Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 03/01/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 03/01/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 06/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Kim Th "T/c hợp đồng mua bán" Lê Trọng Kh
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 06/2025/DS-PT
Ngày: 03-01-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua
bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lưu Văn Uẩn.
Các Thẩm phán: 1. Bà Huỳnh Thị Hồng Vân.
2. Ông Trần Trọng Nhân.
- Thư phiên tòa: Ông Trần Chính Hào Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên a:
Nguyễn Thị Kim Chung – Kiểm sát viên.
Trong ngày 03 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 440/2024/TLPT-
DS ngày 02 tháng 10 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sthẩm số: 79/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Cần, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyếtđưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 429/2024/QĐ-PT ngày 14 tháng
10 năm2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim T, sinh năm: 1986, trú: Ấp B, Đ,
huyện C, tỉnh Tiền Giang (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Trọng K, sinh năm: 1971, nơi ĐKHKTT: Ấp T, L,
huyện C, tỉnh Long An. Cư trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Long An (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đoàn Duy H, sinh năm: 1982, trú: Ấp Ô, C, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang (vắng mặt).
3.2. Thị T1, sinh năm: 1987, địa chỉ: Ấp B, Đ, huyện C, tỉnh Tiền
Giang (vắng mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn, ông Lê Trọng K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn, ông Nguyễn Kim T trình bày:
2
Ông Lê Trọng K, ông Đoàn Duy H ông Nguyễn Kim T cùng tham gia một
nhóm trên ứng dụng Zoom, để sinh hoạt về đạo Tin Lành. Ông T biết được ông K
là chủ dự án trồng chuối ở huyện T, tỉnh Tây Ninh. Do ông K cần trang bị hệ thống
tưới nước cho cây chuối, ông T chủ sở kinh doanh T2, địa chỉ: số B, tỉnh
lộ 879C, huyện C, tỉnh Tiền Giang, chuyên phân phối điện, nước, dụng cụ nông
nghiệp nên ông T, ông K thoả thuận mua bán vật tư, ống nước thông qua việc nhắn
tin trên ứng dụng Zalo và điện thoại để đặt hàng.
Sau khi thống nhất, ông K đặt mua các sản phẩm từ ông T như sau: ống xẹp
42 có số lượng 218 cuồn (44 thùng); ống xẹp 60 có số lượng 11 cuồn (203kg), van
D số lượng 414 kg, van 42 Tân Hưng số ợng 86 cái, van 60 Taida 50 cái,
Keo BM (B) số lượng 20 lon, lupê 60 số lượng 01 cái. Hai bên thoả thuận miệng
thời hạn thanh toán là 3 ngày sau khi nhận hàng, bên ông K sẽ chịu trách nhiệm lắp
đặt các sản phẩm mua thành hệ thống tưới nước hoàn chỉnh. Ông K không có thoả
thuận giao dịch với ông Đoàn Duy H.
Ngày 17/3/2023, ông T đi cùng ông K chở vật tư, ống nước lên dự án trồng
chuối tại xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để giao nhận hàng hóa. Khi ông T chở hàng
đến vườn chuối, ông T làm biên bản giao nhận hàng hóa với ông K tại vườn
chuối ông K người trực tiếp nhận đồng ý nhận hàng. Nhưng đến nay
ông K không chịu trả tiền và đổ lỗi cho người khác, trốn tránh trách nhiệm nói rằng
mua hàng giùm cho ông Đoàn Duy H.
Khi giao hàng xong thì phía ông K có báo ông T hệ thống tưới sau khi lắp đặt
xong thì sử dụng không được, ông T lên T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để kiểm
tra 02-03 lần, ông T xác định ông bán hàng ống phi 42 đục 03 lỗ theo yêu cầu của
ông K đề ra (có tin nhắn kèm theo). Việc lắp đặt hệ thống tưới không hoạt động
đúng yêu cầu do lỗi lắp đặt bên phía ông K thực hiện. Do đó ông T đề nghị ông
K trả đúng tiền mua hàng còn nợ.
Việc ông K báo trả hàng ông T do hệ thống không vận hành được, không phải
lỗi của ông T. Mặt khác, vật phía ông K cũng đã lắp đặt rồi nên không thể bán
lại cho người khác. Từ thời điểm nhận hàng, ông K không lên dự án trồng chuối
nữa, mà giao cho hai nhân viên là ông Q và ông Đặng Vĩ H1 lắp đặt.
Về sau, qua điện thoại, ông K đồng ý để ông T tháo dỡ hệ thống tưới nước ra,
gửi giữ tại kho sản xuất Chao của nhà ông Văn N, sinh năm: 1971, trú:
ấp Đ, T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Ông K chuyển khoản cho ông T 2.000.000
đồng để thuê nhân công tháo dỡ. Ông T bỏ ra 10.000.000 đồng để thuê nhân công
tháo dỡ.
Tại phiên toà, ông Nguyễn Kim T khởi kiện yêu cầu ông Trọng K trả số
tiền còn nợ mua vật tư, ống nước 106.218.000 đồng. Ông T không yêu cầu vợ
ông K và ông Đoàn Duy H liên đới trả.
Bị đơn ông Lê Trọng K trình bày:
Ông Lê Trọng K, ông Đoàn Duy H ông Nguyễn Kim T cùng tham gia một
nhóm trên ứng dụng Zoom, để sinh hoạt về đạo Tin Lành. Do ông K là người có uy
tín trong nhóm, ông Đoàn Duy H chủ dự án trồng chuối huyện T, tỉnh Tây
Ninh, ông H đề nghị ông K đứng tên dự án này, để tiện giao dịch. Theo lời của
3
ông H, ông K nhắn tin qua ứng dụng Zalo điện thoại đặt mua hàng từ sở
kinh doanh T2, địa chỉ: s B, tỉnh lộ 879C, huyện C, tỉnh Tiền Giang do ông
Nguyễn Kim T làm chủ, các sản phẩm đặt mua gồm: Ống xẹp 42 số lượng 218
cuồn (44 thùng); ống xẹp 60 số lượng 11 cuồn (203kg), van D số lượng 414
kg, van 42 Tân Hưng số lượng 86 cái, van 60 Taida 50 cái, keo BM (B) số
lượng 20 lon, lupê 60 số lượng 01 cái. Hai bên thoả thuận miệng thời hạn thanh
toán sau khi ông H hợp đồng mua bán vật tư ống nước với ông T xong thì
ông H sẽ thanh toán, bên ông K sẽ chịu trách nhiệm lắp đặt các sản phẩm mua
thành hệ thống tưới nước hoàn chỉnh. Sự thỏa thuận giữa ông Trọng K ông
Đoàn Duy H là thỏa thuận bằng lời nói.
Ngày 17/3/2023, ông T đi cùng ông K chở ống nước lên dự án trồng chuối tại
T để giao nhận hàng hóa tại đây. Khi ông T chở hàng đến vườn chuối, sau khi
ông Q và ông H1 kiểm tra hàng hoá xong, ông K có ký tên nhận hàng vào Hóa đơn
bán lẻ - Biên bản giao hàng ngày 17/3/2023. Từ thời điểm này, ông K không có lên
vườn chuối nữa mà giao cho ông Q và ông H1 lắp đặt hệ thống tưới nước cho vườn
chuối, có chuyện gì xảy ra thì sẽ thông báo bằng điện thoại cho ông K.
Sau khi nhận hàng, bên ông K tiến hành lắp đặt hệ thống tưới nước xong thì
phát hiện sai sót kỹ thuật. Cụ thể, bên nhân viên kỹ thuật của ông K phát hiện vật
(ống xẹp phi 42) của ông T bị lỗi, khi lắp đặt không thể tưới cây đúng yêu cầu.
Ông T có lên T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để kiểm tra. Ông K báo ông T vấn
đề này thông báo với ông K trả hàng. Ông K cho rằng ông T phải chịu trách
nhiệm toàn bộ vấn đề kỹ thuật bị sai nhưng ông K không yêu cầu khởi kiện
phản tố trong vụ án này.
Trong quá trình thực hiện lắp đặt hệ thống tưới, còn một số vật thừa chưa
lắp đặt được, hiện nay đã bị mất. Ông K báo ông T nhận hàng về trước đó rồi
nên trách nhiệm số hàng này thuộc về ông T, ông K không có ý kiến.
Ngoài ra đối với số vật đã lắp đặt rồi nhưng không sử dụng được trị giá
khoảng 65.000.000 đồng thì ông T trong lần lên dự án có báo ông K, ông K đồng ý
để ông T thuê nhân công tháo dỡ hệ thống tưới nước, ông K hỗ trợ cho ông T
2.000.000 đồng chi phí này. Ông K không nhận các tài sản này không yêu cầu
giải quyết trong vụ án.
Việc giao dịch mua vật trong vụ án này sự tham gia của ông Đoàn Duy
H ông T cũng biết việc này. Hiện nay dự án đã thất bại dừng, ông K đề nghị
ông H mặt cùng giải quyết, ông K sẽ trả tiền cho ông T trong trường hợp ông H
trả tiền trước cho ông K. Nếu ông H không trả tiền cho ông K thì ông K sẽ khởi
kiện ông H đến Toà án có thẩm quyền.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đoàn Duy H vắng mặt trong suốt
quá trình giải quyết vụ án: Không có ý kiến trình bày .
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T1: Thống nhất với lời trình
bày của ông T.
Tại Bảndân sự thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 17/6/2024 của Tòa án nhân
dân huyện CầnGiuộc đã quyết định:
4
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng Điều 430; Điều 431, Điều 440, Điều 468 Bộ luật Dân sự, Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí
lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim T về việc tranh chấp
hợp đồng mua bán tài sản với ông Lê Trọng K.
Ông Trọng K trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Kim T số tiền
106.218.000 đồng (một trăm lẻ sáu triệu hai trăm mười tám nghìn đồng).
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi nh án cho đến khi thi hành án xong, khoản tiền trên ng tháng
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí:
Ông Lê Trọng K chịu án phí là 5.310.900 đồng.
Tạm ứng án phí, ông Nguyễn Kim T nộp 2.950.000 đồng theo biên lai số
0010846 ngày 27/12/2023; 0013066 ngày 17/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Cần Giuộc được trả lại.
Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 26/6/2024, bị đơn, ông Trọng K kháng o không đồng ý bảnán sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không
rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.
* Nguyên đơn, ông Nguyễn Kim T trình bày:
Yêu cầu ông Lê Trọng K trả số tiền còn nợ mua vật tư, ống nước là
106.218.000 đồng như yêu cầu tại cấp thẩm. Không chấp nhận theo yêu cầu
kháng cáo của ông K.
* Bị đơn, ông Lê Trọng K trình bày:
Ông không đồng ý trả số tiền 106.218.000 đồng theo yêu cầu của ông T. Do
dự án trồng chuối là của ông Đoàn Duy H, ông chỉ thay mặt ông H nhận hàng
thay cho ông H mà thôi, nên trách nhiệm trả tiền là của ông Đoàn Duy H.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát
biểu:
- Về thủ tục: Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử người tham
gia tố tụng tuân thủ đúng qui định về thủ tục tố tụng. Kháng cáo của ông Trọng
K trong hạn luật định, đúng thủ tục, Tòa án thụ giải quyết theo trình tự phúc
thẩm là có căn cứ.
- Về nội dung;
5
Ông Nguyễn Kim T ông Trọng K xác định ông K nhắn tin qua ứng
dụng Zalo và điện thoại đặt mua vật tư, ống nước từ ông T. Như vậy hợp đồng mua
bán tài sản được xác lập giữa các chủ thể năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự; chủ thể hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của giao dịch
dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên phát sinh
hiệu lực giữa các bên.
Ông Trọng K thừa nhận ông K tên vào a đơn bán lẻ - Biên bản
giao hàng ngày 17/3/2023 do ông T cung cấp. Khối lượng, số lượng, chủng loại
hàng hoá trong hóa đơn bán lẻ phù hợp với lời khai của ông T, ông K, bao gồm:
Ống xẹp 42 số lượng 218 cuồn (44 thùng); ống xẹp 60 số lượng 11 cuồn
(203kg), van D số lượng 414 kg, van 42 Tân Hưng số lượng 86 cái, van 60
Taida có 50 cái, Keo BM (B) số lượng 20 lon, lupê 60 số lượng 01 cái.
Toà án tiến hành mở phiên đối chất đlàm giao dịch mua bán i sản
giữa ông H, ông K, ông T nhưng ông H không có mặt. Do đó lời trình bày của ông
K liên quan việc ông H là người trực tiếp giao kết, ông K chỉ người đứng ra
tên, đứng ra nhận hàng thay cho ông H đối với quan hệ mua bán ng nước, vật
với ông T là không phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ.
Ông K trình bày ông đồng ý trả tiền mua hàng cho ông T nhưng phải đợi ông
H trả tiền cho ông K trước rồi ông K mới thanh toán nợ còn thiếu cho ông T, điều
này đã cho thấy ông H không phải có nghĩa vụ trong việc mua bán này.
Từ những căn cứ trên, nhận thấy lời yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim
T là phù hợp, án sơ thẩm buộc ông Lê Trọng K có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn
Kim T số tiền 106.218.000 đồng là có căn cứ.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp yêu cầu kháng cáo của ông
Trọng K, căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tốdân sự năm 2015, giữ nguyên
Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Vthủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Trọng K được thực hiện
đúng về hình thức, nội dung thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] Ông Đoàn Duy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia
phiên tòa mà vắng mặt; ông Lê Trọng K và bà Lê Thị T1 yêu cầu Toà án giải quyết
vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt ông H, ông K T1 theo quy định tại
khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim T: Ông Nguyễn Kim T khởi
kiện yêu cầu ông Lê Trọng K trả số tiền còn nợ mua vật tư, ống nước là
106.218.000 đồng.
[4] Bản án thẩm tuyên x: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Kim T về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản với ông Trọng K. Ông
Trọng K có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Kim T số tiền 106.218.000 đồng. Sau
6
khi ánthẩm tuyên, ông Lê Trọng K kháng cáo, các đương sự khác không kháng
cáo.
[5] Nội dung kháng cáo của ông Trọng K: Yêu cầu cấp phúc thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[6] Nội dung hợp đồng:
[6.1] Về việc thỏa thuận mua bán hàng hóa: Ông Nguyễn Kim T ông Lê
Trọng K xác định ông K nhắn tin qua ứng dụng Zalo và điện thoại đặt mua vật
tư, ống nước từ ông T.
[6.2] Tại Biên bản ghi lời khai ngày 04/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Cần Giuộc ông K cũng lời khai: Một người tên H nhờ ông K đứng tên thực
hiện dự án trồng chuối T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Ông K đặt mua vật tư,
ông nước phụ kiện của ông Nguyễn Kim T để lắp đặt dự án trồng chuối này
(BL-102).
[6.3] Ông K cũng thừa nhận ông K nhận hàng tên o Hóa đơn bán
lẻ - Biên bản giao hàng ngày 17/3/2023 do ông T cung cấp với khối lượng, s
lượng, chủng loại hàng hoá phù hợp với lời khai của ông T, bao gồm: Ống xẹp 42
số lượng 218 cuồn (44 thùng); ống xẹp 60 số lượng 11 cuồn (203kg), van D
có số lượng 414 kg, van 42 Tân Hưng số lượng 86 cái, van 60 Taida có 50 cái, Keo
BM (B) số lượng 20 lon, lupê 60 số lượng 01 cái, với tổng số tiền 106.218.000
đồng.
[6.4] Qua đó, sở xác định hợp đồng mua bán tài sản được xác lập giữa
ông Nguyễn Kim T ông Trọng K hoàn toàn tự nguyện, mục đích nội
dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội nên phát sinh hiệu lực và đã được thực hiện trong thực tế.
[7] Ông K cho rằng, giao dịch thực sự là của ông H, ông chỉ là người thay mặt
ông H giao dịch với ông T. Ông T không thừa nhận, cho rằng chính ông K là người
trực tiếp giao dịch với ông T. Toà án cấp thẩm tiến hành mở phiên đối chất
để làm rõ giao dịch mua bán tài sản giữa ông H, ông K, ông T nhưng ông H không
có mặt [BL-108]. Ông K cũng không có gì chứng minh lời trình bày của mình là có
sở. Do đó lời trình bày của ông K liên quan việc ông H người trực tiếp giao
kết, ông K chỉ là người đứng ra ký tên, đứng ra nhận hàng thay cho ông H mua bán
ống nước, vật với ông T không sở, cần xác định việc mua bán được
xác lập giữa ông T và ông K.
[8] Ông K đồng ý trả tiền mua hàng cho ông T nhưng phải đợi ông H trả tiền
cho ông K trước rồi ông K mới thanh toán nợ còn thiếu cho ông T. Lời trình y
của ông K không được ông T đồng ý. Do đó, cấp thẩm chấp nhận theo yêu cầu
của ông T buộc ông K có trách nhiệm trả cho ông T số tiền 106.218.000 đồng là có
sở. Trường hợp, ông K cho rằng ông Đoàn Duy H trách nhiệm nghĩa vtài
sản với ông thì ông K được quyền nộp đơn khởi kiện trong vụ án khác đến Tòa án
có thẩm quyền.
[9] Ông K kháng cáo nhưng không có cơ sở, nên không căn cứ chấp nhận,
cần giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
7
[10] Các khoản khác không kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không
xem xét.
[11] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sthẩm, án pdân s
phúc thẩm theo quy định tại các Điều 147, 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thườngvụ Quốc hội nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Trọng K.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 17/6/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 430; Điều 431, Điều 440, Điều 468 Bộ luật Dân sự, Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí
lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim T về việc tranh chấp
hợp đồng mua bán tài sản với ông Lê Trọng K.
Ông Trọng K trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Kim T số tiền
106.218.000 đồng (một trăm lẻ sáu triệu hai trăm mười tám nghìn đồng).
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi nh án cho đến khi thi hành án xong, khoản tiền trên ng tháng
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí:
Ông Lê Trọng K chịu án phí là 5.310.900 đồng.
Tạm ứng án phí, ông Nguyễn Kim T nộp 2.950.000 đồng theo Biên lai số
0010846 ngày 27/12/2023; 0013066 ngày 17/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Cần Giuộc được trả lại.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Trọng K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự
phúc thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp
300.000 đồng (ba trăm nghìntheo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòasố
0013096 ngày 26/6/2024 của C cụchành án dân sự huyện C, tỉnh Long An.
8
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Cần Giuộc;
- Chi cục THADS huyện Cần Giuộc;
- Các đương sự;
- Lưu HS; AV.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lưu Văn Uẩn
Tải về
Bản án số 06/2025/DS-PT Bản án số 06/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2025/DS-PT Bản án số 06/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất