Bản án số 382/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 382/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 382/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 382/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Y án Sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 382/2024/DS-PT
Ngày 30/8/2024
“V/v tranh chấp hợp đồng thuê
nhà, đòi lại tài sản, yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hủy
GCNQSDĐQSH nhà tài
sản khác gắn liền với đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xphúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Ch tọa phiên tòa: Ông Võ Bảo Anh
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Bình
Bà Trần Thị Thanh Giang
- Thư phiên tòa: Thị Phong Lan TTòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Nguyễn Thị Thủy
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Trong các ngày 28 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ xét xphúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 589/2023/TLPT-DS ngày
20 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp “hợp đồng thuê nhà; đòi lại tài sản; yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sn khác gắn liền với đất” do Bản án dân sự sơ
thẩm s277/2023/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 Quyết định sửa chữa, bổ
sung bản án thẩm số: 230/2023/QD0-SCBSBA ngày 19 tháng 10 năm 2023 của
Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 110/2024/QĐ-PT ngày 01
tháng 3 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 145/2024/QĐPT-DS ngày
20/3/2024; Thông báo mở lại phiên tòa số: 268/TB-TA ngày 15/4/2024 số:
295/TB-TA ngày 15/8/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đoàn Thu S, sinh năm 1971.
Địa chỉ: 2 đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
Chỗ ở hiện nay: A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973.
Địa chỉ liên hệ: E H, phường T, quận N, TP Cần Thơ (theo văn bản ủy quyền
2
ngày 28/12/2023), (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Đỗ Thu H, sinh năm 1984.
Địa chỉ HKTT: 504 đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
Tạm trú: 329N/10 khu vực 3, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Văn Á, sinh năm 1990, ông Huỳnh N,
sinh năm 1997; Cùng địa chỉ liên hệ: số A T, phường H, quận N, thành phố Cần
Thơ (ông Á có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: ông Trịnh Hữu B là Luật
sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố C (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1/ Phạm Thị Lệ H1, ông Đỗ Tiến H2, ông Đỗ Tiến H3, cháu Đỗ Huỳnh
A, Đỗ Như Ý.
Cùng địa chỉ tạm trú: 329N/10 khu vực 3, phường A, quận N, thành phố Cần
Thơ.
3.2/ Bà Tống Hoàng M, sinh năm: 1970
Địa chỉ: A T, khu V, phường C, quận Ô, TP Cần Thơ (có đơn xin giải quyết
vắng mặt).
3.3/ Bà Phạm Bích N1, sinh năm 1966
Địa chỉ: A tỉnh lộ 918, hẻm E, phường B, quận B, TP Cần Thơ.
3.4/ Văn phòng C (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
Địa chỉ: C N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
3.5/ Văn phòng công chứng Nguyễn Thanh Đ1 (trước đây Phòng C1,
thành phố Cần Thơ), (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
Địa chỉ: A T, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ.
3.6/ n phòng công chứng Nguyễn Thị Bích L (trước đây Phòng C2,
thành phố Cần Thơ ), (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
Địa chỉ: C N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.
3.7/ Ủy ban nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ (có yêu cầu giải quyết
vắng mặt)
Địa chỉ: B N, phường T, quận N, TP Cần Thơ.
* Người kháng cáo: Bà Đỗ Thu H là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn trình bày và yêu cầu tại đơn khởi kiện ngày 11/01/2021, lời khai
của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình tố tụng:
Ngày 28/6/2013, trên cơ sở tnguyện Đỗ Thu H Hợp đồng
thuê nhà tại Văn phòng C3, đường N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ, số
công chứng: 1108, quyn số 01/2013/TP/CC/HĐGD. Tài sản thuê là căn nhà và đất
3
tại số C, Khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CH06410, do
UBND quận N cấp ngày 26/7/2012. Thời hạn thuê 06 tháng, kể từ ngày 28/6/2013
(Điều 2 Hợp đồng), giá thuê 16.000.000 đồng/tháng, phương thức thanh toán, trả
bằng tiền mặt vào đầu tháng (Điều 4 Hợp đồng).
Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2015 cho đến nay đã hơn 06 năm (tương đương
thời gian 72 tháng x 16.000.000 đồng/tháng = 1.152.000.000 đồng) phía bà Đỗ Thu
H đã không trả tiền thuê nhà và còn chiếm hữu tài sản. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án
giải quyết các vấn đề sau:
Buộc Đỗ Thu H nghĩa vụ trả cho nguyên đơn căn nhà số C, khu V,
phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, chiếu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH6410 do UBND quận
N cấp ngày 26/7/2012. Yêu cầu H trả lại cho nguyên đơn tiền nthuê nhà 72
tháng 1.152.000.000 đồng. Đồng thời, yêu cầu những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đang cư trú bất hợp pháp trongn nhà số C nêu trên phải tự di dời các
vật dụng cá nhân để trả lại nhà cho nguyên đơn.
- Bị đơn trình bày và yêu cầu tại đơn phản tố ngày 06/7/2021 và lời khai của
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trong quá trình tố tụng:
Đối tượng tranh chấp căn ncấp 3 tại sC, Khu V, phường A, quận N,
thành phố Cần Thơ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất số: BI 398229 (CH 05327), thửa 328, tbản đsố
29 do UBND quận N cấp ngày 07/02/2012.
Do hoàn cảnh khó khăn thiếu hiểu biết pháp luật, nên ngày 26/7/2010 bị
đơn hợp đồng chuyển nhượng cho T Hoàng Mai thửa đất 328 nêu trên,
trong khi Phạm Bích N1 (dì ruột bị đơn) vay mượn nợ của M số tiền
150.000.000 đng, nên bà N1 mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn
để cầm cố cho M. Sau đó, M còn buộc bị đơn phải hợp đồng chuyển nhượng
đất số:05/2010/CC-SCC/HĐGD tại Phòng công chứng 24h để đảm bảo cho khoản
vay. Hợp đồng chuyển nhượng đất kết giữa bị đơn với M giao dịch giả
cách, cho vay nặng lãi để chiếm đoạt tài sản của bị đơn.
Sau khi hợp đồng chuyển nhượng tài sản cho M vào m 2010, đến
tháng 5/2011, M vẫn chưa đứng tên quyền sở hữu, sdụng tài sản vẫn còn
đứng tên bị đơn. Bị đơn thuê nhân công y n nhà kiên cố 02 tầng và khi xây
nhà xong bà yêu cầu bà N1 chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để m thủ
tục hoàn công. Do N1 không tiền chuộc giấy, nên giới thiệu đến gặp
Đoàn Thu S để bà S bỏ tiền ra chuộc giấy bà S buộc bà M hợp đồng chuyển
nhượng tài sản qua tên S. Sau đó, bà S ợn hxây dựng nhà của bđơn để
4
làm thủ tục hoàn công đứng tên sở hữu nhà, đất số 329N/10 nêu trên nhưng bị
đơn không hề hay biết. Ngoài ra, bà S còn buộc bà ký giấy nợ (giấy tay) cầm cố căn
nhà giá 800.000.000 đồng. Do giấy nhận nợ chỉ lập một bản S giữ n bị
đơn không có giữ bản nào. Đến ngày 11/6/2012, bà S buộc bị đơn ký Hợp đồng số
136; Quyển số 01/2012/TP/CC SCC/HĐGD ngày 11/6/2012 tại Phòng công chứng
số B thành phố Cần Thơ. Nội dung S cho bị đơn thuê nsố C, Khu V, phường
A giá 16.000.000đồng/tháng, đây cũng hợp đồng giả cách để che đậy tiền i
N1 đóng cho S theo giấy nhận vay nợ. Bị đơn vẫn lưu tại căn nhà này đến
tháng 7/2015, lúc này N1 mất khả năng đóng lãi, nên S khởi kiện đòi lại căn
nhà và buộc bà trả tiền thuê nhà từ ngày 26/7/2012 đến ngày 01/01/2015 là
112.000.000 đồng. Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng
thời có đơn phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết:
Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 291 ngày 26/7/2010,
giữa bà Đỗ Thu H và bà Tống Hoàng M ký tại Văn phòng C;
Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 263 ngày 25/02/2012,
giữa bà Tống Hoàng M bà Đoàn Thu S ký tại Văn phòng C4 (nay là Văn phòng
C5);
Hủy Hợp đồng thuê nhà số A ngày 11/6/2012, giữa bà Đoàn Thu S Đỗ Thu
H ký tại Phòng C6 (nay Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Bích L);
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 398229 do UBND quận N cấp
cho bà T Hoàng Mai ngày 07/02/2012;
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 255243 do UBND quận N cấp
cho bà Đoàn Thu S ngày 26/7/2012.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Phạm ch N1 trình bày ý kiến tại đơn yêu cầu tạm đình chỉ vụ kiện
(không ghi ngày tháng năm):
N2 vào năm 2010, vay của Tống Hoàng M 250.000.000 đồng. Để
đảm bảo khoản vay, giao cho M giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI
398229 do cháu Đỗ Thu H đứng tên. Bà M buộc bà phải nhờ H ra Văn phòng C
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất o ngày 26/7/2010, H hoàn toàn
không ký nhận bất kỳ khoản tiền nào từ các giao dịch này. Đây chỉ là hợp đồng giả
cách để đảm bảo cho việc thanh toán khoản nợ mà bà vay từ bà M. Sau đó hơn một
năm, bà H đã bỏ tiền ra xây dựng căn nhà kiên cố 02 tầng để ở trên phần đất mà bà
đã cầm chuyển nhượng cho bà M. Sau khi bà H xây dựng nhà xong thì H yêu cầu
bà chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục hoàn công căn nhà.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn nên không đủ tiền chuộc lại giấy đất để giao
trả cho bà H.
5
Giữa Đoàn Thu S quen biết nhau, nên gặp bà S nhđứng ra chuộc
lại giấy đất chuyển nợ vay tM sang cho S làm chủ nợ. Nhưng S đề
nghị bà thương lượng với bà M làm thủ tục chuyển nhượng tài sản từ bà M sang bà
S đứng tên sở hữu với tổng số tiền gốc lãi 800.000.000 đồng. Trong số tiền
này, bà S có chuyển trả cho M thay (N1) tiền nợ gốc và lãi mà bà nhận từ bà
S là 450.000.000 đồng.
Bà S yêu cầu bà mượn lại bà H toàn bộ hồ sơ bản vẽ thiết kế căn nhà trên đất
hứa sẽ liên hệ quan thẩm quyền làm thủ tục hoàn công căn nhà; sau đó sẽ
chuyển lại cho bà H để bà H thế chấp Ngân hàng lấy tiền trả cho bà S. Sau đó, bà S
hoàn thành mọi thủ tục (chuyển quyền sử dụng đất và hoàn công căn nhà) cho bà S
đứng tên chủ sở hữu căn nhà đất của H. S lại yêu cầu H phải hợp
đồng để H thuê lại chính căn nhà của mình với g16.000.000 đồng/tháng. Đây
cũng hợp đồng giả cách để hợp thức hóa số tiền lãi phải đóng hàng tháng
cho bà S trên số tiền nợ đã vay từ M trước đây rồi chuyển sang cho bà S
làm chủ nợ.
khẳng định mọi giao dịch để bà S đứng n chủ sở hữu nhà và đất tại số C,
Khu V, phường A, quận N chỉ là giao dịch giả cách nhằm che đậy cho các giao dịch
vay mượn cấn nợ giữa bà với bà M và bà S. Thực tế, bà H mới chínhchủ sở hữu
hợp pháp nhà đất nêu trên và hiện tại gia đình bà H vẫn đang sinh sống tại căn
nhà này. Bà H hoàn toàn không biết và không có nhận bất kỳ khoản tiền nào từ các
giao dịch vay mượn, cầm cố, chuyển nhượng nhà đất nêu trên.
+ Bà Phạm Thị Lệ H1, ông Đỗ Tiến H2, ông Đỗ Tiến H3 trình bày tại bản tự
khai ngày 06/12/2021:
Phạm Thị Lệ H1, ông Đỗ Tiến H2 cha mẹ của Đỗ Thu H trong vụ
kiện với Đoàn Thu S. Do H lên thành phố Cần Thơ sinh sống với ruột
Phạm Bích N1 nên ôngđã thu xếp bán đất dưới quê để đưa tiền cho con gái (bà
H) mua 01 nền đất tại thành phố Cần Thơ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BI 398229 đứng tên Đỗ Thu H).
Qua vụ kiện này ông bà mới được con gái cho biết vào năm 2010, dì ruột của
H làN1 vay của bà Tống Hoàng M số tiền 150.000.000 đồng để kinh doanh.
Để đảm bảo khoản vay này, bà N1 nhờ H giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng C ngày
26/7/2010, nhưng không ký nhận bất kỳ khoản tiền nào. Vì bà N1 giải thích với
H là chỉ nhờ ký hợp đồng để cho bà M làm tin cho việc vay mượn nợ.
Tháng 5/2011, ông bà đã bỏ tiền ra xây dựng căn nhà kiên cố 02 tầng để làm
chỗ ăn ở cho cả gia đình (Theo hợp đồng xây dựng số 0411KL-TV/HĐDVTV ngày
18/5/2011 Công ty TNHH - trên phần đất giao cho Thu H đứng tên trên hợp đồng
6
xây dựng. Sau khi ông bà xây dựng nhà và về ở xong, thì Thu H yêu cầu bà N1 phải
chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để H m thủ tục hoàn công căn nhà,
nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên bà N1 không có tiền chuộc lại giấy đất trả
cho H.
Bà N1 đã tìm đến bà Đoàn Thu S, nhờ bà S cho vay tiền để chuộc lại giấy đất
của H từ M nhờ bà M tiếp tục sang tên cho S để làm tin, thì S mới
cho bà N1 vay tiền trả tất nợ gốc lãi cho M. Bà S sau khi cho bà N1 mượn tiền
để trả cho bà M được bà M sang nhượng lại quyền sdụng đất, đã tự đến quan
thẩm quyền làm thtục hoàn công và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tọa lạc số 329N/10 khu vực 3, phường A, quận N của bà H mà phía gia đình ông
bà không hề hay biết.
Sau khi hoàn thành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn công
căn nhà và bà S đứng tên nhà và đất của bà H, thì bà N1 vẫn không có tiền đóng lãi
cho bà S. Ngày 11/6/2012, phía bà S đề nghị bà H ra ký hợp đồng để thuê lại chính
căn nhà của ông bỏ tiền ra xây dựng tại số 329N/10 nêu trên với giá 16.000.000
đồng/tháng. Đây cũng hợp đồng giả cách, số tiền thuê nhà này tiền lãi mà
N1 phải đóng hàng tháng cho bà S trên số tiền nợ từ phía bà M chuyển sang.
Nay bà S khởi kiện yêu cầu bà H phải giao trả căn nhà và đất tại số C Khu V,
phường A và khoản tiền thuê nhà 16.000.000 đồng/tháng từ ngày 01/01/2015 cho
đến khi giải quyết xong vụ án thì ông không đồng ý, ông người bỏ tiền ra
mua đất, xây nhà và chỉ nhờ con gái Thu H đứng tên dùm. Gia đình ông bà đã sinh
sống tại nhà đất tài sản của mình trong khoảng thời gian dài, nhưng không ai
tranh chấp. Ông đề nghị triệu tập Công ty TNHH - để làm rõ ai người bỏ tiền
ra xây dựng nhà. Tại sao H người hợp đồng thi công xây dựng mà khi hoàn
công căn nhà thì bản vẽ xây dựng và hợp đồng lại do bà S đứng tên để hợp thức hóa
hoàn công nhà, đề nghị bà S trả lời rõ việc mua đất từ bà Tống Hoàng M là như thế
nào. Trả tiền mua đất từ bà M bao nhiêu, tại thời điểm này trên đất đã nhà hay
chưa, nhà do ai xây dựng, xây dựng hết bao nhiêu tiền, hay không việc cấn nợ
của bà N1 từ bà M sang qua cho S. Đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ trích lục
toàn bộ hồ sơ đăng ký đất đai từ bà Đỗ Thu H sang bà Tống Hoàng M, từ M sang
cho Đoàn Thu S cả hồ hoàn công đăng ký nhà ở trên phần đất đang có tranh
chấp đã sang tên bà S để xác minh làm sự việc nêu trên. Ông bà khẳng định hoàn
toàn không có việc mua bán, hoàn trả tiền giữa con gái ông với M, không
việc gia đình ông bà bàn giao nhà, đất thuê nhà đất với bà S đđược ở cho đến
nay đã n 10 năm qua. Từ đó, ông bà đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, vì hoàn toàn không có giao
dịch đưa tiền mua bán, thuê nhà thực sự. Do nh hình dịch bệnh, các đương sđề
7
nghị xét xử vắng mặt.
+ Văn phòng công chứng 24h trình bày ý kiến ti văn bản ngày 08/8/2021:
Ngày 26/7/2010, Văn phòng C nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Đỗ Thu H Tống Hoàng M. Sau khi đối
chiếu các quy định của pháp luật, đối chiếu các giấy tờ chứng minh nhân dân, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ hợp lệ khác đều là bản chính do cơ quan
thẩm quyền cấp. Tại thời điểm giao dịch, các bên đầy đủ năng lực dân sự, hoàn
toàn tnguyện không bị lừa dối, ép buộc. Công chứng viên cũng đã giải thích
quyền và nghĩa vc bên khi giao kết hợp đồng. Các bênng đã đọc lại và thống
nhất với nội dung hợp đồng và ký tên trước mặt Công chứng viên. Vì vậy, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đỗ Thu H và bà Tống Hoàng M là đúng
quy định.
+ Văn phòng công chứng Nguyễn Thanh Đ1 trình bày ý kiến tại văn bản ngày
08/11/2021:
Hợp đồng chuyển nhượng đất số công chứng 263 ngày 25/02/2012, quyển số
01/2012/TP/CC/HĐGD giữa Tống Hoàng M Đoàn Thu S đã được Công
chứng viên Văn phòng C4 thành phố Cần Thơ (nay Văn phòng C5) chứng nhận
theo đúng quy định pháp luật. Văn phòng ng chứng Nguyễn Thanh Đ1 xin vắng
mặt trong các buổi làm việc cũng như quá trình xét xử của Tòa án.
+ Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Bích L trình bày ý kiến tại văn bản ngày
02/11/2021:
Qua xem xét lại hồ sơ công chứng hiện được lưu trữ tại Văn phòng C7, thành
phố Cần Thơ, cụ thể như sau:
Ngày 28/06/2013, Phòng công chứng tiếp nhận Hợp đồng thuê nhà, Bên
cho thuê bà Đoàn Thu S, sinh năm 1971, Chứng minh nhân dân số 361755060, hộ
khẩu thường trú tại 2, đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ, căn cứ theo:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số BỊ 255243 (Số vào sổ cấp GCN: CH05327); Thửa đất số 328, tờ bản đồ số 29
do UBND quận N, thành phố Cần Tcấp ngày 07/02/2012 Bên thuê là Đ
Thu H; sinh m 1984, Chứng minh nhân dân số 365620294, thường trú số E đường
C, khóm A, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Trong quá trình thụ giải
quyết hồ sơ, các bên đương sự nêu trên đã cung cấp đầy đủ các giấy tờ hợp lệ. Sưu
tra trên hệ thống thông tin công chứng không có bất cứ ngăn chặn nào của cơ quan
thẩm quyền. Xét thấy yêu cầu của đương sự hợp lệ, Công chứng viên đã giải
thích cho các bên nghe, hiểu quyền, nghĩa vụ lợi ích hợp pháp, hậu quả pháp
của việc giao kết Hợp đồng thuê nhà. Các bên đã nghe, hiểu, đọc lại toàn bộ nội
dung của Hợp đồng thuê nhà và đồng ý ký tên vào trước mặt Công chứng viên theo
8
đúng trình tự quy định pháp luật.
Công chứng viên đã công chứng Hợp đồng thuê nhà số: 1108 Quyển số
01/2013/TP/CC-SCC/HĐGD chứng nhận ngày 28/06/2013. Văn phòng Công chứng
Nguyễn Thị Bích L gửi bản tự khai kèm theo hồ lưu để Tòa án xem xét giải quyết.
Đề nghị Tòa án căn cbản tự khai này làm sgiải quyết vụ kiện và cho Văn
phòng được vắng mặt trong các buổi làm việc cũng như quá trình xét xử v án.
+ Bà Tống Hoàng M trình bày ý kiến tại bản tự khai ngày 02/12/2021:
Trước đây làm ăn với Phạm Bích N1, thông qua N1 có quen
biết bà Đỗ Thu H (bà H là cháu bà N1). Ngày 26/7/2010, H ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thửa 328, tờ bản đ số 29, đất tọa lạc tại Khu V,
phường A, quận N, TP .) tại Văn phòng C. Giá chuyển nhượng 150.000.000 đồng,
H người trực tiếp nhận tiền. Thời điểm bà và bà H hợp đồng chuyển nhượng
đất thì trên đất đã tồn tại căn nhà cấp 4, việc chuyển nhượng là chuyển nhượng luôn
cả nhà và đất. Giữa bà với bà Phạm Bích N1 và bà H không có hợp đồng vay tài sản
nào khác. Hợp đồng chuyển nhượng ngày 26/7/2010 được ký kết công chứng
đúng theo quy định pháp luật, không phải hợp đồng giả cách che đậy cho việc vay
tài sản nH, N1 trình bày. Tháng 02/2012, sau khi được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bà đã chuyển nhượng nhà, đất tại thửa 328 như nêu trên cho
Đoàn Thu S với giá 450.000.000 đồng và việc chuyển nhượng đúng theo quy định
pháp luật. Vì vậy, bà không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn.
+ UBND quận N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại Bản án dân sự thẩm số 14/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án
nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
- Không chấp nhận các yêu cầu phản tố của bị đơn.
Bị đơn đơn kháng cáo toàn bộ bản án. Tại Bản án dân sphúc thẩm số
135/2022/DS-PT ngày 22/6/2022 ca Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã quyết
định:
- Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DSST ngày 18/02/2022 của
Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ do vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị
làm tính pháp của 02 Giấy phép xây dựng, c định sự thật ai người xây
dựng căn nhà đang tranh chấp. Chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều
giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Sau khi thụ lý lại vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Tại
phiên tòa sơ thẩm, đại diện y quyền của nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc hủy hợp đồng cho thuê nhà đất đòi lại tài sản; Buộc bđơn
9
Đỗ Thu H phải thanh toán tiền thuê nhà cho nguyên đơn bà Đoàn Thu S số tiền
thuê nhà 1.056.000.000 đồng (66 tháng), giảm cho bị đơn 06 tháng tiền thuê
nhà.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 227/2023/DS-PT này 22/9/2023 của Tòa án
nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đoàn Thu S đối với bị đơn
bà Đỗ Thu H.
- Tuyên bố chấm dứt việc cho thuê toàn bộ căn nhà số C, khu V, phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ theo Hợp đồng thuê nhà được công chứng tại Văn phòng
công chứng Nguyễn Thị Bích L (trước đây Phòng công chứng số 02 TP Cần Thơ),
số công chứng: 1108, quyển số 01/2013/TP/CC/HĐGD ngày 28/6/2013.
- Buộc Đỗ Thu H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà
Phạm Thị Lệ H1, ông Đỗ Tiến H2, ông Đỗ Tiến H3, cháu Đỗ Huỳnh A, cháu Đỗ
Như Ý) đang trú trong căn nhà thuê tại địa chỉ: C, khu V, phường A, quận N,
thành phố Cần Thơ (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất sCH6410 do UBND quận N cấp ngày 26/7/2012
cho bà Đoàn Thu S) phải tự di dời các vật dụng cá nhân để giao trả lại toàn bộ căn
nhà trống cho nguyên đơn bà Đoàn Thu S.
- Buộc bà Đỗ Thu H phải thanh toán tiền thuê nhà cho nguyên đơn Đoàn
Thu S 66 tháng số tiền 1.056.000.000 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu
triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
2. Đình chỉ các yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đỗ Thu H về việc:
- Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 291 ngày 26/7/2010,
giữa bà Đỗ Thu H và bà Tống Hoàng M ký tại Văn phòng C;
- Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 263 ngày 25/02/2012,
giữa Tống Hoàng M Đoàn Thu S ký tại Văn phòng C8 (nay Văn phòng
C5);
- Hủy Hợp đồng thuê nhà số A ngày 11/6/2012, giữa Đoàn Thu S Đỗ
Thu H ký tại Phòng C6 (nay là Văn phòng C7);
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 398229 do UBND quận N cấp
cho bà T Hoàng Mai ngày 07/02/2012;
10
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 255243 do UBND quận N cấp
cho bà Đoàn Thu S ngày 26/7/2012.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo của đương sự theo
quy định.
Ngày 03/10/2023, Đỗ Thu H (thông qua người đại diện theo ủy quyền
ông Huỳnh N) kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm, chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn vẫn giữ yêu cầu
kháng cáo, còn nguyên đơn không đồng ý, thống nhất bản án sơ thẩm đã quyết định.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về hình thức kháng o: Xét thấy bị đơn kháng cáo trong hạn luật định
thuộc trường hợp nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên hợp lệ về mặt hình thức.
- Về nội dung kháng cáo: Kiểm t viên phân tích các tình tiết của vụ án, tài
liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ xác định, các giao dịch chuyển nhượng
đất giữa bà H với bà M giữa bà M với bà S hợp pháp, bị đơn không cung cấp
được chứng cứ chứng minh các giao dịch do giả tạo. Nguyên đơn được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp.
Sau đó, bđơn tự nguyện kết các hợp đồng thuê nhà với nguyên đơn được
công chứng theo quy định nhưng không thanh toán tiền thuê nhà theo thỏa thuận nên
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả tiền thuê
nhà còn nợ 1.056.000.000 đồng (tương đương 66 tháng) và có giảm một phần là đã
lợi cho phía bị đơn. Đồng thời, buộc bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan phải trả lại tài sản nhà đất cho nguyên đơn phù hợp. Bị đơn kháng
cáo nhưng không cung cấp chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữa nguyên bản
án thẩm số: 227/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Ninh
Kiều, thành phố Cần Thơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn thì đây
là vụ án dân sự về “tranh chấp hợp đồng thuê nhà; đòi lại tài sản; yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền shữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Sau khi bản án thẩm bị hủy,
Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung là phù hợp.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật Trịnh Hữu B
vắng mặt tại phiên tòa nhưng người đại diện hợp pháp của bị đơn thống nhất nên
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông B theo quy định.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thu H.
11
[2.1] Đánh giá về tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập giữa bà Đỗ Thu H với bà Tống Hoàng M:
H chủ sdụng thửa đất s328, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại khu vực I,
phường A, quận N, TP . Ttheo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH001140
cấp ngày 17/5/2020 (viết tắt thửa đất 328) nên đủ điều kiện chuyển nhượng cho
M. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26/7/2010 giữa các bên
được lập thành văn bản và có công chứng tại Văn phòng C, quận N, thành phố Cần
Thơ theo đúng quy định pháp luật. Sau đó, M đã đăng giao dịch chuyển nhượng
này tại cơ quan nhà nước thẩm quyền được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số CH05327 ngày 07/02/2012 đối với thửa đất 328 nêu trên. Theo Điều 2
của Hợp đồng chuyển nhượng, giá chuyển nhượng thửa đất 328 150.000.00
(một trăm năm mươi triệu đồng) phương thức thanh toán bên nhận chuyển
nhượng giao trả tiền mặt đủ cho bên chuyển nhượng.
Bị đơn cho rằng, trước đây ruột của bị đơn bà Phạm Bích N1 mượn
giấy đất của bị đơn để thế chấp cho M vay tiền, sau đó M kêu bị đơn hợp
đồng chuyển nhượng đất. Tuy nhiên, ngoài lời khai này thì không có giấy tờ chứng
minh về giao dịch vay tiền giữa N1 với M (về số tiền vay, thời hạn vay, lãi
suất …). vậy, chưa đủ căn cứ để xác định giao dịch chuyển nhượng đất giữa
M với bà H là giả tạo như bị đơn trình bày.
[2.2] Đánh giá về tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập giữa bà Tống Hoàng M với bà Đoàn Thu S:
M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ điều kiện chuyển
nhượng cho người khác theo quy định pháp luật về đất đai. Ngày 25/02/2012, bà M
ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Đoàn Thu S thửa đất 328 với giá 450.000.000đ
(bốn trăm năm mươi triệu đồng) được công chứng tại Phòng Công nhà nước
chứng số A thành phố Cần Thơ. S đăng ký giao dịch chuyển nhượng đất tại
quan có thẩm quyền, đến ngày 05/3/2012, bà S được xác nhận nội dung biến động
về nhận chuyển nhượng đất của bà M tại T 4 của giấy đất mà bà M được cấp.
Quá trình tố tụng, bà M có lời khai xác nhận về việc bà S đã thanh toán đtiền
chuyển nhượng đất cho bà. Bị đơn cho rằng, bà M ký hợp đồng chuyển nhượng đất
cho S để chuyển nợ vay của N1 đối với M cho S làm chủ, còn phía
nguyên đơn M không thừa nhận, ngoài lời khai của bị đơn thì không giấy
tờ để chứng minh. Người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng, trước đây
cuộc nói chuyện giữa S, H với N1 liên quan giao dịch chuyển nhượng tài
sản được ghi âm lại nhưng nguyên đơn thì không thừa nhận. Đồng thời, flie ghi
âm cuộc nói chuyện do bị đơn cung cấp (và tự chuyển thlại nội dung ới dạng
văn bản) cũng không thể hiện việc bà S xác nhận cho bị đơn hoặc bà N1 vay tiền.
12
không chứng ctrực tiếp về giao dịch cho vay tiền giữa các đương svới nhau
nên không đủ căn cứ để xác định giao dịch chuyển nhượng đất giữa M với S
là trái pháp luật. Từ đó, xác định thửa đất 328 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CH06410, được Ủy ban nhân dân quận N cấp ngày 26/7/2012 cho
S đứng tên.
[3] Nhận thấy, giao dịch chuyển nhượng đất giữa bà H với bà M là tự nguyện,
nội dung thỏa thuận và hình thức phù hợp quy định pháp luật nên cơ quan nhà nước
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho M hợp pháp. T
đó, M có đủ điều kiện để ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho S và được
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất cho bà S như nêu trên.
Vì vậy, bị đơn yêu cầu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà
M, bà S hủy hợp đồng chuyển nhượng đất có liên quan là chưa đủ căn cđể chấp
nhận.
[4] Về căn nhà là tài sản gắn liền với thửa đất 328:
Nguyên đơn bđơn có tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Bị đơn cho
rằng, mình thuê Công ty TNHH - (viết tắt Công ty -) y nhà. Công ty - cũng có văn
bản xác nhận nội dung như bị đơn trình bày về việc Công ty nhận thi ng xây
dựng căn nhà cho bị đơn. Tuy nhiên, theo Giấy phép xây dựng mà nguyên đơn được
cấp và hồ sơ hoàn công thì đặc điểm căn nhà là loại kiên cố, 01 trệt 02 lầu. Tại Công
văn số: 1442/UBND-NC ngày 21/4/2023 của Ủy ban nhân dân quận N phúc đáp ý
kiến cho Tòa án cấp thẩm (bút lục 743) xác định “…bà H không xây dựng n
nhà theo Giấy phép xây dựng số: 737/GPXD ngày 30/5/2011, còn S xây dựng
nhà theo Giấy phép xây dựng số: 399/GPXD ngày 30/3/2012 trên thửa đất 328…”.
quan nhà nước thẩm quyền chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền thửa đất
328 cho S, bị đơn không được xác lập quyền sở hữu tài sản này. vậy, bị đơn
đề nghị công nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho bị đơn là chưa
đủ căn cứ.
Về chi phí xây nhà: Khi giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, bị đơn không có phản
tố, đóng tạm ứng án phí để yêu cầu Tòa án giải quyết buộc nguyên đơn hoàn trả chi
phí xây nhà cho b đơn nên cấp sơ thẩm chưa xem xét giải quyết vấn đề này. Do đó,
trường hợp bị đơn chứng minh được chi phí xây nhà do bị đơn đầu tư nhưng các bên
không thỏa thuận được về số tiền hoàn trả thì bị đơn yêu cầu giải quyết bằng vụ án
khác.
[5] Về tranh chấp hợp đồng hợp thuê nhà giữa nguyên đơn với bị đơn thấy rằng:
Như nhận định phần [4], do căn nhà gắn liền với thửa đất 328 do nguyên đơn
được công nhận quyền sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
13
hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CH06410, được Ủy ban nhân dân quận
N cấp ngày 26/7/2012 nên nguyên đơn và bị đơn ký kết các hợp đồng thuê nhà vào
ngày 11/6/2012, ngày 19/9/2012 và ngày 28/6/2013 và được công chứng là phù hợp
theo quy định khoản 3 Điều 21, khoản 1 Điều 92 và khoản 3 Điều 93 của Luật Nhà
năm 2005. Bị đơn không thanh toán tiền thuê nhà đầy đủ theo thỏa thuận vi
phạm nghĩa vụ của bên thuê nhà theo quy định tại khoản 2 Điều 495 của Bộ luật dân
sự năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải trả tiền thuê nhà còn nợ
1.056.000.000 đồng (tương đương 66 tháng giảm bớt mt phần) cho nguyên
đơn phù hợp. Đồng thời, do thời hạn thuê nhà cũng đã hết nên nguyên đơn yêu
cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà, buộc bên thuê trả lại tài sản theo quy định tại khoản
5 Điều 495 và khoản 1 Điều 499 của Bộ luật dân sự năm 2005 là phù hợp.
[6] Theo xác nhận của Công an phường A, quận N tại văn bản ngày 14/7/2023
(bút lục 772): Đỗ Thu H, Phạm Thị Lệ H1, ông Đỗ Tiến H2, Đỗ Tiến H3, cháu
Đỗ Huỳnh A và cháu Đỗ Như Ý đăng ký tạm trú tại căn nhà số C, khu V, phường
A (các đương sự tranh chấp) nhưng chỉ có 03 người sinh sống (H2, H3, Ý), còn H,
H1, Huỳnh A không mặt tại địa chỉ nêu trên. Tuy nhiên, ngoài bị đơn, những
người đăng tạm ttại căn nhà cũng được xác định người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp về đòi lại tài sản nên cùng phải có nghĩa vụ di dời
đồ đạc, vật dụng sinh hoạt để trả lại tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn sở hữu
sử dụng như án sơ thẩm quyết định là có căn cứ.
[7] Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, thời hạn ủy quyền của bị đơn cho
ông Trần Văn Á ông Trịnh Hữu B tham gia tố tụng đã hết (theo Giấy ủy quyền
được Văn phòng công chứng 24
h
chứng thực số 516, quyển số 01, ngày 28/3/2018)
nhưng bđơn không lập giấy ủy quyền mới. Tòa án cấp thẩm không tống đạt được
giấy triệu tập tham gia tố tụng cho bị đơn nên tiến hành niêm yết ở địa phương, nhà
trụ sở Tòa án là phù hợp. Bị đơn vắng mặt nhiều lần không tham xét xử ván
nên cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết đối với đơn phản tố của bị đơn là phù
hợp quy định pháp luật.
Mặt khác, các nội dung phản tố của bị đơn về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất hợp đồng thuê nhà cũng được Hội đồng xét xử xem xét,
đánh giá và không có căn cứ chấp nhận như nêu trên.
[8] Từ những vấn đề đã được phân tích nhận thấy, kháng cáo của bị đơn không
n cứ để chấp nhận. Quan điểm đnghị của đại diện Viện kiểm sát về việc đề
nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[9] Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Khi giải quyết vụ án và theo yêu cầu
của phía bị đơn, cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng thẩm định, định giá tài sản tranh
14
chấp nhưng kết quả không chứng minh được yêu cầu của bị đơn bị là có căn cứ nên
phải chịu chi phí này với số tiền là 5.070.000 đồng, công nhận đã thực hiện xong.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định.
[11] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn kháng cáo nhưng không căn cứ
chấp nhận nên phải chịu.
[12] Các phần khác của án thẩm không có kháng o, kháng nghị nên
hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thu H. Giữ nguyên bản án
thẩm.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đoàn Thu S đối với bị đơn
bà Đỗ Thu H.
Tuyên bố chấm dứt việc cho thuê toàn bộ căn nhà số C, khu V, phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ theo Hợp đồng thuê nhà được công chứng tại Văn phòng
công chứng Nguyễn Thị Bích L (trước đây là Phòng công chứng số 2 TP .), số công
chứng: 1108, quyển số 01/2013/TP/CC/HĐGD ngày 28/6/2013.
Buộc bị đơn Đỗ Thu H những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
(Phạm Thị Lệ H1, ông Đ Tiến H2, ông Đỗ Tiến H3, cháu Đỗ Huỳnh A, cháu Đ
Như Ý) đang trú trong căn nhà thtại địa chỉ: C, khu V, phường A, quận N,
thành phố Cần Thơ (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất sCH6410 do UBND quận N cấp ngày 26/7/2012
cho Đoàn Thu S) phải tự di dời các vật dụng sinh hoạt cá nhân đgiao trả lại toàn
bộ căn nhà trống cho nguyên đơn bà Đoàn Thu S.
Buộc bị đơn ĐThu H phải thanh toán tiền thuê nhà cho nguyên đơn
Đoàn Thu S là 1.056.000.000 đồng (một tỷ không trăm năm mươi sáu triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ các yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đỗ Thu H về việc đòi hủy Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 291 ngày 26/7/2010 xác lập giữa bà Đỗ
15
Thu H với Tống Hoàng M tại Văn phòng công chứng 24h Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 263 ngày 25/02/2012 được xác lập giữa bà Tống
Hoàng M với Đoàn Thu S tại Phòng C1 (nay Văn phòng C5); Hủy Hợp
đồng thuê nhà số A ngày 11/6/2012, giữa Đoàn Thu S với Đỗ Thu H tại
Phòng C6 (nay Văn phòng ng chứng Nguyễn Thị Bích L); Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 398229 do UBND quận N cấp cho T Hoàng Mai ngày
07/02/2012 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất s255243 do UBND quận N cấp cho Đoàn Thu S ngày
26/7/2012.
3. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản:
Buộc bà Đỗ Thu H phải chịu stiền là 5.070.000 đồng (năm triệu không trăm
bảy chục ngàn đồng), công nhận đã thực hiện xong.
4. Về án phí dân sự thẩm: Bị đơn Đỗ Thu H phải chịu án phí
43.680.000 đồng (bốn mươi ba triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng).
Nguyên đơn bà Đoàn Thu S được nhận lại 2.800.00 đồng (hai triệu tám trăm
ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 003622 ngày 29 tháng 7 năm 2015
tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Sung vào công quỹ nhà nước 1.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí của bị đơn
Đỗ Thu H theo Biên lai thu số 0001226 ngày 11/10/2021 Biên lai thu số
0001339 ngày 12/11/2021 tại Chi cục Thi nh án dân sự quận Ninh Kiều, thành
phố Cần Thơ.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Đỗ Thu H phải chịu số tiền 300.000 đồng, được khấu trừ tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm 300.000 đồng mà bà H nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000168 ngày 03/10/2023 tại Chi cực thi hành án dân sự quận N, thành
phố Cần Thơ vào án phí (bà H đã nộp đủ án phí).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành
án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày được tuyên án.
16
Nơi nhận:
- .Các đương sự;
- .VKSND TP. Cần Thơ;
- .Chi Cục THADS Q Ninh Kiều;
- .TAND Q Ninh Kiều;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ã ký)
Võ Bảo Anh
Tải về
Bản án số 382/2024/DS-PT Bản án số 382/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 382/2024/DS-PT Bản án số 382/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất