Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 28/03/2025 của TAND TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 28/03/2025 của TAND TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Bỉm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 07/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: - Căn cứ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ BỈM SƠN Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 07/2025/DS-ST
Ngày: 28 - 3 - 2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
đòi lại nhà cho thuê”;
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Bà Tống Thị Hà
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trịnh Hồ Điền
2. Ông Lê Thị Loan
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thanh - Thư Tòa án nhân dân (viết
tắt: TAND) thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tham
gia phiên tòa: Bà Lê Huyền Diệu - Kiểm sát viên
Ngày 28 tháng 3 năm 2025 tại hội trường xét xử TAND thị Bỉm Sơn xét
xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 81/2024/TLST- DS
ngày 24 tháng 12 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng thê nhà đòi lại nhà
cho thuê” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/QĐXXST- DS ngày 11 tháng
3 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:Ngô Thị H, sinh năm 1979
Địa chỉ: Số nhà A, ngõ D, đường T, khu phố A phường L, thị xã B, tỉnh
Thanh Hóa (có mặt)
Bị đơn: Ông Nguyễn Trường L, sinh năm 1975
Địa chỉ: Số H đường H, khu phố A, phường N, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa (có
mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1, Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1975
Địa chỉ: Số nhà A, ngõ D, đường T,khu phố A phường L, thị xã B, tỉnh Thanh
Hóa (có mặt).
2, Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1953
Địa chỉ: Số H đường H, khu phố A, phường N, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa (có
mặt).
Người làm chứng: Ông Lê Anh T1, sinh năm 1986
Cư trú tại: Khu phố C, phường B, thị xã B, Thanh Hóa (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 10/12/2024 bản tự khai cũng như các tài liệu
khác của nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/8/2022 cho ông Nguyễn Trường L thuê ntại thửa đất s44,
mảnh bản đồ số 76, địa chỉ thửa đất khu phố A, phường N, thị B, tỉnh Thanh
Hóa. Này số nhà H đường H, khu phố A, phường N, thị B. Đây tài sản
chung của vợ chồng Ngô Thị H ông Nguyễn Hữu T. Tuy nhiên, hai bên
không hợp đồng thuê nhà (viết tắt: HĐTN). Đến ngày 01/01/2023 và ông
Nguyễn Trường L HĐTN với thời hạn 01 năm, tiền thuê nhà 500.000
VNĐ/tháng. Đến ngày 01/01/2024 hết thời hạn của HĐTN, hai bên không gia
hạn hợp đồng, không tiếp tục ký HĐTN khác. Bà đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn
Trường L trả lại nhà cho theo đúng như hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng
nhưng ông Lưu V cố tình không trả nhà cho bà.
Vậy, làm đơn yêu cầu Toà án buộc ông Nguyễn Trường L trả lại nhà cho
vợ chồng bà, nhà đất tại số nhà H H, phường N, thị xã B và chấm dứt HĐTN đã ký
giữa bà và ông L ngày 01/01/2023. Đối với số tiền thuê nhà mà ông L chưa trả cho
vợ chồng bà thì bà không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Tại bản tự khai ngày 14/02/2025 bị đơn ông Nguyễn Trường L trình bày:
Hiện nay gia đình mẹ ông đang sinh sống tại số nhà H đường H, khu phố A,
phường N, thị xã B. Nguồn gốc đất được nhà nước cấp vào những năm 1980-
1981 khi đó bố mông cán bộ công nhận viên trực thuộc liên đoàn địa chất III
thuộc đoàn địa chất 306 thị xã B cho đến tận bây giờ.
Do điều kiện cuộc sống làm ăn gặp khó khăn vất vả nên ông đã nhờ vợ chồng
ông T, H (chỗ bạn sống với nhau thân thiết) quen biết nhau cùng với bố mẹ
ông khi còn làm việc tại quan địa chất 306 sang tên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng (viết tắt: QSDĐ) đất của gia đình mẹ ông từ ông Lê Anh T1 (lúc này ông vay
và thế chấp từ gia đình ông Lê Anh T1).
Vợ chồng ông T, H đã giúp ông lấy lại tài sản giấy chủ QSDĐ từ ông
Anh T1sang tên chủ quyền cho vợ chồng T, H (mang tên vợ chồng T, H), mang
đi thế chấp vay vốn Ngân hàng tại Ngân hàng V1- Chi nhánh H5 với số tiền
650.000.000đ (sáu trăm năm ơi triệu đồng), thời gian vay 12 tháng với lãi suất
gần 13%/ năm.
Sau khi hết thời gian vay 12 tháng ông vẫn gặp khó khăn nên nhờ vợ chồng T
H vay tiền lại lần sau (có chấp nhận bồi dưỡng chi phí hồ sơ vay vốn) và hỗ trợ vay
đã được giải quyết vay tiền nhưng vay được ít tháng đầu ông vẫn thanh toán lãi
bình thường, còn vài tháng sau ông chậm trả lại nên vợ chồng không đồng ý
đứng vay cho ông nữa và yêu cầu thanh toán hợp đồng hồ vay vốn kể cả
những vấn đề phát sinh, cho đến hiện nay bây giờ hoặc phải trả lại phần đất trên
theo giấy chứng nhận QSDĐ tại địa chỉ nêu trên.
Về bản HĐTN do khi ông lo liệu m người đứng bảo lãnh vay vốn chỗ
khác thì họ yêu cầu đầy đủ pháp giấy ttừ chỗ vợ chồng Tuấn H2 nên vợ
chồng Tuấn H2 soạn phác thảo bản HĐTN nhờ ông tên vào để đầy đủ giấy
tờ hợp thức vay nhưng không được (do tin tưởng chỗ bạn nên ông đã uỷ
quyền hết toàn bộ tài sản giao dịch cho bạn để vợ chồng bạn giúp đỡ ông lúc khó
khăn).
do điều kiện gặp nhiều kkhăn nên đã gây ảnh hưởng tới công việc của
vợ chồng anh T, H2 và tình cảm bạn bè. Do số tiền của tài sản vay mượn cũng lớn
nên ông cũng đang lo liệu nhờ người giúp đỡ vay ợn tiền để gửi lại vợ chồng T,
H2 kể cả những vấn đphát sinh cho đến thời điểm hiện tại bây giờ (có vay ngân
hàng và vay bên ngoài).
- Tại bản tkhai ngày 18/02/2025, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị H1 trình bày: Thửa đất này thuộc QSDĐ của (thửa 44, tờ 76 tại số
nhà H đường H, khu phố A, phường N) cho con trai Nguyễn Trường Lưu mượn để
vay ngân hàng làm ăn, bà đề nghị vợ chồng L, H3 có trách nhiệm trả lại cho bà. Về
HĐTN bà không được biết.
- Tại bản tự khai ngày 17/01/2025, ngườiquyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Hữu T trình bày: Tháng 5/2022 ông nhận chuyển nhượng QSDĐ tại thửa
số 44 mảnh bản đồ s76, bản đồ địa chính phường N duyệt công nhận năm 2011,
tại địa chỉ khu phố A, phường N, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa với diện tích 70,3m
2
của
ông Anh T1 địa chỉ phường B, thị B, Thanh Hóa. Sau đó vợ chồng ông cho
ông Nguyễn Trường L đứng ra thuê lập HĐTN kèm theo. Đến thời điểm hiện
nay ông đã thông báo lấy lại nhà nhưng ông L và gia đình không chấp hành.
Vậy ông viết bản tự khai này kính mong các cấp xem xét giải quyết cho ông
để ông lấy lại nhà không cho thuê nữa. do bận công việc ông không
mặt tại Toà án để giải quyết được. vậy, ông đề nghị Toà án xét xử vắng mặt
ông.
Tại bản tự khai ngày 10/3/2025, người làm chứng ông Anh T1 khai:
Khoảng 5 năm trước ông L mượn ông 450 triệu và đã chuyển nhượng mảnh đất
tại khu phố A, phường N cho ông. Sau đó ông L nhờ bạn tên Tuấn H2 chuộc lại
mảnh đất trên. Vợ chồng ông T, H2 đưa tiền cho ông và ông đã chuyển nhượng lại
mảnh đất trên cho vợ chồng Tuấn H2.
Lúc 3 người nói chuyện giữa anh, ông L, ông T thì ông L nhờ ông T chuộc hộ
mảnh đất đã sang tên cho ông cầm vào ngân hàng rồi ông L tiền sẽ chuộc lại
ngoài ra ông không biết thêm gì nữa.
công việc bận rộn nên ông không thể tham gia phiên toà được ông đề nghị
Toà án xét xử vắng mặt ông.
Quá trình giải quyết vụ án TAND thị Bỉm Sơn đã tiến hành mphiên họp
kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại buổi hoà giải có mặt ông
L, bà Ngô Thị H, ông T, vắng mặt bà Nguyễn Thị H1 các đương sự thống nhất hoà
giải vắng mặt H1. Tuy nhiên, quá trình hoà giải các đương sự không thống nhất
được với nhau về việc giải quyết vụ án, bị đơn đã bỏ về không thống nhất
vào biên bản. vậy, Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Tại phiên tòa hôm nay, Ngô Thị H ông Nguyễn Hữu T vẫn giữ nguyên
quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử ( viết tắt: HĐXX) giải quyết buộc ông Nguyễn
Trường L trả lại nhà cho vchồng ông chấm dứt HĐTN đã ký giữa H
ông L ngày 01/01/2023.
Bị đơn cho rằng việc hai bên HĐTN đhợp thức hoá giấy tờ vay tiền, ông
vay tiền ông sẽ trách nhiệm trả, nhà đất của mẹ ông từ thời năm 1981
đến nay ông vẫn mong muốn trả nợ để lấy lại nhà. Ông khẳng định ch tại
HĐTN ngày 01/01/2023 của ông ông không bất kỳ giấy tờ gì chứng minh
nhờ vợ chồng T, H đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ không lưu giữ giấy tờ
liên quan đến việc nhờ vợ chồng T, H vay vốn ngân hàng. Tất cả giấy tliên quan
vợ chồng T, Hà giữ, vì ông tin tưởng bạn bè nên ông không lưu giữ giấy tờ gì.
Nguyễn Thị H1 có ý kiến mong vợ chồng T, H1 tạo điều kiện để con trai bà
chuộc lại nhà con trai làm ăn nên mới giấy tờ chuyển nhượng cho ông
T1 và ông T1 chuyển nhượng lại cho vợ chồng T, H1.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm
phán, HĐXX thư của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án kể tkhi thụ cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: Chấp hành
đúng các quy định tố tụng, không có vi phạm.
* Đề nghị HĐXX:
- Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngô Thị H
+ Chấm dứt HĐTN đã ký giữa bà H và ông L ngày 01/01/2023.
+ Buộc ông Nguyễn Trường L Nguyễn Thị H1 phải bàn giao nhà đất
(tại thửa đất số 44, mảnh bản đồ số 16, bản đđịa chính phường N duyệt công
nhận năm 2011, diện tích 70,3m
2
, loại đất: Đất đô thị theo giấy chứng nhận
QSDĐ số CM 882221 do UBND thị B cấp ngày 08/3/2019. Ngày 18/5/2022 đã
được văn phòng đăng QSDĐ chỉnh tại trang thứ 3 của giấy chứng nhận
QSDĐ sang cho ông Nguyễn Hữu T Ngô Thị H, địa chỉ khu phố A, phường
L, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa) cho bà Ngô Thị H và ông Nguyễn Hữu T.
Nguyên đơn tự nguyện nộp tiền phí xem xét thẩm định tại chỗ nên đề nghị
miễn xét.
Bị đơn phải nộp án phí DSST theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Ngô Thị H đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn
Trường L trả lại nhà cho vchồng chấm dứt HĐTN đã giữa H ông
L ngày 01/01/2023. HĐXX xác định đây là quan hệ pháp luật Tranh chấp
thuê nhà và đòi lại nhà cho thuê theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố
tụng đân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thị xã B.
vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Bỉm Sơn.
[1.3] Xét về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự:
“Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm,
kể từ ngày người quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền lợi ích hợp pháp
của mình bxâm phạm”. Ngày 01/01/2023 hai bên HĐTN, tại điều 2 vthời
giạn thuê “Bên A cam kết cho bên B thuê tài sản thuê với thời hạn 01 năm kể từ
ngày bànn giao tài sản thuê”. Như vậy, xác định thời hạn thuê đến ngày 01/01/2024
là hết hạn, hai bên không ký hợp đồng mới nên đến ngày 10/12/2024 bà H làm đơn
yêu cầu ông L phải trlại nhà cho vợ chồng chấm dứt HĐTN đã giữa
H và ông L. Như vậy, ngày 24/12/2024 TAND thị xã Bỉm Sơn thụ lý, giải quyết vụ
án đúng quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 429 Bộ luật dân sự, Toà án thụ lý,
giải quyết vụ án là đúng quy định.
[1.4] Sự vắng mặt của người làm chứng: Ông Anh T1 đề nghị Toà án xét
xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét
xử vắng mặt ông T1.
[1.5] Về chứng cứ: Quá trình giải quyết ván, ngày 18/02/2025 Tòa án đã
tiến hành xem xét thẩm định kết quả như sau:
+ Về đất: Thửa đất số 44, mảnh bản đồ số 16, bản đồ địa chính phường N duyệt
công nhận năm 2011, diện tích 70,3m
2
, loại đất: Đất đô thị theo giấy chứng nhận
QSDĐ số CM 882221 do UBND thị B cấp ngày 08/3/2019. Ngày 18/5/2022 đã
được văn phòng đăng QSDĐ chỉnh tại trang thứ 3 của giấy chứng nhận
QSDĐ sang cho ông Nguyễn Hữu T Ngô Thị H, địa chỉ khu phố A, phường
L, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa.
Nguồn gốc thửa đất: Nhận chuyển nhượng từ ông Anh T1, ông T1 trước đó
nhận QSDĐ từ Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H1 được Nnước giao đất có
thu tiền.
+ Về nhà: Trên đất 01 n nhà cấp 4, tường gạch, lợp Brô ximăng, lắp điện
chiếu sáng, nước đầy đủ. Vị trí thửa đất: Phía bắc giáp nhà ông H4; Phía nam giáp
nhà T2, T3; phía đông giáp đất UBND phường N (rãnh nước); phía tây giáp đường
H.
[2] Xét về HĐTN ngày 01/01/2023 và đòi lại nhà cho thuê của bà Ngô Thị H
HĐXX thấy: HĐTN ngày 01/01/2023 được kết giữa Ngô Thị H ông
Nguyễn Trường L: Tại Điều 1 của HĐTN nêu rõ: Bên A (bên cho thuê Ngô Thị
H) bên B (bên thông Nguyễn Trường L) cùng dồng ý thuê một căn nhà gắn
liền với QSDĐ tại địa chỉ số nhà H H, khu phố A, phường N, thị B, tỉnh Thanh
Hóa sử dụng để làm nơi (số thửa đất 44, mảnh bản đồ số 76, bản đđịa chính
phường N duyệt công nhận năm 2011); diện tích quyền sử dụng đất 70,3m
2
; Điều 2
về thời hạn thuê: Thời hạn thuê 01 năm kể từ ngày bàn giao tài sản thuê.
Tại phiên toà bà Ngô Thị H khai sau khi sang tên giấy chứng nhận QSDĐ đứng
tên ông bà, hai bên chưa ký HĐTN, bà Nguyễn Thị H1 và ông L vẫn ở tại ngôi nhà
số H đường H. Đến ngày 01/01/2023 ông L HĐTN, nên xác định ngày
thuê nhà ngày 01/01/2023 đến ngày 01/01/2024 là hết thời hạn thuê. Đến nay đã
quá thời hạn thuê nhưng ông Lưu K bàn giao lại nhà cho nên làm đơn đề
nghị Toà án tuyên bố chấm dứt HĐTN ngày 01/01/2023 giữa và ông L buộc
ông L trả lại nhà mà bà cho ông L thuê là đúng với quy định của pháp luật.
vậy, HĐXX căn cứ tuyên bố chấm dứt HĐTN ngày 01/01/2023 giữa bà
Ngô Thị H ông Nguyễn Trường L, ông Nguyễn Trường L trách nhiệm trả lại
nhà cho bà Ngô Thị H và ông Nguyễn Hữu T.
Về số tiền thuê nhà chưa trả cho vợ chồng bà Ngô Thị H, bà H không yêu cầu
nền HĐXX miễn xét.
[3] Xét về yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Trường L cho rằng nguồn gốc đất là
của bố mẹ ông, ông vay tiền của ông Lê Anh T1 nên sang tên cho Lê Anh T1, sau
đó nhờ vợ chồng T, H lấy lại tài sản giấy chứng nhận QSDĐ từ ông Anh T1
sang tên chủ sử dụng cho vợ chồng Tuấn H2.
HĐXX đã ra Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ s10/2025/QĐ-CCTLCC
ngày 24/02/2025 đối với ông Nguyễn Trường L cung cấp tài liệu chứng cứ chứng
minh QSDĐ tại khu phố A, phường N, thị B nhờ vợ chồng Ngô Thị H và
Nguyễn Hữu T đứng tên Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên mang thế chấp ngân
hàng vay số tiền gốc 650.000.000đ. Tuy nhiên, đến nay ông L chưa cung cấp được
tài liệu chứng cứ chứng minh việc nhờ vợ chồng Tuấn H2 đứng tên giấy chứng
nhận QSDĐ và tài liệu chứng minh nhờ vợ chồng Tuấn H2 vay ngân hàng.
Quá trình giải quyết ván ông Nguyễn Trường Lưu K yêu cầu phản tố đối
với nội dung trên nên HĐXX không xem xét. Nếu ông L có yêu cầu thì dành quyền
cho ông Nguyễn Trường L khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.
[4] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ bà Ngô Thị H tự nguyện nộp nên
miễn xét.
[5] Về án pDSST: Ông Nguyễn Trường L phải chịu án phí DSST theo quy
định của pháp luật. Tra lại cho bà Ngô Thị H tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Điều luật áp dụng:
- Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 227, Điều 229, Điều 271, 273, 278 và 280 Bộ luật
Tố tụng Dân sự;
- Điều 429, Điều 472, 474, 476, 477, 478, 479, Điều 482 Bộ luật dân sự;
- Điều 6, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Danh mục mức án phí lệ phí ban hành kèm theo;
2. Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị H
Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2023 giữa Ngô Thị H ông
Nguyễn Trường Lưu .
Buộc ông Nguyễn Trường L Nguyễn Thị H1 phải bàn giao nhà đất
(tại thửa đất số 44, mảnh bản đồ số 16, bản đđịa chính phường N duyệt công
nhận năm 2011, diện tích 70,3m
2
, loại đất: Đất đô thị theo giấy chứng nhận
QSsố CM 882221 do UBND thị B cấp ngày 08/3/2019. Ngày 18/5/2022 đã
được văn phòng đăng QSDĐ chỉnh tại trang thứ 3 của giấy chứng nhận
QSDĐ sang cho ông Nguyễn Hữu T Ngô Thị H, địa chỉ khu phố A, phường
L, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa) cho bà Ngô Thị H và ông Nguyễn Hữu T.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Nguyễn Trường L, bà Nguyễn
Thị H1 không bàn giao nhà đất nêu trên cho Ngô Thị H, ông Nguyễn Hữu T
thì bà Ngô Thị H có quyền làm đơn đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bỉm
Sơn thi hành buộc ông L, H phải bàn giao nhà và đất cho Ngô ThH ông
Nguyễn Hữu T.
* Về án phí dân sự thẩm: Ông Nguyễn Trường L phải nộp 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm
Trả lại cho NThị H số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng) đã nộp tại chi cục Thi hành án dân sự thị Bỉm Sơn theo biên lai thu số
0004665 ngày 24/12/2024.
Án xử công khai thẩm mặt nguyên đơn, bị đơn những người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng
cáo bản án phần liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/3/2025).
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND Thị xã Bỉm sơn; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Đương sự;
- THA Dân sự TX Bỉm sơn;
- TAND tỉnh Thanh Hóa;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TỐNG THỊ HÀ
Tải về
Bản án số 07/2025/DS-ST Bản án số 07/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/DS-ST Bản án số 07/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất