Bản án số 858/2024/DS-ST ngày 29/10/2024 của TAND huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 858/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 858/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 858/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 858/2024/DS-ST ngày 29/10/2024 của TAND huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê nhà |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Chánh (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 858/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Buộc ông Trần Quốc D có nghĩa vụ di dời tài sản và trả lại căn nhà đang thuê tọa lạc tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Anh T. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÌNH CHÁNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 858/2024/DS-ST
Ngày: 29-10-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê nhà
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
− Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tuấn Khương
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trần Thị Nga
2. Ông Phạm Văn Tuyền
− Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Phước – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
− Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Hiền – Kiểm sát viên
Ngày 23 tháng 10 năm 2024 và ngày 29 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án
nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án
thụ lý số: 328/2023/TLST-DS ngày 20 tháng 6 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng
thuê nhà” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 872/2024/QĐXXST-DS ngày 04
tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 732/2024/QĐST-DS ngày 26
tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Anh T, sinh năm: 1965
Địa chỉ: Số 63/2/6 đường Lê Văn Sỹ, Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí
Minh.
(Có mặt)
2. Bị đơn: Ông Trần Quốc D, sinh năm: 1979
Địa chỉ: Số B6/21 ấp 2, xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: Số 349 đường Tân Túc, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thúy T1 – Phó Trưởng phòng Tài nguyên
2
và Môi trường
(Văn bản ủy quyền số 1292/UBND ngày 10/4/2024)
(Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/6/2023; đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày
18/8/2023 và trong quá trình giải quyết vụ nguyên đơn ông Nguyễn Anh T trình
bày:
Vào năm 2006, ông Nguyễn Anh T có xây dựng mới 01 căn nhà tọa lạc tại
một phần thửa 101, tờ bản đồ số 21 (theo tài liệu BĐĐC); với diện tích 215,2m
2
,
tương ứng vị trí số (3), (4), (7), (8), tọa lạc tại xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố
Hồ Chí Minh theo Bản đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh (số hợp đồng: 14343/TTĐĐBĐ
– VPĐD) do Trung Tâm đo đạc Bản đồ thuộc Sở Tài Nguyên và Môi Trường Thành
phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/11/2023.
Năm 2012, ông T có ký hợp đồng với ông Trần Quốc D thuê tài sản là bất
động sản nhà ở nêu trên, theo Hợp đồng thuê mặt bằng ghi ngày; với giá tiền thuê
mỗi tháng là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Đồng thời, ông T có ký hợp đồng
vay với ông D với tiền lãi phải trả mỗi tháng là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
Do đó, hai bên đã bù trừ nghĩa vụ lẫn nhau, ông T không nhận tiền thuê nhà từ ông
D.
Đến ngày 01/07/2015, ông T và ông D đã ký thanh lý hợp đồng đối với hoạt
động cho thuê tài sản là bất động sản nhà ở, hai bên đã tất toán các nghĩa vụ với
nhau và chấm dứt việc ký tiếp hợp đồng cho thuê tài sản mới bằng văn bản. Do
chưa tìm được mặt bằng thuê mới, ông D xin gửi nhờ hàng hóa tại bất động sản nhà
nêu trên, và ông T đã đồng ý. Hai bên cùng nhau bàn bạc để thống nhất ký thỏa thuận
tại “Biên bản làm việc ngày 11/01/2023”, với nội dung cụ thể như sau: “… ông D cam
kết trả lại tài sản là bất động sản nhà ở, hạn chót đến hết ngày 31/3/2023…”. Tuy
nhiên, hết thời gian nêu trên, ông D có dấu hiệu chiếm đoạt luôn tài sản đang mượn
và cố tình không trả lại theo đúng cam kết tại giấy: “Biên bản làm việc ngày
11/01/2023”. Vì vậy, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Quốc
D bàn giao lại căn nhà đang thuê tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình Chánh,
Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản làm việc ngày 11/01/2023 và trả số tiền thuê
nhà còn nợ tính từ ngày 01/02/2023 đến tháng 3/2024 là 12.000.000 đồng/tháng x 14
tháng = 168.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi tám triệu đồng); đồng thời, ông D có
nghĩa vụ tiếp tục trả tiền thuê nhà cho đến khi ông T được nhận lại căn nhà nêu trên
và tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm trên tổng số tiền còn nợ phải trả.
Tại phiên tòa, nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
như sau:
− Yêu cầu tuyên xử Khu đất (có nhà ở gắn liền trên đất), tọa lạc tại một phần
thửa 101, tờ bản đồ số 21, theo tài liệu BĐĐC, có diện tích 215,2m
2
, tương ứng vị trí
số (3, 4, 7, 8), tọa lạc tại xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Bản
đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh (số hợp đồng: 14343/TTĐĐBĐ – VPĐD) do Trung
Tâm đo đạc Bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/11/2023 thuộc về sở hữu
3
Nhà Nước, do Nhà Nước quản lý cho thuê đất, theo hợp đồng thuê đất số 10502/HĐ-
GTĐ ngày 02/8/1999, ký giữa Sở địa chính - Nhà đất TP. Hồ Chí Minh với bà
Nguyễn Thị T2 (mất năm 2014), ông Nguyễn Anh T hiện đang thừa kế việc thuê đất
và quản lý việc sử dụng đất.
− Yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Quốc D có nghĩa vụ di dời tài
sản và trả lại căn nhà đang thuê tọa lạc tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình
Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Anh T.
− Đối với yêu cầu ông Trần Quốc D trả số tiền thuê nhà còn nợ tính từ ngày
01/02/2023 đến tháng 3/2024 là 12.000.000 đồng/tháng x 14 tháng = 168.000.000
đồng (Một trăm sáu mươi tám triệu đồng); đồng thời, ông D có nghĩa vụ tiếp tục trả
tiền thuê nhà cho đến khi ông T được nhận lại căn nhà nêu trên và tiền lãi với mức
lãi suất 10%/năm trên tổng số tiền còn nợ phải trả. Trong trường hợp, Tòa án xác
định hợp đồng thuê nhà là giao dịch dân sự vô hiệu thì ông T sẽ rút yêu cầu khởi kiện
đối với yêu cầu này.
Theo bản tự khai ngày 26/9/2024, bị đơn ông Trần Quốc D trình bày:
Ông D xác nhận có ký hợp đồng thuê căn nhà tọa lạc tại địa chỉ số A10/1 ấp
1, xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Anh T. Đến
năm 2022, hai bên đã làm thủ tục thanh lý hợp đồng thuê; tuy nhiên, do ông D chưa
tìm được chỗ mới để lưu giữ các tài sản của mình nên có xin gia hạn với ông T. Do
hiện nay, ông D cũng gặp khó khăn trong kinh doanh nên cũng chưa tìm được chỗ
mới. Nay ông T khởi kiện yêu cầu ông D di dời tài sản và trả lại căn nhà nêu trên thì
ông D đồng ý, nhưng xin cho thời gian là 20 ngày, ông D sẽ di dời tài sản và bàn
giao lại căn nhà nêu trên cho ông T.
Do trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo
về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự
tham gia tố tụng theo quy định; nhưng ông D vắng mặt không có lý do nên vụ án không
tiến hành hòa giải được và được đưa ra xét xử công khai.
Theo bản tự khai ngày 25/9/2024, người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thúy T1 trình bày:
Nhà đất tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình Chánh (trước đây là Nhà
máy xay xát lúa gạo Hòa Hiệp), bà Nguyễn Thị T2 (mẹ của ông Nguyễn Anh T – đã
chết) và Sở Địa chính – Nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh đã ký Hợp đồng thuê đất
số 10502/HĐ-GTĐ ngày 02 tháng 8 năm 1999 đối với khu đất diện tích 300m
2
thuộc
một phần thửa 91, tờ bản đồ số 07 (tài liệu 02/CT-UB), tương ứng một phần các
thửa 100, 101, tờ bản đồ số 21 (tài liệu BĐĐC), Bộ địa chính xã B, huyện Bình Chánh
(theo Bản vẽ sơ đồ nhà ở, đất ở số 369/ĐH2010 do Công ty Cổ phần Tư vấn – Xây
dựng – Đo đạc H lập ngày 26 tháng 5 năm 2010, được Phòng Tài nguyên và Môi
trường kiểm tra nội nghiệp ngày 31 tháng 5 năm 2010).
Đối với nội dung tranh chấp hợp đồng thuê nhà tại địa chỉ nêu trên giữa ông
Nguyễn Anh T và ông Trần Quốc D thì đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh
giải quyết theo quy định của pháp luật.
4
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố
Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
− Về tố tụng:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và Thư ký Tòa án đã
thực hiện đúng, đầy đủ quy định về thẩm quyền thụ lý và trong quá trình giải quyết
vụ án; Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định về việc
xét xử sơ thẩm vụ án. Tuy nhiên, Tòa án chưa đảm bảo về thời hạn chuẩn bị xét xử
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong
quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của
pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của
pháp luật.
− Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở
xác định phần nhà, đất ông Nguyễn Anh T cho ông Trần Quốc D thuê theo Hợp đồng
thuê mặt bằng số HĐ: 02/2012/HĐTMB ngày 01/7/2012 và Biên bản làm việc lập
ngày 11/01/2013 là tài sản thuộc quyền sử dụng và quản lý của Nhà nước cho bà
Nguyễn Thị T2 thuê theo Hợp đồng thuê đất số 10502/HĐ-GTĐ ngày 02/8/1999. Do đó,
có cơ sở xác định hợp đồng thuê nhà ký giữa ông T và ông D là giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật; nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đình chỉ xét xử về việc nguyên đơn rút một
phần yêu cầu khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Anh
T khởi kiện yêu cầu ông Trần Quốc D di dời tài sản và bàn giao lại căn nhà đang
thuê; bị đơn cư trú tại xã B, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh nên căn cứ vào
khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa:
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn ông Trần Quốc D vắng mặt không
vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Người đại diện theo ủy quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thúy Trân có đơn yêu cầu giải quyết
vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3.1] Đối với yêu cầu tuyên xử Khu đất (có nhà ở gắn liền trên đất), tọa lạc tại
một phần thửa 101, tờ bản đồ số 21, theo tài liệu BĐĐC, có diện tích 215,2m
2
,
5
tương ứng vị trí số (3, 4, 7, 8), tọa lạc tại xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ
Chí Minh theo Bản đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh (số hợp đồng: 14343/TTĐĐBĐ –
VPĐD) do Trung Tâm đo đạc Bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/11/2023
thuộc về sở hữu Nhà Nước, do Nhà Nước quản lý cho thuê đất, theo hợp đồng thuê
đất số 10502/HĐ-GTĐ ngày 02/8/1999, ký giữa Sở địa chính - Nhà đất Thành phố
Hồ Chí Minh với bà Nguyễn Thị T2 (mất năm 2014), ông Nguyễn Anh T hiện đang
thừa kế việc thuê đất và quản lý việc sử dụng đất. Hội đồng xét xử xét thấy yêu
cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn chưa được thụ lý, vượt quá phạm vi đơn
khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3.2] Đối với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Quốc D có nghĩa vụ
di dời tài sản và trả lại căn nhà đang thuê tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình
Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Anh T. Căn cứ Hợp đồng thuê mặt
bằng số HĐ: 02/2012/HĐTMB ngày 01/7/2012 và Biên bản làm việc lập ngày
11/01/2013, có cơ sở xác định ông Trần Quốc D có thuê của ông Nguyễn Anh T 01
căn nhà tọa lạc tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Về nguồn gốc căn nhà, căn cứ Hợp đồng thuê đất số 10502/HĐ-GTĐ ngày
02/8/1999 thì bà Nguyễn Thị Tám (mẹ của ông Nguyễn Anh T) có ký hợp đồng thuê
đất với Sở Địa chính – Nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 300m
2
; thuộc
một phần thửa 91, tờ bản đồ số 07 (tài liệu 02/CT-UB), tương ứng một phần các thửa
100, 101, tờ bản đồ số 21 (tài liệu BĐĐC) tọa lạc tại xã B, huyện Bình Chánh,
Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, ông T có xây dựng một căn nhà trên phần diện tích
đất thuê nêu trên theo Bản đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh (số hợp đồng: 14343/TTĐĐBĐ
– VPĐD) do Trung Tâm đo đạc Bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/11/2023.
Hội đồng xét xử xét thấy, căn nhà tọa lạc trên phần bất động sản nêu trên là tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước. Ông T vẫn đang tiếp tục thuê, sử dụng phần diện tích đất
300m
2
và nộp tiền thuê đất hằng nằm theo Hợp đồng thuê đất số 10502/HĐ-GTĐ
ngày 02/8/1999. Vì vậy, việc nguyên đơn thực hiện giao dịch dân sự ký hợp đồng cho
bị đơn thuê mà chưa được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền nên bị vô hiệu
do vi phạm điều cấm của luật được quy định tại khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai
năm 2013; khoản 1 Điều 117, Điều 122 và Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Do đó, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn ông Trần Quốc D có nghĩa
vụ di dời tài sản và trả lại căn nhà đang thuê tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình
Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Anh T là phù hợp với quy định tại
Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và có cơ sở chấp nhận.
[3.3] Tại phiên tòa, nguyên đơn rút lại yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn có
nghĩa vụ tiếp tục trả tiền thuê nhà và tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm trên tổng
số tiền còn nợ phải trả; việc rút yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện nên Hội đồng
xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu nêu trên.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
6
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 5; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 244
và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Khoản 1 Điều 117; Điều 122 và Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013;
Điều 26 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
I. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
1. Ông Trần Quốc D có nghĩa vụ di dời tài sản và trả lại căn nhà đang thuê
tại địa chỉ số A10/1 ấp 1, xã B, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn
Anh T.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
bị đơn tục trả tiền thuê nhà và tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm trên tổng số tiền
còn nợ phải trả.
3. Về án phí: Ông Trần Quốc D chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng).
Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Anh T số tiền 4.050.000 đồng (Bốn triệu không
trăm năm mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số AA/2021/0042592 ngày 09/3/2023 và số AA/2023/0020219 ngày
12/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án
dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a
và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự
năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
II. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được
tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
7
Nơi nhận:
− Đương sự;
− VKSND H. Bình Chánh;
− Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tuấn Khương
Tải về
Bản án số 858/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 858/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Bản án số 657/2024/DS-PT ngày 20/08/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 18/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 15/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 11/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 09/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 02/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm