Bản án số 511/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 511/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 511/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 511/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 511/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê nhà |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 511/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nay nguyên đơn yêu cầu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 511 /2024/DS-PT
Ngày 24 – 12– 2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê nhà, đất;
hợp đồng chuyển nhượng QSD đất và
hợp đồng vay tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Ninh Quang Thế
Ông Đặng Minh Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thị Thuý Hồng – Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 408/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng 10
năm 2024 về việc: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà, đất; hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 245/2024/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 309/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Dương Tấn D1, sinh năm 1975;
2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1978;
Cùng địa chỉ cư trú: Số 341, đường Lê Hồng Phong, khóm 7, phường 8,
thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Dương Tấn D1 và bà
Nguyễn Thị L1: Ông Tăng Tấn L2, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: Số 190, Quang
Trung, khóm 5, phường 5, thành phố C, tỉnh C . (Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị L1: Bà Du Thị
Bột, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Mũi Cà Mau – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà
Mau (Có mặt).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1968
2
Địa chỉ cư trú: Nhà không số, đường L, khóm 7, phường 8, thành phố C, tỉnh
C.
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị U: Ông Trần Chi
L3, sinh năm 1975; địa chỉ cư trú: Ấp 1, xã H, huyện Nn, tỉnh C (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Ngô Hồng T1, sinh năm 1966 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Nhà k, khóm 7, phường 8, thành phố C, tỉnh C ..
2 Chị Ngô Thị Trà M, sinh năm 1993(Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Số 180 Tonnelle Ave, Jereey City, NJ 07306 thành phố
Jereey, Tiểu bang New Jereey, Hoa Kỳ.
3. Chị Ngô Thái Huỳnh, sinh năm 2000 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp Đ, xã P, huyện T, tỉnh C
4. Anh Ngô Thái B, sinh năm 2002 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Nhà không số, đường L, khóm 7, phường 8, thành phố Cà
Mau, tỉnh Cà Mau.
5. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín;
Địa chỉ trụ sở: số 164A, Nguyễn T, phường 8, thành phố C ..
Người đại diện theo ủy quyền: Bà nguyễn Thị Kim Thanh – Trưởng phòng
kiểm soát rủi ro Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T2, Cà Mau (Vắng mặt).
6. Ông Nguyễn Văn D2, sinh năm 1978 (Vắng mặt);
7. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1975 (Vắng mặt);
8. Anh H Khánh Linh, sinh năm 1995 (Vắng mặt);
9. Chị Lương Thị T3, sinh năm 1997 (Vắng mặt);
10. Anh Quách Trường N, 1997 (Vắng mặt);
11. Anh Phạm Chí T4, sinh năm 1982 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Nhà t, Lê H, khóm 7, phường 8, thành phố C, tỉnh C ..
12. Chị Trương Thị Bích T5, sinh năm 1991 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Số 114/10, Quang T, khóm 2, phường 5, thành phố C, tỉnh C
. .
13. Ông Nguyễn Tấn L5, sinh năm 1987(Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Số 232, Nguyễn Đ, khóm 8, phường 8, thành phố C, tỉnh C ..
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị U, là bị đơn; Ông Ngô Hồng T1 , anh
Ngô Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngày 22/6/2022, ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 (nguyên đơn) có
nhận chuyển nhượng của ông Ngô Hồng T1 căn nhà và đất diện tích 305,5m
2
thửa
số 255, tờ bản đồ số 59 tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau,
được Uỷ ban nhân dân (UBND) thành phố Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử
3
dụng đất cho hộ ông Ngô Hồng T1 (điều chỉnh sang tên cho nguyên đơn ngày
31/10/2022), giá chuyển nhượng 04 tỷ đồng.
Ngày 26/10/2022, nguyên đơn thỏa thuận cho bà Nguyễn Thị U (bị đơn)
thuê căn nhà và đất trên, giá thuê 16.000.000 đồng/tháng, thời hạn thuê 01 năm.
Quá trình thuê nhà, bà U thực hiện đúng thỏa thuận. Từ tháng 7/2023 đến nay bà U
không trả tiền thuê nhà cho nguyên đơn, hợp đồng thuê nhà và đất đã hết hạn. Nay
nguyên đơn yêu cầu: Hủy hợp đồng thuê nhà ngày 26/10/2022 giữa nguyên đơn
với bà U, buộc bà U di dời tài sản trả lại nhà và đất cho nguyên đơn, đồng thời yêu
cầu bà U trả tiền thuê nhà cho nguyên đơn 64.000.000 đồng (tạm tính đến tháng
10/2023). Hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính) nguyên đơn
đang thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần (TMCP) Sài Gòn
Thương Tín - Chi nhánh Cà Mau.
- Theo bị đơn trình bày:
Năm 2004, hộ gia đình của bà Nguyễn Thị U và ông Ngô Hồng T1 được
UBND thành phố Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích
305,5m
2
thửa số 255, tờ bản đồ số 59 (theo bản đồ 299 là thửa 122, tờ bản đồ số
41) tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ gồm có ông Ngô Hồng T1 (chủ hộ), bà
Nguyễn Thị U, các con là Ngô Thị Trà M, Ngô Thái Huỳnh và Ngô Thái B.
Bị đơn đã thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng TMCP Công Thương
Việt Nam - Chi nhánh Cà Mau. Đến năm 2020 phát sinh nợ xấu, sợ Ngân hàng
phát mãi nên ông T1 và bà U có vay của ông D1 và bà L1 số tiền 600.000.000
đồng, lãi 8%/tháng để trả tiền Ngân hàng, bị đơn đóng lãi một thời gian thì không
có khả năng trả lãi nữa.
Ngày 28/7/2022, nguyên đơn tính vốn, lãi là 1.800.000.000 đồng và yêu cầu
bị đơn làm hợp đồng thế chấp đất trên. Ngày 22/6/2022, nguyên đơn yêu cầu bị
đơn ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất trên cho nguyên đơn, được công chứng
tại Văn phòng công chứng Trần Mai Hương. Đến ngày 31/10/2022, nguyên đơn
làm thủ tục sang tên cho nguyên đơn (chỉnh lý trang IV). Ngày 02/10/2022, nguyên
đơn yêu cầu bị đơn ký hợp đồng thuê đất. Ngày 10/4/2023, nguyên đơn tiếp tục
yêu cầu bị đơn ký giấy thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trên ước tính
4.000.000.000 đồng, trong đó nguyên đơn giao cho bị đơn 2.000.000.000 đồng tiền
đặt cọc chuộc sổ của Ngân hàng, thực tế bị đơn không nhận tiền của nguyên đơn.
Số tiền 2.000.000.000 đồng là tiền gốc và lãi của hợp đồng thế chấp ngày
28/7/2022. Việc chuyển nhượng là giả tạo che đậy hợp đồng vay số tiền gốc là
600.000.000 đồng.
Bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng thuê đất ngày 02/10/2022, hủy hợp đồng thế
chấp tài sản ngày 28/7/2022, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 22/6/2022 và Giấy thỏa thuận ngày 10/4/2023 giữa ông Ngô Hồng T1 và bà
Nguyễn Thị U với ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1. Nhà và đất tranh
chấp hiện nay ông T1 và bà U đang quản lý, sử dụng. Bị đơn không đồng ý trả tiền
thuê nhà 64.000.000 đồng. Lý do thực tế bị đơn không có thuê nhà mà đây là tiền
lãi của khoản vay 600.000.000 đồng.
4
- Đại diện Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín trình bày:
Ngày 07/7/2023, ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 ký hợp đồng tín
dụng số 202327153704 để vay vốn với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T2 Cà
Mau và sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 202327153704/1 ngày 02/11/2023,
sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 202327153704/2 ngày 08/11/2023 để vay
11.000.000.000 đồng, mục đích bổ sung vốn mua bán ô tô, mô tô, phụ tùng xe
máy, thu mua thủy hải sản, thời hạn vay 12 tháng. Ngày 09/11/2023, ông D1 và bà
L1 ký giấy nhận nợ số LD 2331300511 số tiền 3.050.000.000 đồng, lãi suất
7%/năm. Để đảm bảo khoản vay, ông D1 và bà L1 ký hợp đồng thế chấp tài sản số
202310262200692 ngày 08/11/2023 tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất thửa số 255, tờ bản đồ số 59, diện tích 305,50m
2
tại khóm 7,
phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau do ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn
Thị L1 đứng tên.
Nay ông D1 và bà L1 tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với bà Nguyễn Thị U đã vi phạm mục 1 các điều khoản chung của hợp đồng tín
dụng và khoản 1 Điều 6 của hợp đồng thế chấp. Do đó Ngân hàng yêu cầu ông D1
và bà L1 thanh toán cho Ngân hàng tính đến ngày 02/5/2024 là 2.565.160.000
đồng, nợ gốc là 2.550.000.000 đồng, lãi 15.160.000 đồng và lãi phát sinh theo hợp
đồng tín dụng. Trường hợp ông D1 và bà L1 không trả nợ thì Ngân hàng yêu cầu
Tòa án xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Đối với yêu cầu của phía bị đơn là yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản
sản số 202310262200692 ngày 08/11/2023 giữa Ngân hàng với ông D1 và bà L1
thì Ngân hàng không đồng ý. Lý do tài sản thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo
đảm theo pháp luật.
- Theo chị Ngô Thị Trà M trình bày:
Giấy chứng nhận quyền sử đụng đất số Đ 203572 do UBND thành phố Cà
Mau cấp ngày 07/4/2004 là cấp cho hộ ông Ngô Hồng T1, do ông T1 ký hợp đồng
chuyển nhượng cho ông D1 và bà L1 nhưng các thành viên của hộ gồm ông T1 là
bà Nguyễn Thị U, Ngô Thị Trà M, Ngô Thái Huỳnh và Ngô Thái B không biết,
không ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng là không đúng quy định của pháp luật.
Tai thời điểm chuyển nhượng, chị M đang sinh sống tại Mỹ, không có mặt tại Việt
Nam.
Chị M yêu cầu Hủy hợp đồng thuê đất ngày 02/10/2022, Hủy hợp đồng thế
chấp tài sản ngày 28/7/2022, Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 22/6/2022 và Giấy thỏa thuận ngày 10/4/2023 giữa ông Ngô Hồng T1 và bà
Nguyễn Thị U với ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1. Chị M không đồng ý
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu Toà án xét xử vắng mặt.
- Theo chị Ngô Thái Huỳnh và anh Ngô Thái B trình bày:
Chị H và anh B thống nhất với ý kiến của chị Ngô Thị Trà M. Chị H và anh
B yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 245/2024/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
5
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Tấn D1 và bà
Nguyễn Thị L1. Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị U phải di dời trả lại nhà và đất
305,50m
2
theo đo đạc thực tế 306,4m
2
thuộc thửa số 255, tờ bản đồ số 59 (nay là
thửa số 192, thuộc thửa 122 tờ bản đồ 41) tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà
Mau, tỉnh Cà Mau.
Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị U phải thanh toán tiền thuê nhà đất cho nguyên
đơn 208.000.000 đồng (Hai trăm lẻ tám triệu đồng).
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T2
về việc buộc ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 thanh toán cho Ngân hàng
2.565.160.000 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Ngô Hồng T1 và bà
Nguyễn Thị U về việc hủy hợp đồng thuê đất ngày 02/10/2022 giữa nguyên đơn
với bị đơn, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/6/2022 giữa
ông Ngô Hồng T1 và bà Nguyễn Thị U với ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị
L1, hủy hợp đồng thế chấp tài sản số 202310262200692 ngày 08/11/2023 giữa ông
Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T2
đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thửa số 255, tờ bản đồ số 59,
diện tích 305,5m
2
tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Ngày 28/8/2024, bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1, anh Ngô Thái B, chị
Ngô Thái Huỳnh có đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị U giữ
nguyên kháng cáo. Ông Ngô Hồng T1, anh Ngô Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh có
đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và giữ nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Ông L3 phát biểu: Việc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(QSDĐ) từ Hộ ông Ngô Hồng T1 sang ông Ngô Hông T1 là không đúng quy định
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi các thành viên của hộ. Toà án cấp sơ thẩm căn
cứ và báo cáo số 132 ngày 08/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố Cà Mau để làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng pháp luật. Hợp
đồng chuyển nhượng giữa nguyên đơn với ông T1 là giả tạo để che đậy giao dịch
khác. Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ để
đánh giá sự thật khách quan của vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử ngừng
phiên toà để thu thập thêm tài liệu chứng cứ, trường hợp cấp phúc thẩm không
khắc phục được thì đề nghị huỷ án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Toà án cấp sơ thẩm
giải quyết lại vụ án.
Luật sư Bột phát biểu: Bị đơn không cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ
để chứng minh bị đơn vay tiền của nguyên đơn nhưng lập hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ. Việc điều chỉnh Giấy chứng nhận QSDĐ từ hộ ông Ngô Hồng T1
sang ông Ngô Hồng T1 bắt buộc ông T1 phải biết. Do đó, kiến nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận kháng cáo của bà U, ông T1, chị H, anh B, giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
Ông L2 phát biểu: Thống nhất với ý kiến phát biểu của Luật sư Bột.
Chị Trân không có ý kiến tranh luận.
6
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1 , anh Ngô
Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1, anh Ngô Thái B,
chị Ngô Thái Huỳnh, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Nguồn gốc đất tranh chấp do ông Ngô Hồng T1 nhận chuyển nhượng của
ông Lê Lương Minh và bà Nguyễn Hạnh Thi vào ngày 25/3/2004, hợp đồng được
xác lập và xác nhận tại Ủy ban nhân dân phường 8, thành phố Cà Mau. Ngày
07/4/2004, Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số Đ 203572 diện tích 305,5m
2
thửa số 255, tờ bản đồ số 59 tại khóm 7,
phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau cho hộ ông Ngô Hồng T1; đến ngày
20/6/2022 được đính chính cấp cho ông, bà Ngô Hồng T1. Tại Báo cáo số 132/BC-
NCVPĐKĐĐ ngày 08/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố
Cà Mau xác định: “Việc đính chính từ Hộ ông (bà) thành ông bà căn cứ thực hiện
theo Thông báo số 119/TB-STNMT ngày 04/4/2018 thông báo ý kiến kết luận của
Giám đốc Sở tài nguyên và Môi trường...vì vậy trường hợp hồ sơ lưu thể hiện cá
nhân nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho thì thực hiện đính chính lại thành ông
(bà). Về trình tự thủ tục và thành phần hồ sơ theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 86
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ..”. Theo hồ sơ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Ngô Hồng T1 thể hiện cá nhân ông
Ngô Hồng T1 nhận chuyển nhượng của ông Lê Minh Lương và bà Nguyễn Hạnh
Thi và cá nhân ông T1 kê khai đăng ký. Ngày 20/6/2022, Ủy ban nhân dân thành
phố Cà Mau xác nhận nội dung hộ ông (bà) Ngô Hồng T1 có sai sót, được đính
chính lại là “ông (bà) Ngô Hồng T1” theo biên bản kiểm tra ngày 17/6/2022 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Cà Mau. Như vậy, Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Cà Mau thực hiện đính chính từ hộ sang cá nhân
ông Ngô Hồng T1 là đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Hơn nữa, sau
khi đính chính từ hộ sang cá nhân thì gia đình ông Ngô Hồng T1 không ai có ý
kiến phản đối hay khiếu nại gì. Ngày 22/6/2022, ông T1 và bà U ký hợp đồng
chuyển nhượng cho nguyên đơn phần đất diện tích 305,5m
2
thửa số 255, tờ bản đồ
số 59 được Công chứng tại Văn phòng công chứng Trần Mai Hương là phù hợp
với quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013. Ngày 31/10/2022 nguyên
đơn đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, chỉnh lý trang IV cho nguyên đơn là
tuân thủ quy định về hình thức. Nội dung của hợp đồng chuyển nhượng không vi
phạm điều cấm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T1 và bà U với nguyên đơn là đã phát sinh
hiệu lực pháp luật nên các bên phải thực hiện. Người đại diện hợp pháp của bị đơn
cho rằng UBND thành phố Cà Mau cấp đất cho hộ nhưng đính chính từ hộ sang cá
nhân là vi phạm quy định của pháp luật, ông T1 không biết việc đính chính từ Hộ
sang ông T1, là không có căn cứ.
[2] Đối với giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn xác định giá trị trên hợp đồng là 150.000.000 đồng nhằm
7
để “tránh thuế”. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn cũng thừa nhận
giá chuyển nhượng theo thỏa thuận là 4.000.000.000 đồng, nhưng cho rằng bị đơn
ký hợp đồng chuyển nhượng cho nguyên đơn là hợp đồng giả cách để che đậy hợp
đồng vay, vì năm 2020 ông T1 và bà U vay của nguyên đơn 600.000.000 đồng, lãi
8%/tháng, đến ngày 27/8/2022 nguyên đơn tính lãi cộng vốn là 1.800.000.000
đồng và buộc ông T1 và bà U ký hợp đồng thế chấp. Ngày 22/6/2022 nguyên đơn
yêu cầu bị đơn ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho nguyên đơn và được
chỉnh lý trang IV ngày 31/10/2022. Đến ngày 10/4/2023 nguyên đơn tiếp tục yêu
cầu bị đơn ký Giấy thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trên là 4.000.000.000
đồng, trong đó nguyên đơn giao cho bị đơn 2.000.000.000 đồng tiền đặt cọc chuộc
sổ Ngân hàng, thực tế bị đơn không nhận tiền chuyển nhượng của nguyên đơn. Xét
lời trình bày của người đại diện hợp pháp của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận.
Bởi lẽ, mặc dù nguyên đơn không cung cấp giấy tờ chứng minh việc giao nhận tiền
nhưng giá trị chuyển nhượng các bên thống nhất là 4.000.000.000 đồng, ông T1 và
bà U đã nhận tiền tại nhà của nguyên đơn có sự chứng kiến của ông Nguyễn Tấn
L5 và ông Phan Hoài Vũ. Theo ông Vũ xác định “..Ông T1 và bà U đã nhận đủ
tiền và bàn giao nhà, đất cho ông D1 và bà L1, ông có chứng kiến việc bàn giao”.
Đồng thời ông Vũ cam kết lời trình bày của mình là đúng sự thật và chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Hơn nữa, sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, bà U tiếp
tục ký hợp đồng thuê nhà đất của nguyên đơn. Phía bị đơn cho rằng ông T1 và bà
U vay của nguyên đơn số tiền 600.000.000 đồng, lãi 8%/tháng; các bên ký hợp
đồng chuyển nhượng là giả tạo để che đậy hợp đồng vay, bị đơn không có nhận
tiền của nguyên đơn, nhưng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh, nên
không có cơ sở để chấp nhận.
[3] Đối với hợp đồng thế chấp tài sản ngày 28/7/2022 thể hiện: Ông T1, bà
U thế chấp căn nhà và thửa đất số 122/581.1 cho nguyên đơn với số tiền
1.800.000.000 đồng, có ông Phan Hoài Vũ chứng kiến. Theo ông Vũ thì thửa số
122 do ông Lê Minh Nhàn đứng tên tổng diện tích 681,1m
2
là em chồng thứ bảy
của bà U, thửa này giáp ranh với nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng của ông T1
và bà U ngày 22/6/2022. Lời trình bày của ông Vũ là phù hợp với bản đồ 2009
kèm theo Văn bản phúc đáp số 13 ngày 20/8/2024 của Chi nhánh Công ty TNHH
Tư vấn xây dựng đo đạc bản đồ Tấn Cường tại Cà Mau là thửa 122 do ông Lê
Thanh Nhàn đứng tên (nay thửa 251). Đối với Giấy thỏa thuận về việc chuyển
nhượng tài sản ngày 10/4/2023 thể hiện ông T1 và bà U chuyển nhượng là quyền
sử dụng đất và tài sản trên đất thửa số 122, tờ bản đồ số 41, diện tích 305,5m
2
...
ông T1 và bà U đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Văn phòng đăng
ký đất đai chỉnh lý trang IV vào tháng 5/2015. Tại Báo cáo số 132 ngày 08/8/2024
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Cà Mau xác định thửa số 251
và 255, tờ bản đồ số 59 (theo bản đồ 1998) nay đều thuộc thửa số 122 tờ bản đồ số
41 (theo bản đồ 2009). Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông (bà) Lê Thanh Nhàn diện tích 305,50m
2
là thửa 251, tờ bản đồ 59 được chỉnh
lý trang IV cho ông T1 và bà U vào tháng 5/2015 so với tài sản chuyển nhượng
trong Giấy thỏa thuận ngày 10/4/2023 là cùng một thửa. Như vậy, hợp đồng thế
chấp tài sản 28/7/2022 và Giấy thỏa thuận ngày 10/4/2023 mà người đại diện hợp
pháp của bị đơn trình bày là thửa đất khác (thửa 251, tờ bản đồ số 59 nay là thửa số
8
122, tờ bản đồ 41), đang được Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau giải quyết lại
trong vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa nguyên đơn ông Nguyễn Tấn L5 với
bị đơn ông Ngô Hồng T1 và bà Nguyễn Thị U. Do đó, bị đơn phản tố yêu cầu Hủy
hợp đồng thế chấp tài sản ngày 28/7/2022 và Hủy Giấy thỏa thuận ngày 10/4/2023
giữa ông Ngô Hồng T1 và bà Nguyễn Thị U với ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn
Thị L1 là không liên trong vụ án mà nguyên đơn khởi kiện.
[4] Đối với yêu cầu của nguyên đơn kiện bị đơn di dời tài sản trả lại nhà và
đất cho nguyên đơn, xét về hình thức hợp đồng thuê nhà, đất được xác lập giữa
nguyên đơn với bị đơn ngày 02/10/2022 âm lịch (nhằm ngày 26/10/2022 dương
lịch) là phù hợp với quy định tại Điều 121 Luật nhà ở năm 2014. Về nội dung của
hợp đồng thuê nhà, đất diện tích 305,5m
2
thửa số 255, tờ bản đồ số 59 tại khóm 7,
phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, thời hạn 01 năm kể từ ngày
02/10/2022 âl đến ngày 02/10/2023 âl, giá thuê mỗi tháng 16.000.000 đồng, trả
hàng tháng vào ngày cuối tháng là có thực tế, có chứng kiến của ông Phan Hoài Vũ
và ông Toàn (là cháu của bị đơn). Người đại diện hợp pháp của bị đơn xác định
đúng là chữ ký của bị đơn trong hợp đồng. Tại biên bản hòa giải ngày 07/12/2023,
người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng bị đơn không có thuê nhà, tiền thuê
nhà 64.000.000 đồng là tiền lãi của khoản vay 600.000.000 đồng mà bị đơn đã vay
năm 2020, lãi suất 08%/tháng nhưng không có chứng cứ chứng minh, nguyên đơn
không thừa nhận. Hợp đồng thuê nhà giữa các bên đã hết hạn ngày 14/11/2023 dl.
Như vậy, hợp đồng thuê nhà, đất do các bên xác lập là tự nguyện, hình thức và nội
dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên các bên có trách nhiệm
thực hiện. Do đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền thuê nhà từ tháng 7/2023 đến
ngày xét xử sơ thẩm là 13 tháng với số tiền 208.000.000 đồng, Toà án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.
[5] Đối với yêu cầu của bị đơn về việc hủy hợp đồng thế chấp tài sản số
202310262200692 ngày 08/11/2023 giữa ông D1 và bà L1 với Ngân hàng TMCP
Sài Gòn Thương T2 đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thửa số
255, tờ bản đồ số 59, diện tích 305,5m
2
, xét thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa nguyên đơn với ông T1 và bà U được xác lập ngày 22/6/2022 đã
phát sinh hiệu lực pháp luật, nên nguyên đơn đã dùng tài sản này thế chấp cho
Ngân hàng để vay tiền, tài sản thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo
pháp luật. Do đó bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản giữa nguyên đơn
với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T2 ngày 08/11/2023 là không có cơ sở
chấp nhận.
[6] Từ nhận định trên, xét thấy bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ. Do đó,
cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1,
anh Ngô Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà là phù hợp.
[7] Đối với ý kiến tranh luận của đại diện bị đơn đề nghị ngừng phiên toà để
thu thập thêm tài liệu chứng cứ, trường hợp không khắc phúc được thì huỷ bản án
sơ thẩm, là không có cơ sở để chấp nhận.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1, anh Ngô
Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh phải chịu theo quy định.
9
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra
xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1, anh
Ngô Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 245/2024/DS-ST ngày 21 tháng 8
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị
L1.
Buộc bà Nguyễn Thị U phải di dời tài sản trả lại nhà và đất diện tích
305,50m
2
(theo đo đạc thực tế diện tích 306,4m
2
) thuộc thửa số 255, tờ bản đồ số
59 (nay là thửa số 192, thuộc thửa 122 tờ bản đồ 41) tại khóm 7, phường 8, thành
phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau cho ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1.
Buộc bà Nguyễn Thị U phải thanh toán tiền thuê nhà đất cho ông Dương
Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 số tiền 208.000.000 đồng.
Kể từ ngày ông D1, bà L1 có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành
xong khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng bà U còn phải chịu thêm khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự.
- Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn Thương Tín về việc buộc ông Dương Tấn D1 và bà Nguyễn Thị L1 thanh toán
cho Ngân hàng 2.565.160.000 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng.
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Ngô Hồng T1 và bà
Nguyễn Thị U về việc hủy hợp đồng thuê đất ngày 02/10/2022 giữa ông Dương
Tấn D1, bà Nguyễn Thị L1 với bà Nguyễn Thị U; hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 22/6/2022 giữa ông Ngô Hồng T1, bà Nguyễn Thị U với
ông Dương Tấn D1, bà Nguyễn Thị L1; hủy hợp đồng thế chấp tài sản số
202310262200692 ngày 08/11/2023 giữa ông Dương Tấn D1, bà Nguyễn Thị L1
với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín đối với quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất thửa số 255, tờ bản đồ số 59, diện tích 305,5m
2
tại
khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
- Chi phí tố tụng: Ông Ngô Hồng T1 và bà Nguyễn Thị U phải chịu chi phí
đo đạc và chi phí thẩm định giá là 23.344.000 đồng (đã nộp xong).
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị U phải chịu 5.400.000 đồng. Ngày 28/11/2023, ông Ngô
Hồng T1 và bà U đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007715 của Chi
10
cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ, bà U còn phải nộp tiếp
5.100.000 đồng.
Ông Dương Tấn D1, bà Nguyễn Thị L1 không phải chịu. Ngày 15/11/2023,
ông D1 và bà U đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007618 của Chi cục
thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được nhận lại.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín không phải chịu. Ngày 17/4/2024,
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín đã dự nộp 41.501.000 đồng theo biên lai
thu số 0008437 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được nhận lại.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị U, ông Ngô Hồng T1, anh Ngô
Thái B, chị Ngô Thái Huỳnh mỗi người phải chịu 300.000 đồng. Ngày 28/8/2024,
bà U, ông T1, anh B, chị H mỗi người đã dự nộp 300.000 đồng theo các biên lai
thu tiền số 0009240, 0009241, 0009242, 0009243 của Chi cục thi hành án dân sự
thành phố Cà Mau được chuyển thu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 511/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 511/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 657/2024/DS-PT ngày 20/08/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 15/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm