diện tích đất, không được bồi thường về đất, ăn ở sinh hoạt tại vị trí giải
tỏa từ thời điểm 22/10/2015 đến năm 2019 (sau ngày 01/7/2014).
Căn cứ Điều 23, 24 Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của
Ủy ban nhân dân tỉnh K quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và khoản 5 Điều
1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh
K thì trường hợp của hộ ông Nguyễn Văn T không đủ điều kiện để bố trí tái định
cư theo quy định khi nhà nước thu hồi đất.
Từ những nội dung nêu trên, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
của hộ ông Nguyễn Văn T đã được xét duyệt là là có căn cứ pháp luật.
Như vậy, ông Nguyễn Văn T yêu cầu hủy Quyết định số 1052/QĐ-UBND
ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối
với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S,
phường V, thành phố N, Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 của Ủy
ban nhân dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông
Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V,
thành phố N và Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/04/2023 của Ủy ban nhân
14
dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn
T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là
không có cơ sở.
3. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 14623/QĐ-UBND ngày 26/7/2023
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với
hộ ông Nguyễn Văn T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05) tại Tổ A B, Đường Đ,
phường V, thành phố N:
Thực hiện theo Quyết định thu hồi đất số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022;
Quyết định bồi thường số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022, Quyết định bồi
thường bổ sung số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 và Quyết định bồi thường bổ
sung số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố N,
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã phối hợp UBND phường V, Ủy ban
MTTQVN phường V, Tổ trưởng tổ dân phố gửi các Quyết định đến nhà ông
Nguyễn Văn T vào các ngày 14/7/2022, 18/02/2023, 20/4/2023, 25/7/2023; đồng
thời niêm yết công khai các Quyết định nêu trên tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường
V và khu dân cư T Đường Đ, B vào ngày 04/7/2023, 02/02/2023, 21/4/2023. Tiếp
đó, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã phối hợp với Ủy ban nhân dân
phường V mời ông Nguyễn Văn T chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt
bằng vào ngày 05/8/2022, ngày 18/01/2023 và ngày 28/4/2023. Tuy nhiên, hộ gia
đình không tham dự nhận tiền bồi thường.
Ngày 22/12/2022, Ủy ban nhân dân phường V đã phối hợp các Mặt trận
Đoàn thể phường, Trung Tâm Phát triển quỹ đất thành phố, đại diện tổ dân phố,
đại diện hộ dân, đại diện Công ty Cổ phần V đã mời ông Nguyễn Văn T đến để
vận động nhận tiền và bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên, hộ dân không tham dự.
Ngày 29/12/2022, Ủy ban nhân dân phường V đã phối hợp các Mặt trận
Đoàn thể phường, Trung Tâm Phát triển quỹ đất thành phố, đại diện tổ dân phố,
đại diện hộ dân, đại diện Công ty Cổ phần V tiếp tục mời hộ ông Nguyễn Văn T
đến để vận động nhận tiền và bàn giao mặt bằng. Theo đó, ông Nguyễn Văn T
vắng mặt (ông Vũ Hải N đi thay không có giấy ủy quyền). Tổ công tác đã giải
thích các chính sách, quy định của Nhà nước nhưng hộ dân vẫn chưa đồng ý nhận
tiền và bàn giao mặt bằng.
Ngày 10/5/2023, Ủy ban nhân dân phường V đã phối hợp các Mặt trận đoàn
thể phường, Trung Tâm Phát triển quỹ đất thành phố, đại diện tổ dân phố, đại diện
hộ dân, đại diện Công ty Cổ phần V tiến hành mời hộ ông Nguyễn Văn T đến để
vận động nhận tiền và bàn giao mặt bằng. Theo đó, ông Nguyễn Văn T vắng mặt
(ông Vũ Hải N đi thay không có giấy ủy quyền). Tổ công tác đã giải thích các
chính sách, quy định của Nhà nước nhưng hộ dân vẫn chưa đồng ý nhận tiền và
bàn giao mặt bằng.
Ngày 05/01/2023, Ủy ban nhân dân phường V đã có Văn bản số 26/UBND
báo cáo kết quả vận động nhận tiền và bàn giao mặt bằng liên quan đến 20 trường
hợp liên quan dự án Champarama Resort & S, phường V, thành phố N (trong đó
có trường hợp ông Nguyễn Văn T).
15
Thực hiện theo Văn bản số 4996/UBND-TNMT ngày 30/10/2015 của Ủy
ban nhân dân thành phố N về việc xây dựng cụ thể trình tự các bước tổ chức cưỡng
chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013,
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố có Văn bản số 186/TTQĐ ngày
13/02/2023 và Văn bản số 898/TTQĐ ngày 24/5/2023 gửi Phòng T về việc rà soát
và tham mưu UBND thành phố xin chủ trương cưỡng chế thực hiện quyết định
thu hồi đất. Ngày 17/02/2023, Phòng T có Văn bản số 817/TNMT về việc lấy ý
kiến đối với 38 trường hợp xin chủ trương cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa.
Theo đó, Thanh tra thành phố có Văn bản số 112/TTra-KNTC ngày 22/02/2023,
Phòng Kinh tế có Văn bản số 181/KT ngày 23/02/2023, Phòng Quản lý Đô thị có
Văn bản số 514/QLĐT-TTXD ngày 23/02/2023, Phòng Tư pháp có Văn bản số
417/TP ngày 01/3/2023 và Văn bản số 1418/TP ngày 09/6/2023 với nội dung
thống nhất đủ điều kiện trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành
Quyết định cưỡng chế.
Ngày 16/3/2023, UBND thành phố N có Văn bản số 1760/UBND-TNMT
báo cáo UBND tỉnh K về việc chủ trương cưỡng chế thu hồi đất đối với các trường
hợp còn lại thuộc dự án C & S, phường V, thành phố N. Theo đó, UBND tỉnh K
có Văn bản số 2538/UBND-XDNĐ ngày 20/3/2023 đồng ý chủ trương đối với
kiến nghị của UBND thành phố N tại Văn bản số 1760/UBND-TNMT ngày
16/3/2023.
Căn cứ theo điểm d khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày
29/11/2013 của Quốc hội, Chủ tịch UBND thành phố N đã ban hành Quyết định
số 14623/QĐ-UBND ngày 27/6/2023 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ
ông Nguyễn Văn T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05) tại Tổ A B, Đường Đ, phường
V, thành phố N là đúng quy định pháp luật.
Ngày 07/7/2023, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa đã
phối hợp các Mặt trận Đoàn thể phường vận động thuyết phục ông Nguyễn Văn
T chấp hành bàn giao mặt bằng. Theo đó, ông Nguyễn Văn T vắng mặt (ông Vũ
Hải N đi thay không có giấy ủy quyền). Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đã
giải thích các chính sách, quy định của Nhà nước nhưng hộ dân vẫn chưa đồng ý
nhận tiền và bàn giao mặt bằng.
Ngày 13/7/2023, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa đã
phối hợp các Mặt trận Đoàn thể phường tiếp tục vận động thuyết phục ông Nguyễn
Văn T chấp hành bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên, hộ dân không tham dự.
Ngày 25/9/2023, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất dự án C & S đã tổ
chức cưỡng chế thu hồi đất của hộ gia đình và bàn giao mặt bằng cho Trung tâm
Phát triển quỹ đất thành phố phối hợp với Chủ đầu tư (Công ty Cổ phần V) quản
lý.
Như vậy, ông Nguyễn Văn T yêu cầu hủy Quyết định số 14623/QĐ-UBND
ngày 27/6/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu
hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05) tại Tổ A
B, Đường Đ, phường V, TP . là không có cơ sở.
16
* Tại bản tự khai ngày 08/5/2024 và quá trình tố tụng, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân phường V trình bày:
Theo các tài liệu đã cung cấp cho Tòa án, UBND phường V đã thực hiện
đúng và đủ chức trách, nhiệm vụ theo đúng quy định, quá trình niêm yết các hồ
sơ xác định nguồn gốc đất, lấy ý kiến phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
đối với hộ ông Nguyễn Văn T đều có đầy đủ biên bản niêm yết, biên bản kết thúc
niêm yết và được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường V và khu dân cư
theo đúng quy định.
* Tại bản tự khai ngày 20/5/2024 và quá trình tố tụng, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là Công ty Cổ phần V trình bày:
Đối với các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T, Công ty không có ý
kiến, đề nghị Tòa án xử lý theo quy định. Về phía Công ty đã thực hiện đúng quy
định của pháp luật, các văn bản liên quan của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong quá trình triển khai dự án. Tại các buổi họp vận động nhận tiền và bàn giao
mặt bằng, đại diện Ủy ban nhân dân phường V và các cơ quan liên quan đã nhiều
lần vận động hộ dân sớm nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng theo đúng
chính sách của Công ty V, nhưng hộ dân ông Vũ Hải N (Do ông Nguyễn Văn T
ủy quyền) vẫn không đồng ý. Hiện nay, công ty V không còn chính sách hỗ trợ
đối với bất kỳ trường hợp nào. Ngoài ra, theo các tài liệu thể hiện hộ ông Nguyễn
Văn T, thông qua người đại diện ông Vũ Hải N đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng tại các chứng từ ngày 06/10/2023.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Bùi Thị D đã được Tòa án tống
đạt các văn bản tố tụng, tuy nhiên bà D không có văn bản trình bày ý kiến, nhưng
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Với nội dung trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 38/2024/HC-ST ngày
13 tháng 8 năm 2024, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định: căn cứ khoản
1 Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015; Điều 38 Luật Đất đai năm 2003; Điều 69, Điều 71, Điều
82, Điều 83 Luật Đất đai năm 2013; Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ; Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T
về hủy các quyết định:
- Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng để
thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
17
- Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi
nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi
nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 14623/QĐ-UBND ngày 26/7/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn
T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 5 tại Tổ A B, Đường Đ, phường V, TP .) để thực
hiện dự án C & S, phường V, thành phố N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và
thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/8/2024, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông
Nguyễn Văn T là ông Vũ Hải N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sai lầm trong việc áp dụng pháp luật,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát
biểu quan điểm về giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Chủ tọa phiên tòa, thành viên Hội đồng xét
xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp
luật tố tụng hành chính;
- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố
tụng hành chính, bác kháng cáo của ông Vũ Hải N là người đại diện theo ủy quyền
của người khởi kiện ông Nguyễn Văn T, giữ nguyên quyết định của bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Ngày 23/8/2024, đại diện người khởi kiện kháng cáo bản án sơ thẩm,
Đơn kháng cáo của đại diện người khởi kiện là trong thời hạn quy định tại Điều
206 Luật Tố tụng hành chính, do đó, Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm. Tại phiên toà, mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt; đại diện người khởi kiện, đại
diện người bị kiện vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử
căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính tiến hành xét
xử vụ án.
[2]. Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện
ông Nguyễn Văn T là ông Vũ Hải N; Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề sau:
18
[2.1]. Về tố tụng:
Cùng ngày 30/6/2022, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố N ban hành các
quyết định: Quyết định số 1043/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với hộ ông
Nguyễn Văn T đang sử dụng để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N
(Quyết định số 1043); Quyết định số 1052/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ
đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C &
S, phường V, thành phố N (Quyết định số 1052). Quá trình thực hiện việc bồi
thường, hỗ trợ đối với hộ ông T, UBND thành phố N tiếp tục ban hành các quyết
định: Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 về việc bồi thường, hỗ trợ
bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự
án C & S, phường V, thành phố N (Quyết định số 133); Quyết định số 1227/QĐ-
UBND ngày 20/4/2023 về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn
Văn T khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố
N (Quyết định số 1227). Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tổ
chức công tác bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi nhưng hộ ông Nguyễn
Văn T không chịu nhận tiền và bàn giao mặt bằng, nên ngày 26/7/2023 Chủ tịch
UBND thành phố N ban hành Quyết định số 14623/QĐ-UBND về việc cưỡng chế
thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T (Thửa đất số 29, tờ bản đồ số 5) tại Tổ
A B, Đường Đ, phường V, thành phố N để thực hiện dự án C & S, phường V,
thành phố N (Quyết định số 14623). Không đồng ý với nội dung tại các Quyết
định trên, ngày 19/10/2022 ông Nguyễn Văn T khởi kiện yêu cầu hủy các Quyết
định số 1043, 1052, 133, 1227, 14623. Hội đồng xét xử thấy rằng, các Quyết định
mà người khởi kiện khiếu kiện là quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều
3 và khoản 1 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện
trong thời hạn được quy định tại khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116 của
Luật Tố tụng hành chính.
[2.2]. Về nội dung:
[2.1]. Đối với Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T để thực
hiện dự án C & S, phường V, thành phố N:
- Về đối tượng thu hồi: ngày 16/4/2013, UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận
đầu tư số 37121000389 cho Công ty cổ phần D2 để thực hiện dự án C & Spa với
diện tích khoảng 46ha, mục đích đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp (đạt
chuẩn 5 sao), thời hạn hoạt động: 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư.
Tại mục X khoản 2 Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 của
Bộ T5 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại
19
về đất đai quy định: “Dự án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp
quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP bao gồm:
2.1. Các dự án phát triển kinh tế trong khu đô thị hiện có gồm dự án xây
dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở và pháp
luật về kinh doanh bất động sản, dự án xây dựng nhà ở xã hội, dự án xây dựng
nhà ở phục vụ tái định cư, dự án xây dựng nhà ở công vụ, dự án xây dựng trung
tâm thương mại, trung tâm H8; dự án xây dựng khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn
từ hạng 3 sao trở lên”.
Như vậy, dự án C & S thuộc nhóm đối tượng Nhà nước thu hồi đất theo
quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Về chủ thể bị thu hồi đất: theo hồ sơ dã ngoại năm 1996 và Bản án hôn
nhân gia đình phúc thẩm số 20/2008/HNGĐ-PT ngày 05/08/2008 của Tòa án nhân
dân tỉnh Khánh Hòa thì nguồn gốc diện tích đất thu hồi do bà Khổng Thị H7 kê
khai, quản lý sử dụng. Ngày 31/8/2015, bà H7 làm văn bản xác nhận và cam kết
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T diện tích đất 773 m2, tài sản gắn liền với
đất là nhà 01 tầng, diện tích xây dựng 22,3m2 tọa lạc tại tổ A B, Đường Đ, phường
V, TP ., tỉnh Khánh Hòa (văn bản được Văn phòng C5 chứng thực cùng ngày),
theo đó bà H7 đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng nhà, đất 01 tỷ 650 triệu đồng do
ông Nguyễn Văn T giao và bà H7 đã giao nhà, đất trên cho ông Nguyễn Văn T có
quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng và định đoạt). Như vậy, mặc dù việc chuyển
nhượng giữa bà H7 với ông T không lập hợp đồng theo quy định nhưng thực tế
bên bán bà H7 đã nhận đủ tiền, bên mua ông T đã quản lý sử dụng nhà, đất trên
từ ngày lập văn bản xác nhận cho đến ngày bị thu hồi đất. Đồng thời, tại Giấy xác
nhận số 886/XN-UBND ngày 16/6/2022 của Ủy ban nhân dân phường V (BL 54)
thể hiện: quá trình thực hiện dự án hộ ông Nguyễn Văn T là người kê khai và đang
sử dụng thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05 thuộc mảnh trích đo địa chính số 88-2018
do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018 được Sở T4 xác nhận ngày
13/10/2016 có diện tích 828,7m²; ông T còn ký xác nhận vào Biên bản kiểm kê
khối lượng bồi thường, giải tỏa ngày 19/10/2017, Phiếu đo đạc địa chính thửa đất
ngày 30/11/2018, ủy quyền cho ông Vũ Hải N nhận tiền hỗ trợ, bồi thường… (từ
BL 63 đến BL 68). Do đó, UBND thành phố N ban hành Quyết định số 1043 để
thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T là đúng chủ thể, phù hợp với quy định
pháp luật.
- Về trình tự, thủ tục và ranh giới thu hồi: tại điểm a khoản 1 Điều 99 của
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về xử lý các trường
hợp đang thực hiện thủ tục thu hồi đất trước ngày 01/7/2014 quy định: “1. Trường
hợp đã có văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giới thiệu địa điểm hoặc thông
báo thu hồi đất gửi đến từng người có đất thu hồi hoặc văn bản cho phép chủ đầu
tư thỏa thuận với người sử dụng đất thuộc phạm vi dự án từ trước ngày 01 tháng
7 năm 2014 nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì xử lý như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép tiếp tục thực hiện dự án và áp dụng
hình thức thu hồi đất hoặc chủ đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng
đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, nếu
20
phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt;”.
Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 74 Luật Đầu tư năm 2014 quy định về chuyển
tiếp thực hiện dự án đầu tư: “Nhà đầu tư đã được cấp Giấy phép đầu tư, Giấy
chứng nhận đầu tư trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được thực hiện dự
án đầu tư theo Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư đã được cấp…”
Dự án Champarama Resort & Spa được UBND tỉnh K cấp chủ trương đầu
tư trước khi Luật Đất đai năm 2013 và Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành.
Do đó, Champarama R & Spa là dự án chuyển tiếp theo quy định viện dẫn trên.
Việc UBND tỉnh K chủ trương thu hồi đất và giao cho Công ty cổ phần D2 thuê
đất để thực hiện dự án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai
năm 2003, khoản 2 Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ.
Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở đề xuất của Bộ K1
và Đầu tư, UBND tỉnh K thống nhất xem xét, lựa chọn Công ty cổ phần D2 là nhà
đầu tư mới tiếp tục thực hiện dự án R. Do đó, UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận
đầu tư lần đầu ngày 16/4/2013 cho Công ty cổ phần D2 để thực hiện Dự án với
quy mô đầu tư khoảng 46ha đất, trong đó Khu A khoảng 02ha, Khu B khoảng
30ha, Khu C khoảng 14 ha.
Ngày 22/8/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh K có Thông báo số 351/TB-UBND
về việc xử lý đất dự án R (cũ) và giải quyết hồ sơ thuê đất để xây dựng Khu C của
dự án C & Spa với nội dung: “Giao Sở T4 nghiên cứu, tham mưu xử lý phần diện
tích các khu A và B (đã được UBND tỉnh K cấp giấy chứng nhận đầu tư) theo
hướng: Điều chỉnh Quyết định số 833/QĐ-TTg ngày 05/7/2001 của Thủ tướng
Chính phủ, giảm diện tích các khu A và B đã cho Công ty Đ1 (trước đây) thuê đất
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Cho phép các hộ dân có đất tại khu
vực nêu trên được thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
đầu tư xây dựng theo quy hoạch được phê duyệt”. Do đó, tại Giấy chứng nhận
đầu tư điều chỉnh ngày 14/11/2014 thì UBND tỉnh K đã điều chỉnh quy mô đầu
tư xuống còn khoảng 44ha đất, trong đó Khu B khoảng 30ha, Khu C khoảng 04ha.
Ngày 24/02/2016, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 465/QĐ-UBND về việc
phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Khu nghỉ dưỡng C & Spa và ngày
27/10/2016, UBND thành phố N có Thông báo số 826/TB-UBND về việc thu hồi
đất để thực hiện Dự án, diện tích đất thu hồi Khu B (B1 + B2): 28,80ha. Như vậy,
Dự án có điều chỉnh giảm diện tích đối với Khu A và một phần Khu B chứ không
phải diện tích Khu B đã được đưa ra khỏi quy hoạch như trình bày của người khởi
kiện; Khu B của dự án vẫn thuộc diện nhà nước thu hồi đất.
Trên cơ sở Tờ trình số 7156/TTr-UBND ngày 11/11/2014 của UBND tỉnh
K, Dự án được Hội đồng nhân dân tỉnh K thông qua tại Nghị quyết số 13/NQ-
HĐND ngày 10/12/2014; sau đó, UBND thành phố N đã cập nhật phần diện tích
thu hồi vào Kế hoạch sử dụng đất từ năm 2015 cho đến nay của thành phố N đồng
thời được UBND tỉnh K phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của thành phố
21
N là loại đất thương mại, dịch vụ tại Quyết định số 4108/QĐ-UBND ngày
28/12/2018 khi Nghị quyết được thông qua.
Quá trình triển khai dự án, UBND thành phố N đã thực hiện đầy đủ trình
tự, thủ tục thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai như nhận định tại mục [2.1.5]
của Bản án sơ thẩm. Hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng thửa đất số 29, tờ bản
đồ số 05 thuộc mảnh trích đo địa chính số 88-2018, có diện tích 828,7m2 nằm
trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện Dự án C & S, phường V, thành phố N
(Giấy xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Công ty TNHH D1 thiết lập
ngày 16/6/2022) nên UBND thành phố N ban hành Quyết định số 1043/QĐ-
UBND ngày 30/6/2022 về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T đang sử
dụng để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là đúng theo trình tự,
thẩm quyền quy định tại Điều 69 Luật Đất đai năm 2013. Ông Nguyễn Văn T yêu
cầu hủy Quyết định 1043 này là không có cơ sở để chấp nhận.
[2.2]. Đối với Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Nguyễn Văn T
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N; các
Quyết định về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi
nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N số 133/QĐ-
UBND ngày 30/01/2023 và số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 của Ủy ban nhân
dân thành phố N:
- Về thủ tục: Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Quyết định số
1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn
T; cùng ngày Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Quyết định số 1052/QĐ-
UBND về việc bồi thường hỗ trợ, đối với hộ ông Nguyễn Văn T. Quá trình tổ
chức việc bồi thường, hỗ trợ cho các chủ thể có đất bị thu hồi, UBND thành phố
N sau đó lần lượt ban hành các Quyết định số 133 ngày 30/01/2023 và số 1227
ngày 20/4/2023 về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N là
đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013.
- Về nội dung:
+ Bồi thường, hỗ trợ về đất: theo Giấy xác nhận số 886/XN-UBND ngày
16/6/2022 của UBND phường V thì thấy, hộ ông Nguyễn Văn T sử dụng đất sau
ngày 01/7/2014 (ăn ở, sinh hoạt tại vị trí giải tỏa từ ngày 22/10/2015 đến năm
2019), loại đất: Đất trồng cây lâu năm, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
theo quy định nên không được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 82 Luật
Đất đai năm 2013 mà chỉ được hỗ trợ về đất.
Tổng diện tích đất hộ ông T bị thu hồi là 828,7m2, trong đó có 0,4m2 đất
thuộc taluy đường Phạm Văn Đồng đi Mũi Kê G đã được Nhà nước bồi thường,
hỗ trợ cho ông Nguyễn Đức Q, bà Khổng Thị H7 (chủ đất trước khi nhận chuyển
nhượng); diện tích 828,3m2 được UBND thành phố N hỗ trợ về đất ở xác định
theo phần diện tích xây dựng công trình nhà ở là 74,8m2, loại đất: đất ở đô thị,
thuộc vị trí 1 với giá 4.500.000 đồng/m2 x 90% x 74,8 m2 = 302.940.000 đồng
và hỗ trợ về đất trồng cây lâu năm là 753,8m2 , thuộc vị trí 1 với giá 1.560.000
22
đồng/m2 x 90% x 753,5 m2= 1.057.914.000 đồng là phù hợp quy định tại Quyết
định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K ban hành kèm
theo Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K; Quyết
định số 4837/QĐ-UBND ngày 24/12/2021 của UBND tỉnh K về việc phê duyệt
giá đất cụ thể để tính bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện
dự án Khu nghỉ dưỡng C, phường V, thành phố N; Công văn số 846/UBND-
XDNĐ ngày 25/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh K về việc chủ trương áp dụng
giá cụ thể tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án đã phê duyệt giá
đất cụ thể năm 2021 thuộc địa bàn thành phố N và khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai
năm 2013.
+ Bồi thường, hỗ trợ về công trình, vật kiến trúc trên đất: nhà, công trình
và vật kiến trúc khác trên diện tích đất thu hồi do bà Khổng Thị H7 (chủ đất cũ)
xây dựng từ năm 2008 và không có giấy phép xây dựng. Như vậy, công trình được
tạo dựng trước khi có Thông báo thu hồi đất nên hộ ông Nguyễn Văn T không
được bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013 mà
chỉ được xem xét hỗ trợ theo điểm 7 khoản 4 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-
UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K với tổng số tiền 277.273.679 đồng là
đúng với quy định pháp luật.
+ Bồi thường, hỗ trợ cây trồng trên đất: UBND thành phố N đã phê duyệt
bồi thường, hỗ trợ bổ sung đơn giá cây trồng của hộ ông Nguyễn Văn T tại Quyết
định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 với số tiền là 290.759.000 đồng và
Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 bồi thường, hỗ trợ bổ sung cây
trồng là 80.000 đồng là đúng số lượng tại Biên bản kiểm kê khối lượng giải tỏa,
phù hợp với các quy định nêu trên.
+ Kinh phí hỗ trợ khác là: 128.169.000 đồng.
+ Về chính sách hỗ trợ:
Hỗ trợ ổn định đời sống: hộ ông T ăn ở, sinh hoạt ổn định tại vị trí giải tỏa
(từ thời điểm 22/10/2015 đến năm 2019); sau đó, hộ gia đình chuyển vào thành
phố Hồ Chí Minh làm ăn và không có mặt tại địa phương cho đến nay; thời điểm
sử dụng đất là từ năm 2015 cho đến nay. Do đó, UBND thành phố N căn cứ khoản
1 Điều 22 Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K,
hộ gia đình đủ điều kiện hỗ trợ ổn định đời sống 50% là phù hợp.
Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm: do hộ ông Nguyễn Văn
T có 02 nhân khẩu trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại vị trí thửa đất bị giải tỏa và
có nguồn thu nhập ổn định từ việc sử dụng sản xuất nông nghiệp, không thuộc đối
tượng hưởng lương thường xuyên, đối tượng đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động,
thôi việc hưởng trợ cấp xã hội nên đủ điều kiện hỗ trợ. Ủy ban nhân dân thành
phố N căn cứ mục b, điểm 8, khoản 4, Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND
ngày 09/03/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh K để hỗ trợ 90% là phù hợp với quy
định tại Điều 83 Luật Đất đai năm 2013, các Điều 19, 20 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
23
+ Về chính sách tái định cư: hộ ông Nguyễn Văn T bị thu hồi toàn bộ diện
tích đất, không được bồi thường về đất và hộ ông T ăn ở, sinh hoạt tại vị trí giải
tỏa từ thời điểm 22/10/2015 đến năm 2019, tức sau ngày 01/7/2014. Do đó, hộ
ông T không đủ điều kiện bố trí tái định cư là đúng với quy định tại Điều 79 Luật
Đất đai năm 2013; các Điều 23, 24 tại Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày
26/8/2021 của UBND tỉnh K quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và khoản 5
Điều 1 tại Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K.
[2.3]. Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 14623/QĐ-UBND ngày
26/7/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi
đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 05) tại Tổ A B,
Đường Đ, phường V, thành phố N để thực hiện dự án C & S, Hội đồng xét xử
thấy rằng:
Quá trình tổ chức thực hiện việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông
Nguyễn Văn T, các cơ quan, đơn vị có liên quan đã tiến hành tống đạt đến nhà
ông T và niêm yết công khai các Quyết định số 1043, 1052, 133, 1227 tại trụ sở
UBND và khu dân cư T Đường Đ, B; đồng thời nhiều lần vận động gia đình ông
T đến nhận tiền bồi thường nhưng ông T không đồng ý nhận và bàn giao mặt
bằng.
Do hộ ông Nguyễn Văn T không chấp hành việc bàn giao mặt bằng đất đã
bị thu hồi tại Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của UBND thành
phố N nên Chủ tịch UBND thành phố N ban hành Quyết định số 14623/QĐ-
UBND ngày 26/7/2023 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn
T là đúng quy định tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013. Toà án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu này của ông T là có căn cứ, đúng quy định.
[3]. Từ các nhận định, phân tích tại mục [2] nêu trên của bản án thấy rằng,
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Nguyễn Văn
T là ông Vũ Hải N đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 38/2024/HC-ST ngày
13/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
[4]. Án phí hành chính phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận
nên người khởi kiện phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
[5]. Quyết định của bản án sơ thẩm về án phí sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
24
Bác kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông
Nguyễn Văn T là ông Vũ Hải N. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính
sơ thẩm số 38/2024/HC-ST ngày 13/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
2. Căn cứ Điều 38 Luật Đất đai năm 2003; Điều 69, Điều 71, Điều 82, Điều
83 Luật Đất đai năm 2013; Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ; Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ;
Tuyên xử: bác các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về hủy các
quyết định:
- Quyết định số 1043/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn T đang sử dụng để
thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 1052/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 133/QĐ-UBND ngày 30/01/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi
nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 1227/QĐ-UBND ngày 20/4/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với hộ ông Nguyễn Văn T khi
nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N;
- Quyết định số 14623/QĐ-UBND ngày 26/7/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Văn
T (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 5 tại Tổ A B, Đường Đ, phường V, TP .) để thực
hiện dự án C & S, phường V, thành phố N.
3. Về án phí: căn cứ khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính; áp dụng
khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án;
Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hành
chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu số 0000561 ngày 20/9/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Khánh Hòa. Ông Nguyễn Văn T đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
4. Quyết định của bản án sơ thẩm về phần án phí không có kháng cáo,
không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
25
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND tỉnh Khánh Hòa;
- Cục THADS tỉnh Khánh Hòa;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Đức Kiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm