Bản án số 89/2025/HC-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 89/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 89/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 89/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 89/2025/HC-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 89/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X; Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 164/2024/HC-ST ngày 12/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 89/2025/HC-PT
Ngày: 22-01-2025
V/v: “Kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: ông Lê Tự.
Các Thẩm phán: ông Lê Văn Thường và ông Phạm Ngọc Thái.
- Thư ký phiên tòa: ông Trần Xuân Lộc, Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
ông Nguyễn Thế Vinh – Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 363/2024/TLPT-HC ngày
24 tháng 10 năm 2024 về việc: “Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 164/2024/HC-ST ngày 12/9/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X; cùng trú tại: Thôn
F, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện: ông Phạm Hữu H; trú
lại: 5 Q, phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Lê Đình C - Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện E.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
+ Ông Nguyễn Thụ K - Chức vụ: Phó Giám đốc trung tâm phát triển quỹ
đất huyện E.
+ Bà Nguyễn Thị L - Chức vụ: Phó Trưởng phòng Tư pháp hưyện Ea

2
Kar.
Người kháng cáo: người khởi kiện ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án, người đại
diện theo uỷ quyền của người khởi kiện trình bày:
Để thực hiện công trình dự án đầu tư Dự án thành phần 3 thuộc dự án đầu
tư xây dựng đường C - Buôn M, UBND huyện E đã thu hồi của hộ ông Trịnh Minh
T, bà Dương Thị X diện tích 67,8m
2
thuộc thửa đất 139/91 tại thôn T, xã C, huyện
E, tỉnh Đăk Lắk.
Diện tích đất bị thu hồi nói trên có nguồn gốc do ông bố của bà Dương Thị
X là ông Dương Quý L1 khai hoang vào năm 1998. Đến năm 2003 thì ông L1 cho
vợ chồng ông T, bà X. Năm 2008, ông T, bà X xây nhà ở ổn định đến nay.
Ngày 15/9/2023, UBND huyện E ban hành Quyết định số 322/QĐ – UBND
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất tại dự án nêu trên, theo đó, hộ ông Trịnh Minh T không được bồi thường về
đất mà được hỗ trợ 50% giá đất, hỗ trợ 60% đối với tài sản, vật kiến trúc, không
hỗ trợ về cây trồng với tổng số tiền là 43.194.186 đồng.
Ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X không đồng ý với Quyết định bồi
thường nói trên, bởi lẽ:
Diện tích đất bị thu hồi của hộ ông Trịnh Minh T có nguồn gốc là đất khai
hoang từ năm 1998, sau đó hộ ông T xây dựng nhà cửa, sử dụng ổn định đến nay
không có tranh chấp với ai, cũng không bị cơ quan nào xử phạt hành chính nên đủ
điều kiện để được bồi thường về đất, bồi thường về tài sản và cây trồng gắn liền
với đất, hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm.
Việc UBND huyện E ban hành Quyết định số 322/QĐ – UBND ngày
15/9/2023 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để thi công công trình dự án đầu tư Dự án thành phần 3 thuộc Dự
án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn M, giai đoạn 1 chỉ hỗ trợ
50% giá đất, hỗ trợ 60% đối với tài sản, vật kiến trúc, không hỗ trợ về cây trồng
cho hộ ông Trịnh Minh T là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Trịnh Minh T, bà Dương Thị X.
Do đó, ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X khởi kiện yêu cầu Toà án giải
quyết các vấn đề sau:
Hủy một phần Quyết định số 322/QĐ – UBND ngày 15/9/2023 của Ủy ban
nhân dân huyện E về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để thi công công trình dự án đầu tư Dự án thành phần 3
thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn M, giai đoạn 1
đối với hộ ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị Xuân

3
Buộc Ủy ban nhân dân huyện E phải ban hành phương án bồi thường, hỗ
trợ mới cho hộ ông Trịnh Minh T1 theo mức bồi thường 100% về đất, bồi thường
về tài sản và cây trồng gắn liền với đất, hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X
theo quy định của pháp luật.
Người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện ông Lê Đình C trình bày:
- Về nguồn gốc sử dụng đất:
Hộ ông Trịnh Minh T sử dụng 67,8m
2
đất
thuộc phạm vi thu hồi.
Tại thửa
đất số 139 tờ bản đố số 91 theo trích lục bản đồ địa chính số 2293/TL-CNEK-
KTĐC, do chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện E cấp ngày 15/05/2023.
Căn cứ Giấy xác nhận số 171/GXN-UBND ngày 21/06/2023 của UBND xã
C xác nhận: hộ ông Trịnh Minh T lấn chiếm sử dụng đất năm 2005. Diện tích đất
trả về địa phương quản lý theo Quyết định số 2107/QĐ-UBND ngày 04/07/2023
của UBND tỉnh Đ về việc thu hồi quyền sử dụng đất 2.672,3 ha đất công ty L3
giao cho UBND huyện E quản lý; xác định việc sử dụng đất ổn định theo Điều 21,
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP: Từ năm 2005 đến nay sử dụng liên tục vào mục
đích sản xuất nông nghiệp
- Về bồi thường về đất:
Căn cứ khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 quy định điều kiện được
bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở,
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối
tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có
Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật
này mà chưa được cấp”.
Căn cứ theo Điều 82, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp Nhà
nước thu hồi đất không được bồi thường về đất:
Nhà nước thu hồi đất không bồi thường về đất trong các trường hợp sau đây:
1. Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 76 của Luật này;
2. Đất được Nhà nước giao để quản lý;
3. Đất thu hồi trong các trường hợp quy định tại Điều 64 và các điểm a, b,
c và d khoản 1 Điều 65 của Luật này;

4
4. Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này.”
5. Đối với các thửa đất không sử dụng đất trên 12 tháng đối với cây hàng
năm và 18 tháng đối với cây lâu năm thì không xem xét hỗ trợ về đất.”
Căn cứ Giấy xác nhận số 171/GXN-UBND ngày 21/06/2023 của UBND xã
C xác nhận: hộ ông Trịnh Minh T lấn chiếm sử dụng đất năm 2005. Diện tích đất
trả về địa phương quản lý theo Quyết định số 2107/QĐ-UBND ngày 04/07/2023
của UBND tỉnh Đ về việc thu hồi quyền sử dụng đất 2.672,3 ha đất Công ty L3
giao cho UBND huyện E quản lý.
Từ các căn cứ nêu trên thì toàn bộ diện tích thuộc phạm vi thu hồi của hộ
ông Trịnh Minh T không đủ điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Về hỗ trợ về đất:
Căn cứ Khoản 2, Điều 20, Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ban hành kèm theo Quyết định số
14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ:
“ Đối với người đang sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi đất mà không đủ
điều kiện bồi thường về đất theo quy định Luật Đất đai, không thuộc trường hợp
sử dụng đất vượt hạn mức theo Điều 129, Điều 130 Luật Đất đai năm 2013 và
không được hỗ trợ theo điểm a, b khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 mà
không thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều này thì được hỗ trợ theo loại đất
hiện trạng đang sử dụng, diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất,
cụ thể như sau:
“a) Thời điểm sử dụng đất trước ngày 15/10/1993: Được hỗ trợ bằng 100%
theo giá đất tại bảng giá đất do UBND tỉnh quy định;
b) Thời điểm sử dụng đất từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004:
Được hỗ trợ bằng 80% theo giá đất tại bảng giá đất do UBND tỉnh quy định;
c) Thời điểm sử dụng đất từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 27/9/2011 (ngày
ban hành Chỉ thị số 1685/CT – TTg của Thủ tướng Chính phủ): Được hỗ trợ bằng
50% theo giá đất tại bảng giá đất do UBND tỉnh quy định;
d) Thời điểm sử dụng đất từ ngày 27/9/2011 đến trước ngày 01/7/2014:
Được hỗ trợ bằng 30% theo giá đất tại bảng giá đất do UBND tỉnh quy định;
đ) Sử dụng đất từ ngày 01/7/2014 trở về sau: Không được xem xét hỗ trợ.
e) Thời điểm sử dụng đất để xác định hỗ trợ theo các điểm a, b, c, d, đ khoản
này là thời điểm hộ gia đình, cá nhân đầu tiên bắt đầu sử dụng đối với phần diện
tích đất không đủ điề kiện bồi thường, sử dụng đất liên tục kể từ thời điểm đó vào
mục đích sản xuất nông nghiệp cho đến khi ban hành Thông báo thu hồi đất.”
Căn cứ Giấy xác nhận số 171/GXN-UBND ngày 21/06/2023 của UBND xã
C xác nhận: hộ ông Trịnh Minh T lấn chiếm sử dụng đất từ năm 2005 nên được

5
hỗ trợ theo điểm c khoản 2, Điều 20 về đất.
- Về hỗ trợ khác về tài sản, vật kiến trúc
+ Về đơn giá tài sản, vật kiến trúc: Căn cứ Quyết định số 18/2023/QĐ-
UBND, ngày 12/6/2023 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành bảng giá xây dựng
mới nhà ở, công trình xây dựng, vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Về mức hỗ trợ: Căn cứ điểm a và điểm b, khoản 4, Điều 20, Quy định về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
ban hành kèm theo Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND, ngày 15/3/2022 của
UBND tỉnh Đ:
“a) Nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình cá nhân cụ thể như
như sau:
- Xây dựng gắn liền với đất đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ bằng 100%
đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với trường hợp xây
dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với trường hợp xây
dựng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày có thông báo thu hồi đất theo giá xây dựng
mới.
- Xây dựng gắn liền với đất không đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ
bằng 80% đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với trường
hợp xây dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với trường
hợp xây dựng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày có thông báo thu hồi đất theo giá
xây dựng mới.
b) Nhà, công trình không phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình cá nhân được
hỗ trợ như sau:
- Xây dựng gắn liền với đất đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ bằng 100%
đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với trường hợp xây
dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với trường hợp xây
dựng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày có thông báo thu hồi đất theo giá trị còn
lại.
- Xây dựng gắn liền với đất không đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ
bằng 80% đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với trường
hợp xây dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với trường
hợp xây dựng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày có thông báo thu hồi đất theo giá
trị còn lại.”
+ Về thời điểm tạo lập tài sản, vật kiến trúc gắn liền với đất: Căn cứ vào kết
quả xác định thời điểm của UBND xã C.
Căn cứ thời điểm xác nhận thời điểm tạo lập tài sản của hộ ông Trịnh Minh
T được tạo lập vào năm 2008. Xây dựng trên đất không đủ điều kiện bồi thường
về đất do đó được hỗ trợ 60% đối với nhà ở, tài sản vật kiến trúc gắn liền trên đất
giá trị bồi thường theo đơn giá quy định hiện hành.

6
- Vễ hỗ trợ khác về cây trồng:
Căn cứ theo biên bản kiểm đếm ngày 28/02/2023 cây trồng của hộ gia đình
ông Trịnh Minh T được ghi nhận làm phần hai phần. Một phần cây trồng nằm
ngoài phạm vi thu hồi và một phần nằm trong phạm vi thu hồi nhưng năm trong
hành lang an toàn giao thông. Do đó đối với cây trồng của hộ gia đình không được
hỗ trợ.
Từ những căn cứ nêu trên và các quy định pháp luật khác có liên quan. Việc
UBND huyện E ban hành Quyết định số 322/QĐ-UBND ngày 15/09/2023, về việc
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi để thi
công công trình dự án đầu tư Dự án thành phần 3 thuộc dự án đầu tư xây dựng
đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn M, giai đoạn 1; Quyết định số 325/QĐ-
UBND ngày 15/09/2023, về việc thu hồi đất để thi công công trình dự án đầu tư
Dự án thành phần 3 thuộc dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -
Buôn M, giai đoạn 1 trên địa bàn xã C đối với hộ ông Trịnh Minh T là đúng thẩm
quyền, đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Do đó, việc hộ ông Trịnh Minh T đề nghị hủy một phần Quyết định số Quyết
định số 322/QĐ-UBND ngày 15/09/2023, của UBND huyện E về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi để thi công công
trình dự án đầu tư Dự án thành phần 3 thuộc dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao
tốc Khánh Hòa - Buôn M, giai đoạn 1 và buộc UBND huyện E bồi thường cho gia
đình ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X theo đúng quy định của pháp luật là
không có cơ sở; đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 164/2024/HC-ST ngày 12/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116;
Điều 157; điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194; Điều 206 Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ: khoản 2 Điều 66, Điều 67, Điều 69, khoản 1 Điều 75, khoản 4 Điều
82, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013; Điều 18, Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
đất đai;
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 20 Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ban hành kèm theo Quyết
định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ ban hành quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk;
Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X về

7
việc:
- Hủy một phần Quyết định số 322/QĐ-UBND ngày 15/9/2023 của Ủy ban
nhân dân huyện E về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để thi công công trình dự án đầu từ Dự án thành phần 3
thuộc dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn M, giai đoạn 1
đối với hộ ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X ;
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện E phải ban hành phương án bồi thường, hỗ
trợ mới cho hộ ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X theo mức bồi thường 100% về
đất, bồi thường về tài sản và cây trồng gắn liền với đất, hỗ trợ ổn định đời sống,
hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, cho ông Trịnh Minh T, bà
Dương Thị X theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Kháng cáo:
Ngày 24/9/2024, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Minh T, bà Dương
Thị X.
Tại phiên ta phc thẩm:
Người kháng cáo có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; kháng cáo
của người khởi kiện là không có cơ sở, không có chứng cứ mới làm thay đổi bản
chất nội dung vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 1
Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về nguồn gốc diện tích đất bị thu hồi:
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số
49/2024/TLST-HC, ngày 06 tháng 3 năm 2024 về việc“Kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” giữa người khởi kiện ông Dương Quý L1, bà
Đặng Thị L2 với người bị kiện Ủy ban nhân dân xã E, ông Dương Quý L1 có cung
cấp 01 Đơn xin xác nhận được Công an xã C xác nhận với nội dung: “Căn cứ vào
bản khai của công dân tại tàng thư Công an huyện E, công dân Dương Quý Lâm
sinh năm 1958 sinh sống tại thôn F, xã C, E, Đắk Lắk từ năm 2003 đến nay”. Do
đó, việc người khởi kiện ông Trịnh Minh T cho rằng diện tích đất bị thu hồi có
nguồn gốc do ông Dương Quý L1 khai hoang từ năm 1998, đến năm 2003 tặng
cho vợ chồng ông T, bà X là không đúng.
[2]. Căn cứ Kết quả xác nhận số 171/GXN – UBND ngày 21/6/2023 của

8
UBND xã C thể hiện: Nguồn gốc sử dụng đất: lấn chiếm, sử dụng đất năm 2005,
diện tích đất trả về địa phương quản lý theo Quyết định số 2107/QĐ-UB ngày
04/7/2003 của UBND tỉnh Đ về việc thu hồi quyền sử dụng đất 2.672,3ha đất Lâm
trường Ea Kar giao cho UBND huyện E quản lý, thửa đất chưa được cấp GCNQSD
đất.
Như vậy, có căn cứ xác định thời điểm hộ ông Trịnh Minh T bắt đầu sử
dụng đất là năm 2005.
[3]. Xét yêu cầu của người khởi kiện yêu cầu bồi thường, hỗ trợ về đất:
Do diện tích đất của ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X có nguồn gốc do
lấn chiếm đất của UBND huyện E quản lý, thuộc quy hoạch đất giao thông nên hộ
ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X không đủ điều kiện bồi thường về đất theo
quy định tại Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.
[4]. Thời điểm lấn chiếm đất của hộ ông Trịnh Minh T là năm 2005 nên việc
UBND huyện E đã hỗ trợ cho hộ ông Trịnh Minh T 50% theo giá đất tại bảng giá
đất do Ủy ban nhân dân tỉnh Q là phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 20 Quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk ban hành kèm theo Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của
UBND tỉnh Đ ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
[5]. Xét yêu cầu bồi thường 100% giá trị tài sản, vật kiến trúc thấy rằng:
Việc UBND huyện E hỗ trợ bằng 60% giá trị bồi thường theo đơn giá quy
định hiện hành đối với tài sản, vật kiến trúc đối với hộ ông Trịnh Minh T, bà
Dương Thị X là đúng quy định tại điểm a khoản 4 Điều 20 Quyết định số
14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ.
[6]. Đối với yêu cầu bồi thường đối với cây trồng trên đất:
Căn cứ Biên bản về việc thống kê, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền với đất
ngày 28/02/2023 thể hiện: các loại cây cối, hoa màu trên đất gồm 02 cây xoan đào
nằm trong hành lang đường và một số cây trồng nằm ngoài ranh thu hồi nên không
đủ điều kiện được hỗ trợ. Việc UBND huyện E không hỗ trợ đối với cây trồng trên
đất cho hộ ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X là đúng quy định của pháp luật
[7]. Về yêu cầu hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm:
Tại Kết quả xác nhận số 171/GXN – UBND ngày 21/6/2023 của UBND xã
C thể hiện hộ ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X có 02 thửa đất đang sử dụng
trên địa bàn xã với tổng diện tích 5.166,2m
2
. Diện tích đất bị thu hồi của hộ T, bà
X là 67.8m
2
, tỷ lệ phần trăm thu hồi đất nông nghiệp so với tổng diện tích đất nông
nghiệp trên địa bàn xã là 1,3%. Như vậy, hộ ông Trịnh Minh T không thuộc trường
hợp bị thu hồi đất đủ điều kiện để hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất, hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.

9
[8]. Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Trịnh Minh T, bà Dương Thị X là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, không có cơ
sở chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông T, bà X.
[9]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án
phí hành chính phúc thẩm. Tuy nhiên, ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X là người
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên được
miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Bác kháng cáo của ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X;
Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 164/2024/HC-ST
ngày 12/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Án phí hành chính phúc thẩm:
Ông Trịnh Minh T, bà Dương Thị X được miễn.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Lê Tự
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm