Bản án số 89/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 89/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 89/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 89/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 89/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 89/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê về việc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 89/2025/DS-PT
Ngày: 18 - 3 – 2025
“V/v: Yêu cầu bồi thường thiệt hại về
tài sản và chấm dứt hành vi cản trở
thực hiện quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
-Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Huờn
Các thẩm phán: Ông Trần Duy Phương và ông Hoàng Kim Khánh
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Lương
Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên
Mở phiên tòa ngày 18/3/2025, tại trụ sở TAND tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ lý số:386/2024/TLPT-DS ngày 27/11/2024 về việc: “Yêu
cầu bồi thường thiệt hại về tài sản và chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền sử dụng
đất”; Do bản án dân sự sơ thẩm số: 82/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm số: 29/2025/QĐXXPT-DS ngày 24/01/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa
số: 39/2025/QĐ-PT ngày 20/02/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Y D Ayǔn, sinh năm 1988 và bà H’ G Niê, sinh năm 1986
Địa chỉ: Buôn H, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đào Khoa T - Có mặt (Theo văn bản ủy quyền
ngày 07/6/2023)
Địa chỉ: Số 03 đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
2. Bị đơn: Ông Y H Niê (Y H’ Niê), sinh năm 1975 và bà H’ B Ayũn, sinh năm
1977
Địa chỉ: Buôn H, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc B, sinh năm 1978 - Có mặt (
theo văn bản ủy quyền ngày 20/6/2023; ngày 06/12/2024)
Địa chỉ: Hẻm số 310 đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ngân hàng N; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm H - Giám đốc phòng
giao dịch T, thuộc Chi nhánh B - Vắng mặt
Địa chỉ: Số 58 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.
3.2 Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
2
Địa chỉ: Số 142 đường H, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình K - Phó Chi cục trưởng, Chi
cục thi hành án dân sự huyện C - Vắng mặt
3.3 Ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1978 - Vắng mặt
Địa chỉ: Số 185/20 đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 25/5/2023 và quá trình tham gia giải quyết vụ án,
nguyên đơn là ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê trình bày: Tháng 10/2022, vợ chồng ông,
bà nhờ bà H’ B Ayũn làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, từ đất trồng cây lâu
năm sang đất ở, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04 và thửa đất số 99, tờ bản đồ số
05, của vợ chồng ông, bà; ông và bà đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối
với 02 thửa đất nêu trên, cho H’ B để làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất; Bà H’
B cùng với chồng là ông Y H Niê, sử dụng 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
vợ chồng ông, bà, ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thửa đất số 35 và thửa đất
số 99, cho Phòng giao dịch H - Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk, thuộc Ngân hàng N, để vay
tiền. Do vợ chồng bà H’ B, không trả nợ tiền vay ngân hàng, nên ngân hàng đã khởi
kiện và đã được Tòa án giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Do vợ chồng bà
H’ B không tự nguyện thi hành án, trả tiền nợ gốc đã vay và tiền lãi cho Ngân hàng;
Chi cục thi hành án dân sự huyện C, đã kê biên và bán đấu giá quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền trên đất, đối với thửa đất số 35 của vợ chồng ông, bà để thanh toán cho
Ngân hàng khoản tiền mà vợ chồng bà H’ B đã vay; Ngoài ra, ngày 05/5/2022, vợ chồng
ông, bà còn trả cho Ngân hàng 20.000.000đ, mà vợ chồng bà H’ B đã vay, để lấy lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 99, mà vợ chồng bà H’ B đã
thế chấp cho Ngân hàng. Vì vậy, ông và bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc
bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, phải bồi thường cho ông, bà trị giá quyền sử dụng đất,
đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04 và 1.250 cây Cà phê trên đất, là 992.607.000đ
và 20.000.000đ mà vợ chồng ông, bà đã trả cho Ngân hàng (trả nợ thay cho vợ chồng
bà H’ B) và tiền lãi của khoản tiền 20.000.000đ là 10.000.000đ.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, bị đơn là bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê trình
bày: Không có việc vợ chồng ông, bà làm giúp cho vợ chồng ông Y D Ayǔn và bà H’
G Niê, chuyển mục đích sử dụng đất đối với thửa đất số 35 và thửa đất số 99. Tháng
11/2012, vợ chồng ông, bà vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam, tại phòng giao dịch Hòa Bình, thuộc chi nhánh tỉnh Đắk Lắk 450.000.000đ; Để
đảm bảo trả nợ khoản tiền vay nêu trên, vợ chồng ông, bà đã thế chấp cho ngân hàng
quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 38, tờ bản đồ số 01; vợ chồng bà H’ B Ayũn và
ông Y H Niê, ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba, thế chấp cho
ngân hàng quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04 và thửa đất số 99,
tờ bản đồ số 05, đảm bảo cho vợ chồng ông, bà vay ngân hàng 250.000.000đ. Do vợ
chồng ông, bà không trả được tiền nợ gốc đã vay và tiền lãi cho ngân hàng; Ngân hàng
đã khởi kiện và được Tòa án giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật; Quá trình thi
hành án, Chi cục thi hành án dân sự huyện C, đã bán đấu giá tài sản thế chấp là quyền
sử dụng đất, đối với thửa đất số 38 và thửa đất số 35, để thu hồi khoản tiền nợ gốc và
3
tiền lãi cho Ngân hàng. Vì vậy, ông và bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông
Y D Ayǔn và bà H’ G Niê.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Ngân hàng N trình bày: Việc vợ chồng bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê vay tiền Ngân
hàng; Việc vợ chồng ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, thế chấp quyền sử dung đất, đối
với thửa đất số 35 và thửa đất số 99, đảm bảo cho bà H’ B và ông Y H vay Ngân hàng
250.000.000đ, đúng như bị đơn đã trình bày; Sau khi Chi cục thi hành án dân sự huyện
Cư M’gar, bán đấu giá tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 38 và
thửa đất số 35, để thu hồi khoản tiền nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng; Ngân hàng đồng
ý giảm số tiền lãi cho vợ chồng bà H’ B và chỉ thu thêm 20.000.000đ tiền lãi; Ngày
05/5/2022, vợ chồng ông Y D Ayǔn và bà H’G Niê đã nộp thay cho vợ chồng bà H’ B
20.000.000đ tiền lãi, ngân hàng đã lại cho vợ chồng ông Y D Ayǔn quyền sử dụng đất
thửa đất số 99; Việc ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chi
cục thi hành án dân sự huyện C trình bày: Do người phải thi hành án dân sự, không tự
nguyện thi hành bản án dân sự số:19/2015/DS-ST ngày 29/9/2015 của TAND huyện
Cư M’gar, nên Chi cục thi hành án dân sự huyện C đã kê biên và bán đấu giá tài sản
thế chấp là quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 38 và thửa đất số 35, để thu hồi khoản
tiền nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng;Việc ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê khởi kiện,
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong đơn yêu cầu ngày 17/6/2024 và quá trình tham gia giải quyết vụ án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Hoàng H trình bày: Ông là người mua
được tài sản bán đấu giá, là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, đối với thửa
đất số 35, tờ bản đồ số 04, tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk nhưng vợ chồng ông Y D
Ayǔn và bà H’ G Niê, đã cản trở ông thực hiện quyền sử dụng đất, đối với thửa đất nêu
trên. Vì vậy, ông yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê chấm
dứt hành vi cản trở ông quản lý, sử dụng thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 82/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của TAND huyện Cư
M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng: khoản 2, khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35;
điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 165; khoản 1 và điểm b khoản 2
Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 273; BLTTDS. Khoản 10 Điều 12; Điều 166 Luật
Đất đai năm 2013; Điều 169; Điều 318; Điều 320 BLDS.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê về việc:
Buộc bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, phải bồi thường thiệt hại trị giá quyền sử dụng
đất và 1.250 cây Cà phê trên đất, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04, là 992.607.000đ
và 20.000.000đ, mà ông Y D Ayǔn và bà H
'
Ging Niê đã nộp cho Ngân hàng để giải
chấp thửa đất số 99, cùng với 10.000.000đ tiền lãi.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Hoàng H: Buộc ông Y D Ayǔn và bà
H’ G Niê, chấm dứt hành vi cản trở ông H thực hiện quyền quản lý và sử dụng quyền
sử dụng đất, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04, tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
4
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ,
định giá tài sản, án phí và tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 07/10/2024, nguyên đơn là ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, có đơn kháng
cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông, bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk cho rằng: Kể từ thời điểm
thụ lý vụ án, đến khi mở phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án. Xét
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, VKSND tỉnh Đắk
Lắk xét thấy: Ngày 29/10/2012, ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, ký hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất của bên thứ ba, với Phòng giao dịch Hòa Bình- Chi nhánh Đắk Lắk,
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, với nội dung: Ông Y
D Ayǔn và bà H’ G Niê, thế chấp quyền sử dụng đất thửa đất số 35 và thửa đất số 99
cho Ngân hàng, đảm bảo cho bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, trả nợ Ngân hàng khoản
tiền 250.000.000đ, mà vợ chồng bà H’ B đã vay Ngân hàng, cùng với tiền lãi; ông Y D
Ayǔn và bà H’ G không cung cấp được chứng cứ để chứng minh, đã bị lừa dối hay ép
buộc ký hợp đồng thế chấp; Hiện tại thửa đất số 35, đã bị kê biên, bán đấu giá theo quy
định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra
tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tại phiên tòa phúc
thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và đơn kháng cáo; Các đương sự không tự
hòa giải được với nhau về việc giải quyết vụ án và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết.
[1] Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn, còn trong hạn luật định, nên hợp lệ.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, Hội
đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Ngày 29/10/2012, ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, ký
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba, với Phòng giao dịch Hòa Bình -
Chi nhánh Đắk Lắk, thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
với nội dung: Ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, tự nguyện thế chấp quyền sử dụng đất
thửa đất số 35 và thửa đất số 99 cho Ngân hàng, đảm bảo cho bà H’ B Ayũn và ông Y
H Niê, trả nợ Ngân hàng khoản tiền 250.000.000đ, mà vợ chồng bà H’ B đã vay Ngân
hàng, cùng với tiền lãi; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, được các bên tự nguyện
ký kết và phù hợp với quy định của pháp luật, nên hợp đồng có hiệu lực. Như vậy, ông
Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, đã bảo lãnh cho bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, trả nợ Ngân
hàng 250.000.000đ, bằng hình thức thế chấp thửa đất số 35 và thửa đất số 99; Ông Y D
Ayǔn và bà H’ G Niê khởi kiện cho rằng: Việc ông, bà giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, đối với 02 thửa đất nêu trên cho bà H’ B, để nhờ bà H’ B làm thủ tục chuyển
mục đích sử dụng đất, là không có căn cứ. Bởi lẽ, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
5
được các bên tự nguyện ký kết tại trụ sở UBND xã E, huyện C và được UBND xã E
chứng thực.
Quá trình thực hiện hợp đồng: Do vợ chồng bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, không
trả được khoản tiền đã vay Ngân hàng và tiền lãi, nên Ngân hàng đã khởi kiện và được
giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Do người phải thi hành án dân sự, không
tự nguyện thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư M’gar đã kê biên, bán đấu
giá tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất thửa đất số 38 của vợ chồng bà H’ B và thửa
đất số 35 của vợ chồng ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, để thi hành khoản tiền nợ gốc
mà vợ chồng bà H’ B đã vay Ngân hàng, cùng với tiền lãi, là đúng với quy định của
pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y
D Ayǔn và bà H’ G Niê, là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật; Hội đồng xét
xử phúc thẩm xét thấy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Y D
Ayǔn và bà H’ G Niê, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Về án phí phúc thẩm: Ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, là người dân tộc thiểu
số, cư trú tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án
phí, Hội đồng xét xử xét thấy, cần miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Y D Ayǔn
và bà H’ G Niê.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn là Y D Ayǔn và bà H’ G Niê; Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 82/2024/DS-ST
ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Căn cứ Điều 361, Điều 362, Điều 363 BLDS năm 2005; Hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất của bên thứ ba, được ký kết ngày 29/10/2012, giữa ông 82/2024/DS-ST
ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, bà H’ G Niê và
Phòng giao dịch H, thuộc Ngân hàng N, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04 và thửa
đất số 99, tờ bản đồ số 05, tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y D Ayǔn và bà H’ G
Niê về việc: Buộc bà H’ B Ayũn và ông Y H Niê, phải bồi thường thiệt hại trị giá quyền
sử dụng đất và 1.250 cây Cà phê trên đất, đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 04, tại xã
E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk là 992.607.000đ và 20.000.000đ, mà ông Y D Ayǔn và bà H’
G Niê đã cho Ngân hàng để giải chấp thửa đất số 99, tờ bản đồ số 05 cùng với
10.000.000đ tiền lãi.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Y D Ayǔn và bà
H’ G Niê; ông Y D Ayǔn và bà H’ G Niê, được nhận lại 600.000 tiền tạm ứng án phí
6
đã nộp, tại biên lai số: 0007941 ngày 07/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Cư M’gar;
- Chi cục THADS huyện Cư M’gar;
- Các đương sự;
- Cổng thông tin điện tử TA;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Huờn
7
8
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm