Bản án số 144/2025/DSPT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 144/2025/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 144/2025/DSPT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 144/2025/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số:144/2025/DS-PT
Ngày 01 4 2025
V/v tranh chấp bồi thường thiệt hại
tài sảnvà đòi tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Hải Hà
Bà Châu Minh Hoàng
- Thư phiên tòa:Ông Nguyễn Trọng Bằng- Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau CàMau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà:Ông
Nguyễn Văn Điện – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 11 tháng 3 ngày 01tháng 4năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Mau xét xử phúc thẩm công khai v án dân sự thụ số:
527/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 11 năm 2024, về việc tranh chấp bồi thường
thiệt hại tài sản và đòi tài sản.
Do bản án dân sthẩm số: 316/2024/DS-ST ngày 25tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 20/2025/QĐ-PT ngày16
tháng 01năm 2025 Quyết định ngừng phiên tòa ngày 11/3/2025 giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Hồng T, sinh năm 1961; địa chỉ trú: Ấp T,
T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Lưu Quang T1, sinh năm 1959 (có mặt).
2. Bà Lưu Kim C, sinh năm 1970 (có mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Bùi Tuyết X, sinh năm 1969 (có mặt).
2. Bà Lưu Thị H, sinh năm 1962 (vắng mặt).
3. Bà Lưu Thị Thúy P, sinh năm 1963 (vắng mặt).
4. Ông Lưu Thanh T2, sinh năm 1972 (vắng mặt).
5. Bà Lưu Mỹ T3, sinh năm 1975 (vắng mặt).
2
6. Bà Lưu Hồng Đ, sinh năm 1977 (vắng mặt).
7. Ông Lưu Hoàng E, sinh năm 1982 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
8. Ông Lưu Minh T4, sinh năm 1968; địa chỉ trú: Khóm E, thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
-Người kháng cáo:Ông Lưu Quang T1, Lưu Kim C1 bị đơn, Bùi
Tuyết X là người liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn bà Nguyễn Hồng T trình bày:
CụLưu Quang Đ1 cụ Nguyễn Thị B cho chồng ông Lưu Quang
T5, ông Lưu Quang T1 bà Lưu Kim C mỗi người hưởng 06 công đất tại ấp T,
T, huyện Đ, tỉnh Mau. Cả ba người cùng xổ chung một cống. Sau đó 03 anh
em thống nhất thỏa thuận làm giấy hợp đồng thuê vuông nội dung như sau: Vợ
chồng cho vợ chồng ông Lưu Quang T1 Bùi Tuyết X thuê lại vuông vào
ngày 06/6/2019 trong thời hạn 03 năm, giá thuê mỗi năm 3.000.000 đồng. Đến
ngày 06/6/2022 ông T1 giao lại vuông, và bà C đã thỏa thuận thuê lại phần
vuông của ông T1 với thời hạn thuê 06 năm, giá thuê mỗi năm 3.000.000 đồng.
C đã thanh toán cho vợ chồng ông T1 3.000.000đồng tiền thuê năm đầu
tiên. Sau đó C cùng nhau hùn vốn để làm vuông. Trong đó,
hùn13.345.000 đồng, C hùn 1.020.000 đồng; chia đôimỗi người 5.652.000
đồng, đến nay C chưa hoàn lại số tiền này cho bà.
Ngày 01/8/2022 C tự ý xổ vuông bán được 680.000 đồng. Ngoài ra C
mua lại tôm đã xổ trong vuông cho bạn với số tiền 250.000 đồng, tổng cộng
930.000 đồng nhưng không chia lại tiền cho bà. Từ ngày 14/8/2022 C rút phần
hùn làm vuông với bà, yêu cầu xổ 03 năm, sau đó đến C vào làm và yêu cầu
phải đưa lại 7.500.000 đồng nhưng không đồng ý. Từ ngày 01/9/2022 C
không làm chung với bà nữa, tự ý lấy đụt xổ vuông đem về không cho bà xổ và nói
khi nào bà trả lại tiền thuê lại đất cho C và phí bà C bỏ vô thuê vuông chung thì
mới trả đụt xổ vuông cho bà. Ngày 18/9/2022 Tổ hòa giải ấp đã hòa giải thành với
nội dung: C không làm chung với bà nữa giao đất lại cho bà canh tác, bà trả
lại cho bà C chi phí đã xuất ra là 6.510.000 đồng. Ngày 24/9/2022 bà đã trả số tiền
6.510.000 đồng cho bà C do ông Dương Văn H1 (tổ trưởng tổ hòa giải) nhận
thay.Sau đó Chi T6 đụt cho xổ. Đến 20/8/2023 bà C cùng ông T1 lại vào đòi
tiền thuê vuông năm thứ 2 nhưng bà không đồng ý. Đến ngày 22/9/2023 bà đã mời
gia đình về họp thân tộc thống nhất trước khi phân chia đất làm 03 phần thì cho bà
C cùng ông T1 xổ chung 02 tháng với bà. Trong thời gian xổ chung, ông T1 bà
C đã được chia lợi nhuận số tiền 5.500.000 đồng. Tuy nhiên, sau 02 tháng thì ông
T1 C không thực hiện theo thống nhất gia đình, không đồng ý chia đất
đóng cống không cho bà xổkể từ ngày 28/11/2023 cho đến nay 07 tháng; ngày
04/12/2023 ông T1 C tý qua nlấy 15 cái rập cua 01 lưới cá, đến
ngày 05/4/2024 bà C đã tự ý qua nhà bà lấy đụt xổ vuông và giữ đến nay không trả
cho bà.
3
Do đó, khởi kiện yêu cầu Lưu Kim Chi T6 số tiền 9.792.000 đồng,
trong đó bao gồm lợi nhuận thu hoạch tôm ngày 01/8/2022 340.000 đồng, tiền
C đã mua tôm trong vuông chung cho bạn 250.000 đồng, số tiền 2.750.000
đồng C đã khai thác trong 02 tháng làm chung, số tiền 5.652.000 đồng đầu
ban đầu khi hùn làm vuông, giá trị của cái đụt xổ vuông C đã lấy của
800.000 đồng; yêu cầu ông Lưu Quang T1 trả số tiền 2.750.000 đồng; yêu cầu
Lưu Kim C ông Lưu Quang T1 dừng hành vi ngăn cản khai thác trong phần
đất đã thuê để tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê vuông như thỏa thuận hoàn
trả gtrị tài sản các vật dụng C ông T1 đã tự ý lấy ngày 04/12/2023
(gồm 15 cái rập cua, 01 lưới cá) tiền mất thu nhập từ việc xổ vuông do ông T1
và bà C ngăn cản không cho xổ vuông trong khoảng 07 tháng là 35.650.000 đồng.
* Bị đơn bà Lưu Kim C trình bày:
Trước đây cha mẹ cho 03 anh em mỗi hộ 06 công đất, sử dụng
chung 01 cống xổ. Các bên thỏa thuận chia thời gian làm mỗi hộ sử dụng 03 năm.
Hộ nào làm phải trả tiền đủ 3.000.000 đồng mới được xổ.Đến ngày 06/6/2022 âm
lịch ông Lưu Quang T1 giao lại phần đất sau thời hạn thuê là 03 năm cho T
vợ của ông T5. Bà T rủ bà cùng thuê đất để làm được thời gian lâu hơn thì bà đồng
ý. Làm được một thời gian thì giữa T phát sinh mâu thuẫn do bà T không
trung thực. Do đó, không đồng ý làm chung nữa, yêu cầu T trả lại số tiền
mua con giống và số tiền thuê đất 3.000.000 đồng nhưng T không đồng ý. Sau
khi được ấp hòa giải thì ngày 24/9/2022 T đã trả cho 6.510.000 đồng.Từ đó
về sau T làm đủ một năm trả đủ số tiền theo thoả thuận cho ông T1.
Đến năm thứ haibà T chậm trễ trong việc trả tiền thuê đất theo thỏa thuận nên xảy
ra tranh chấp, nhờ đến gia đình, dòng họ hai bên cùng nhau họp lại đ giải
quyết. Khi đó bà T, ông T1 bà đã thống nhất scùng nhau sử dụng đất để xổ
chung trong thời gian 02 tháng, chia lợi nhuận thu được ra thành ba phần đều nhau,
T hứa sẽ chuộc lại giấy tờ đất hiện đang cầm cố bên ngân hàng về để cắt đất ra
cho anh em, nếu như sau 02 tháng T không thực hiện thì cuộc họp gia đình
hiệu. Tuy nhiên sau 02 tháng thì T không thực hiện việc chuộc giấy tờ đất nên
mâu thuẫn vẫn chưa được giải quyết. Do bà T không trả tiền thuê đấtnên không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà T.
* Bị đơn ông Lưu Quang T1 trình bày:
Cha mẹ ông sinh được 10 người con, cho các anh em mỗi người 06 công
đất, nhưng 01 người không nhận để lại cho người nhận thờ cúng. Ông với ông
T5, C làm chung do sử dụng chung cống xổ. Phần đất khoảng 18 công tầm lớn
không chia ranh giới rõ ràng,có mặt tiền giáp lộ tông, mặt hậu giáp đất ông Mai
Việt T7, 01 mặt bên giáp đất do ông Lưu Hoàng E quản lý, 01 mặt bên giáp đất do
Lưu Hồng Đ quản lý. Làm chung được khoảng 01 năm thì ông đề xuất mỗi
người làm hết 18 công trong thời hạn 03 năm, đồng thời trả tiền thuê cho 02 người
còn lại mỗi người 3.000.000 đồng/năm. Sau khi thống nhất thì ông làm 03 năm,
đến ông T5 làm liên tục 06 năm rồi đến lượt ông. Đến ngày 06/6/2022 âm lịch thì
hết lượt của ông, ông giao đất lại cho T vợ ông T5 làm do ông T5 đã chết,
đồng thời bà C cũng chưa ý định trực tiếp canh tác. Do T rủ C hùn làm
nên bà T, bà C đưa cho ông mỗi người 1.500.000 đồng vào ngày 06/6/2022. Ông
4
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của T với do T không trả tiền thuê đất,
gây ra tranh chấp kéo dài đến nay làm ông mất thu nhập từ việc cho thuê đất. Ông
xác định lấy lưới rập của bà T do T không trả tiền nên ông không cho đặt
rập, giăng lưới trên phần đất của ông, sau đó ông kêu vợ ông đem đến nhà trả
cho bà T.
*Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Tuyết X trình bày:
thống nhất lời trình bày của ông T1.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lưu Thị H trình y:Tranh
chấp giữa T, ông T1, C không liên quan đến bà. Tuy nhiên đề nghị xem
xét việc bà T không trả tiền thuê đất nên mới xảy ra tranh chấp.
Tại các biên bản lấy lời khai, ông Lưu Minh T4, ông Lưu Thanh T2, ông
Lưu Hoàng E, Lưu Mỹ T3, Lưu Hồng Đ, Lưu Thị Thúy P trình bày:
Cha mẹ của các ông sinh được 10 người con, lúc cha còn sống cho các anh
em mỗi người 06 công đất. Ông T2 làm chung với T3, Đ, P; ông T5, ông
T1 bà C làm chung, ông Hoàng E ông T4 làm chung. Mỗi nhóm tthỏa
thuận cách thức nhận canh tác phần đất. Phần đất còn đứng tên của cha ông Lưu
Văn Đặng . Sau khi cha mẹ chết thì các anh chị em vẫn canh tác bình thường n
trước, gần đây thì giữa T, ông T1 C phát sinh tranh chấp. Các ông
thống nhất việc cho đất của cha nên không ý kiến đối với những phần đất do
anh chị em khác quản lý, xác định không liên quan đến việc tranh chấp giữa
T cùng ông T1 và bà C n yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.
Tại bản án dân sự thẩm số:316/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm
2024của Tòa án nhân dânhuyện Đầm Dơi tuyên Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hồng T. Buộc ông
Lưu Quang T1 bồi thường cho Nguyễn Hồng T số tiền 15.475.000 (mười lăm
triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng, buộc Lưu Kim C bồi thường cho
Nguyễn Hồng T số tiền 16.190.000 (mười sáu triệu một trăm chín mươi nghìn)
đồng. T được tiếp tục canh tác trên phần đất diện tích khoảng 23.328m
2
các vị ttiếp giáp: mặt tiền giáp lộ tông, mặt hậu giáp đất ông Mai Việt T7, 01
mặt bên giáp đất do ông Lưu Hoàng E quản lý, 01 mặt bên giáp đất do Lưu
Hồng Đ quản lý, tọa lạc ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
2. Không chấp nhận yêu cầu yêu cầu khởi kiện của T về việc yêu cầu
C bồi thường 11.192.000 (mười một triệu một trăm chín mươi hai nghìn) đồng, yêu
cầu ông T1 bồi thường 5.200.000 (năm triệu hai trăm nghìn) đồng.
Ngoài ra án thẩm còn tuyên vềlãi suất chậm thi hành, án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 03/10/2024, Lưu Kim Chi kháng C2 yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án
sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 07/10/2024,ông Lưu Quang T1, Lưu Tuyết X1 kháng cáoyêu cầu
cấp phúc thẩm sửa án thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu và yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
5
Các bị đơn người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu
cầukháng cáo
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ khoản 2 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự, khôngchấp nhận kháng cáo của các bị đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.Sửa phần án phí của bản án sơ thẩm đối với ông Lưu
Quang T1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của các bị đơn Lưu Kim C và ông Lưu Quang T1
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lưu Tuyết X1 còn trong hạn luật định.
[2] Các đương sự thống nhất việc được cha, mẹ cho mỗi anh em 06 công đất
sử dụng chung 01 cống xổ, anh em thỏa thuận từng người sẽ canh tác cả phần
đất khoảng 18 công tầm lớn tương ứng khoảng 23.328m
2
trong thời gian 03
năm.Đồng thời sẽ trả tiền thuê đất cho 02 người còn lại mỗi người 3.000.000
đồng/năm.
Ngày 06/6/2022 âm lịch, khi ông T1 hết thời hạn canh tác thì giao đất lại cho
T canh tác.Bà T rủ C hùn làm nên hai bên cùng đầu tư hưởng lợi trên
phần đất. Sau khi làm chung được 02 tháng, do phát sinh mâu thuẫn nên bà C
không tiếp tục làm chung với T. Ngày 18/9/2022 Tổ hòa giải ấp đã hòa giải
thành về sự việc T C hùn làm chung. Sau đó T tiếp tục canh tác đến
ngày 20/8/2023, bà C và ông T1 yêu cầu trả tiền thuê vuông năm thứ 2 nhưng bà T
không đồng ý nên xảy ra tranh chấp. Đến ngày 22/9/2023, gia đình bên T
ông T1 đã tiến hành họp thân tộc thống nhất 03 người cùng xổ chung 02 tháng, sau
đó T trách nhiệm lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp
Ngân hàng về để cắt đất ra cho anh em. Tuy nhiên sau khi xổ chung 02 tháng thì bà
T không thực hiện nên tranh chấp vẫn kéo dài chưa được giải quyết.
[3]Bà Thương yêu C3 Chi trả số tiền 9.792.000 đồng, trong đó bao gồm
lợi nhuận thu hoạch tôm ngày 01/8/2022 340.000 đồng, tiền C đã mua tôm
trong vuông chung cho bạn 250.000 đồng, số tiền 5.652.000 đồng đầu ban đầu
khi hùn làm vuông, giá trị của cái đục xổ vuông C đã lấy của 800.000
đồng.Bà C thừa nhận ngày 01/8/2022 xvuông nhưng bán được số tiền bao
nhiêu thì không nhớ, đưa lại cho bà T nhưng không chứng cứ chứng
minh, T không thừa nhận nên án thẩm buộc Chi T6 cho T số tiền
340.000 đồng.
Đối với số tiền T xác định C lấy tôm vuông cho bạn 250.000 đồng
nhưng không chứng cứ chứng minh, C không thừa nhận nên không sở
chấp nhận.
Đối với số tiền 5.652.000 đồng đầu ban đầu khi hùn làm vuông, tại biên
bản hòa giải 18/9/2022 của Tổ hòa giải ấp thể hiện việc bà T và bà C đã thống nhất
kết thúc việc hùn làm chung, C giao đất lại cho bà T canh tác, bàThương trả lại
cho C chi phí đã xuất ra 6.510.000 đồng bao gồm tiền mua tôm cua giống,
6
tiền thuê đất mà C đã trả ông T1 1.500.000 đồng và tiền thuê đất bà T trả cho
C 3.000.000 đồng. Do sự việc đã giải quyết nên yêu cầu này của T
không có cơ sở chấp nhận.Đối với yêu cầu trả giá trị của cái đục xổ vuông mà bà C
đã lấy, bà C xác định sự việc xảy ra, các đương sự thống nhất giá nên cần buộc
Chi T6 lại cho T 800.000 đồng. Các bên đã thỏa thuận hòa giải thành C
cũng đã nhận tiền của T cho nên việc kháng cáo của C không sở
chấp nhận.
[4] Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T yêu cầu C, ông T8 người trả số
tiền 2.750.000 đồng, xét thấy việc thỏa thuận canh tác chung trong thời gian 02
tháng đã được T đồng ý thực hiện nhằm mục đích đạt được sự thống nhất trong
việc bàn bạc cắt chia đất nên không có cơ sở chấp nhận.
[5] Đối với yêu cầukhởi kiện của bà T yêu cầu bà C, ông T1 trả giá trị tài sản
các vật dụng đã tự ý lấy ngày 04/12/2023 gồm 15 cái rập cua 01 lưới cá, tại
phiên tòa ông T1 thừa nhận lấy các vật dụng trên nhưng không chứng cứ
chứng minh việc trả lại cho T nên cần buộc ông T1 trả lại cho T 425.000
đồng.
[6] Đối với yêu cầukhởi kiện của T yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
thuê vuông như thỏa thuận yêu cầu C ông T1 bồi thường tiền mất thu
nhập trong khoảng 07 tháng 35.650.000 đồng, xét thấy theo thỏa thuận giữa các
bên thì bà T được canh tác từ ngày 06/6/2022 âm lịch, thời hạn được canh tác là 03
năm, do đó bà T được tiếp tục canh tác đến ngày 06/6/2025 âm lịch. Tại quyết định
sửa chữa bổ sung bản án ngày 17/10/2024 cấp sơ thẩm cũng đã có đính chínhquyết
định bản án về quyền được canh tác của T.
Đối với C, ông T1 xác định T vi phạm nghĩa vụ trả tiền thuê đất nên
đây lỗi của T, nhưng các bị đơn không thực hiện việc yêu cầu phản tố, nênán
thẩm đã giành quyềncho các đương sự quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết
bằng vụ án khác. Cho nên cấp phúc thẩm không xem xét trong vụ án này.
T xác định do C đã hùn làm thì thời gian canh tác phải kéo dài
06 năm, tuy nhiên tại biên bản hòa giải 18/9/2022 của Tổ hòa giải ấp đã thể hiện
kết thúc việc hùn hạp đã thanh toán xong, giữa T, ông T1 C không
thỏa thuận về việc kéo dài thời gian canh tác nên lời trình bày của bà T về nội dung
này là không có cơ sở chấp nhận.
Do vthời gian T được canh tác nên việc ông T1, C ngăn cản không
cho T canh tác đã làm thiệt hại cho T do đã đầu cải tạo, thả con giống.
Qua xác minh tại địa phương thu nhập trung bình mỗi tháng của người nuôi tôm
quảng canh trên diện tích tương đương từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng/
tháng. Đồng thời trong thời gian 02 tháng làm chung thì thu nhập mỗi tháng
4.125.000 đồng, từ đó xác định thu nhập bình quân mỗi tháng 4.300.000 đồng
phù hợp. Do đó thiệt hại của T được chấp nhận 4.300.000 đồng/tháng x 07
tháng = 30.100.000 đồng.Do C, ông T1 cùng ngăn cản T canh tác nên chia
nghĩa vụ mỗi người phải trả cho bà T là 15.050.000 đồng.
Ông T1 nghĩa vụ trả T 15.050.000 đồng +425.000 đồng = 15475.000
đồng
7
Chi trả cho T 15.050.000 đồng +340.000 đồng + 800.000 đồng =
16.190.000 đồng.
Án thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của T, buộc ông T1
bồi thường cho bà T 15.475.000 đồng, buộc C bồi thường cho T 16.190.000
đồng là phù hợp.
Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không cung cấp thêm tài liệu
chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị đơn và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của
các bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sửa phần án phí của bản án
sơ thẩm đối với ông Lưu Quang T1.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T thuộc trường hợp được miễn án phí do là
người cao tuổi. Bị đơn phải chịu án phí bà Lưu Kim C phải chịu 809.500 (tám trăm
lẻ chín nghìn năm trăm) đồng. Do ông T1 người cao tuổitại cấp thẩm không
đơn miễn án phí nên cấp thẩm buộc ông T1 phải chịu 773.750 (bảy trăm bảy
mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi). Tại cấp phúc thẩm ông T1 nộp đơn xin
miễn án phí kèm theo tài liệu Quyết định hỗ trợ chứng minh bộ đội xuất
ngũ,đây chứng cứ mới cho nên thuộc trường hợp được miễn án phí. vậy sửa
phần án phí của bản án sơ thẩm đối với ông T1.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T1 được miễn, C, X1 phải chịu đã
dự nộp được chuyển thu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lưu Quang Thái về phần án phí,
không chấp nhận kháng cáo của ôngLưu Quang Thái Thái, Bà Lưu Kim C1 bị đơn,
Bùi Tuyết X người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Sửa bản án dân sự thẩm số 316/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hồng T. Buộc ông
Lưu Quang T1 bồi thường cho Nguyễn Hồng T số tiền 15.475.000 (mười lăm
triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng, buộc Lưu Kim C bồi thường cho
Nguyễn Hồng T số tiền 16.190.000 (mười sáu triệu một trăm chín mươi nghìn)
đồng. T được tiếp tục canh tác đến ngày 06/6/2025 âm lịch trên phần đất
diện tích khoảng 23.328m
2
các vị trí tiếp giáp: mặt tiền giáp lộ bê tông, mặt hậu
giáp đất ông Mai Việt T7, 01 mặt bên giáp đất do ông Lưu Hoàng E quản lý, 01
mặt bên giáp đất do Lưu Hồng Đ quản lý, tọa lạc ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh
Mau.
8
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của Nguyễn Hồng T cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu ông Lưu Quang T1, Lưu Kim C
chậm thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu khoản i phát sinh tương ứng với
số tiền thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân s.
2. Không chấp nhận yêu cầu yêu cầu khởi kiện của T về việc yêu cầu
C bồi thường 11.192.000 (mười một triệu một trăm chín mươi hai nghìn) đồng, yêu
cầu ông T1 bồi thường 5.200.000 (năm triệu hai trăm nghìn) đồng.
3.Về án phí dân sự thẩm:Bà Nguyễn Hồng T, ông Lưu Quang T9 phải
chịu.Được miễn án phí. Lưu Kim C phải chịu 809.500 (tám trăm lẻ chín nghìn
năm trăm) đồng.
4. Án phí dân sự phúc thẩm:Ông T1 được miễn, C, X phải chịu.Ngày
03/10/2024, bà C đã dự nộp 300.000 đồng lai s0001792. Ngày 08/10/2024, X
đã dự nộp 300.000 đồng lai số 0001849. Tại Chi Cục thi hành dân sự huyện Đ,
được chuyển thu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi;
- Chi cục THADS huyện Đầm Dơi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
9
Tải về
Bản án số 144/2025/DSPT Bản án số 144/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 144/2025/DSPT Bản án số 144/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất