Bản án số 73/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 73/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 73/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 73/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 73/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chơn Thành (TAND tỉnh Bình Phước) |
Số hiệu: | 73/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Huỷ hợp đồng đặt cọc giữa ông Chiến và ông Hà, bà Hà; buộc ông Hà, bà Hà trả lại cho ông Chiến số tiền 150.000.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ CHƠN THÀNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Số: 73/2024/DS-ST
Ngày: 30/9/2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Quốc Mạnh
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Xuân Đính
Ông Nguyễn Duy Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Hồng Huế - Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành tham gia phiên tòa:
Ông Bồ Đức Trọng - Kiểm sát viên.
Trong ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Chơn Thành
xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số 156/2024/TLST-DS ngày
17/7/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 190/2024/QĐXX-ST ngày 16/9/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng C, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Tổ I, khu phố
A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông C: Ông Hồ Phương T, sinh
năm 1985; HKTT: Khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Tạm trú:
Khu phố T, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Phước (có đơn xin vắng mặt)
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964; bà Nguyễn Thị H1, sinh năm
1968; Cùng trú tại: Khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước (Có đơn xin
vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn
Hoàng C và người đại diện theo uỷ quyền của ông C là ông Hồ Phương T thống
nhất trình bày:
Ngày 19 tháng 5 năm 2022, ông C và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1
có ký hợp đồng đặt cọc, mục đích để chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với một
phần đất có diện tích là 1000m
2
và cho thêm 42,8m
2
; tổng diện tích ông H, bà H1
2
chuyển nhượng cho ông C là 1048,2m
2
(Trong đó có 100m
2
đất thổ cư, có đường đi
vào đất 4m), diện tích đất này thuộc thửa đất số 201, tờ bản đồ số 7, toạ lạc tại khu
phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước, đất được UBND huyện C cấp ngày
15/01/2009 cho hộ ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1; Giá trị chuyển nhượng
là 700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng). Hai bên thoả thuận chồng tiền cọc chia làm
02 lần; lần 01 vào ngày 19 tháng 5 năm 2022 (ngày ký hợp đồng đặt cọc), ông C đã
đặt cọc cho ông H, bà H1 số tiền 150.000.000 đồng; bồi cọc lần 02 là sau lần đặt
cọc trước 03 tháng số tiền 150.000.000 đồng, số tiền 400.000.000 đồng ông C thanh
toán cho ông H, bà H1 khi ông C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
ông H, bà H1 là bên chịu trách nhiệm tách thửa để ký hợp đồng công chứng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi đến thời hạn
đặt cọc lần 02 thì ông C có đưa thêm số tiền cọc 150.000.000 đồng tại Văn phòng
công chứng như hai bên đã thoả thuận nhưng không biết lý do gì ông H, bà H1
không nhận cũng không nói gì với ông C mà tự ý bỏ về.
Sau đó, ông C đã nhiều lần đến yêu cầu vợ chồng ông H tiếp tục thực hiện hợp
đồng đặt cọc để chuyển nhượng đất cho ông C hoặc trả lại tiền cọc và bồi thường
cọc cho ông C theo thoả thuận nhưng vợ chồng ông H không thực hiện. Xét thấy
quyền và lợi ích hợp pháp của ông C bị ảnh hưởng nghiêm trọng nên ông C khởi
kiện yêu cầu Toà án giải quyết như sau:
- Huỷ hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/5/2022 giữa ông Nguyễn Hoàng C và ông
Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với phần đất có diện tích 1048.2 m
2
, phần đất này nằm trong thửa đất số: 201, tờ
bản đồ số 7, diện tích 6442,8m
2
, toạ lạc tại Khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh
Bình Phước, đất được UBND huyện C cấp ngày 15/01/2009 cho hộ ông Nguyễn
Văn H, bà Nguyễn Thị H1;
- Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 liên đới trả lại cho ông Nguyễn
Hoàng C số tiền đặt cọc là 150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng) đã nhận;
- Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 liên đới trả cho ông Nguyễn
Hoàng C số tiền lãi phát sinh trên số tiền nhận cọc 150.000.000 đồng, mức lãi
1,5%/tháng, tạm tính từ ngày 19/5/2022 đến ngày 21/8/2024 là: 150.000.000 đồng
x 1.5% x 2 năm 03 tháng 02 ngày = 60.900.000 đồng. Đồng thời, ông H và bà H1
tiếp tục trả tiền lãi cho ông C từ ngày 22/8/2024 đến ngày Toà án xét xử sơ thẩm.
Qúa trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1
thống nhất trình bày:
ông H, bà H1 thừa nhận ngày 19 tháng 5 năm 2022 có ký hợp đồng đặt cọc với
ông C để chuyển nhượng cho ông C một phần đất thuộc thửa đất số 201, tờ bản đồ
số 7, diện tích 6442.8 m
2
, toạ lạc tại khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình
Phước như ông C trình bày; ông H và bà H1 cũng thừa nhận đã nhận của ông C số
tiền 150.000.000 đồng tiền cọc, việc ký hợp đồng đặt cọc và nhận tiền đều do vợ
chồng ông H thực hiện, không liên quan đến các con là những thành viên trong hộ
gia đình ông H1. Vợ chồng ông H cho rằng khi ký hợp đồng ông C hứa sẽ tách được
thửa và tự ông C đi làm thủ tục, vợ chồng ông H không biết chữ nên không đi làm
được. Nay ông C không đồng ý tiếp tục nhận chuyển nhượng đất, yêu cầu huỷ hợp
đồng đặt cọc ngày 19/5/2022 thì vợ chồng ông H đồng ý huỷ hợp đồng và đồng ý
trả lại cho ông C số tiền 150.000.000 đồng đã nhận cọc; Còn việc trả tiền lãi như
3
ông C yêu cầu thì vợ chồng ông H không đồng ý vì không vay tiền của ông C mà
chỉ nhận cọc chuyển nhượng đất cho ông C, nay ông C không tiếp tục nhận chuyển
nhượng đất thì vợ chồng ông H trả lại tiền cọc cho ông C.
Tại phiên toà:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng C vắng mặt, người đại diện theo uỷ quyền
của ông C là ông Hồ Phương T vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt;
- Bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 vắng mặt nhưng có đơn xin
vắng mặt;
Các đương sự không có ai cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
+ Việc chấp hành theo quy định pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử:
Quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến nay nhận thấy Thẩm phán
chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về việc chấp hành theo quy định pháp luật của các đương sự: Các đương sự
đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015;
Về việc chấp hành theo quy định pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét
xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án:
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận thấy: Ông C và vợ chồng ông H đều thừa
nhận có ký kết hợp đồng đặt cọc ngày 19/5/2022 để giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với phần đất 1048.2 m
2
, thuộc thửa đất số: 201, tờ bản đồ số 7,
diện tích 6442,8m
2
, toạ lạc tại Khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước. Tuy
nhiên, trong qúa trình giải quyết vụ án hai bên tự nguyện thoả thuận huỷ hợp đồng đặt
cọc ký ngày 19/5/2022 và vợ chồng ông H hoàn trả lại cho ông C số tiền 150.000.000
đồng tiền cọc đã nhận. Đây là sự tự nguyện thoả thuận của các bên, phù hợp với quy
định của pháp luật nên cần ghi nhận. Đối với yêu cầu tính lãi của ông C yêu cầu vợ
chồng ông H trả tiền lãi suất trên số tiền đặt cọc là 150.000.000 đồng từ ngày
19/5/2022 – 30/9/2024, mức lãi 1.5%/tháng với tổng số tiền là 63.825.000 đồng, căn
cứ Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 thì mục đích của đặt cọc là để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng, nếu một trong các bên có lỗi vi phạm hợp đồng dẫn đến hợp
đồng không thực hiện được thì phát sinh hậu quả bị phạt cọc hoặc mất số tiền đã đặt
cọc, không có quy định về việc trả lãi suất. Ngoài ra, theo kết quả xác minh tại chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã C thì phần đất ông C và vợ chồng ông H thoả
thuận chuyển nhượng không đủ điều kiện tách thửa theo quy định của pháp luật, ông
C và vợ chồng ông H cũng đã tự nguyện huỷ bỏ hợp đồng đặt cọc, hoàn trả lại số tiền
cọc đã nhận nên việc ông C yêu cầu vợ chồng ông H trả tiền lãi như nêu trên là không
có căn cứ.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
các Điều 144; Điều 147; 266; 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 328; 423 và Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 26 nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
4
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng C:
Ghi nhận sự thoả thuận của ông C và ông H, bà H1.
- Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất ngày 19/5/2022 ký giữa ông Nguyễn Hoàng C và ông Nguyễn Văn H, bà
Nguyễn Thị H1;
- Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn
Hoàng C số tiền 150.000.000 đồng.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hoàng C yêu cầu Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 trả số tiền lãi là 63.825.000
đồng.
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật: Theo nội dung đơn khởi kiện và quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn ông C yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bị đơn ông H, bà H1. Do vậy, Hội đồng
xét xử xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo quy định tại khoản
3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết: Do bị đơn ông H, bà H1 có nơi cư trú tại
phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
[1.3]. Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên toà các đương sự vắng mặt
nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về nội dung tranh chấp:
[2.1]. Về hợp đồng đặt cọc: Nguyên đơn ông C và bị đơn ông H, bà H1 đều
thống nhất thừa nhận hai bên có ký hợp đồng đặt cọc ngày 19/5/2022 (ngày tháng
không ghi trên hợp đồng), mục đích đặt cọc để ông H, bà H1 chuyển nhượng cho
ông C một phần đất có diện tích là 1048.2 m
2
(Trong đó có 100m
2
đất thổ cư, có
đường đi vào đất 4m), phần đất này nằm trong thửa đất số: 201, tờ bản đồ số 7, diện
tích 6442.8 m
2
toạ lạc tại Khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H - 00887, do UBND huyện C cấp ngày
15/01/2009 cho hộ ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1; Giá trị chuyển nhượng
là 700.000.000 đồng; ông C đã đặt cọc cho ông H, bà H1 số tiền 150.000.000 đồng.
Xét thấy, ông C và ông H1, bà H1 đã thừa nhận việc hai bên có ký hợp đồng đặt
cọc, thời gian ký hợp đồng là ngày 19/5/2022, mục đích đặt cọc để nhận chuyển
nhượng phần đất nêu trên; chủ thể tham gia ký hợp đồng đặt cọc là ông C và ông H,
bà H1; ông C đã giao cho ông H, bà H1 số tiền cọc là 150.000.000 đồng và ông H,
bà H1 xác nhận đã nhận đủ số tiền cọc ông C giao nên đây là những tình tiết không
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong
quá trình giải quyết vụ án ông C và ông H, bà H1 thoả thuận huỷ hợp đồng đặt cọc
ngày 19/5/2020 nêu trên; ông H, bà H1 đồng ý trả lại cho ông C số tiền 150.000.000
5
đồng đã nhận cọc, việc thoả thuận huỷ hợp đồng đặt cọc nói trên là do các bên tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội nên được Hội
đồng xét xử ghi nhận, huỷ hợp đồng đặt cọc ngày 19/5/2022 ký giữa ông C và ông
H, bà H1 về việc đặt cọc chuyển nhượng phần diện tích đất nêu trên.
[2.2]. Về giải quyết hậu quả khi huỷ hợp đồng: Như nhận định tại mục [2.1]
ông C và ông H, bà H1 thoả thuận huỷ hợp đồng đặt cọc ngày 19/5/2022; ông H,
bà H1 trả lại cho ông C số tiền 150.000.000 đồng đã nhận cọc; vợ chồng ông H chưa
giao diện tích đất nêu trên cho ông C sử dụng nên đối tượng các bên phải hoàn trả
cho nhau chỉ có số tiền vợ chồng ông H đã nhận cọc của ông C. Đây là sự tự nguyện
thoả thuận của các đương sự, không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức
xã hội nên được Hội đồng xét xử ghi nhận; ông H, bà H1 có nghĩa vụ trả cho ông C
số tiền 150.000.000 đồng.
[2.3]. Về yêu cầu tính lãi suất: Ngoài yêu cầu trả số tiền 150.000.000 đồng đặt
cọc như nhận định tại mục [2.2] thì ông C còn yêu cầu vợ chồng ông H trả tiền lãi
trên số tiền 150.000.000 đồng, thời gian tính lãi từ ngày 19/5/2022 đến ngày
30/9/2024 (ngày Toà án xét xử sơ thẩm), mức lãi 1.5%/tháng, cụ thể: 150.000.000
đồng x 1.5% x 28 tháng 11 ngày = 63.825.000 đồng nhưng ông H, bà H1 không
đồng ý trả tiền lãi như ông C yêu cầu. Xét thấy, theo quy định tại Điều 328 Bộ luật
dân sự năm 2015“Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc
vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo
đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Ông C và vợ chồng ông H ký hợp đồng đặt
cọc ngày 19/5/2022 để đảm bảo giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đối với phần đất có diện tích 1048,2m
2
(Trong đó có 100m
2
đất thổ cư, có đường
đi vào đất 4m), diện tích đất này nằm trong trong thửa đất số: 201, tờ bản đồ số 7,
toạ lạc tại khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước, thuộc quyền sử dụng
đất của hộ ông bà H1; theo nội dung hợp đồng nêu trên thì ông C và vợ chồng ông
H không thoả thuận thời hạn cụ thể để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng là
trong thời hạn nào, các bên chỉ thoả thuận “Lần thứ nhất bên B đặt cọc cho bên A
số tiền 150.000.000 đồng (các bên thừa nhận là ngày 19/5/2022); lần thứ hai cách
03 tháng kể từ ngày đặt cọc lần thứ nhất bên B bồi thêm tiền cọc cho bên A số tiền
150.000.000 đồng và số tiền 400.000.000 đồng còn lại bên B thanh toán cho bên A
sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng C1, ra tên cho bên B”. Mặc dù,
trong hợp đồng đặt cọc có thoả thuận “Các thủ tục tách thửa, thổ cư do bên bán
nhận làm và chịu chi phí” nhưng các bên không thoả thuận về thời hạn để đảm bảo
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng nên đây là hợp đồng đặt cọc không có thời hạn;
quá trình giải quyết vụ án ông C và vợ chồng ông H tự nguyện thoả thuận huỷ hợp
đồng đặt cọc ngày 19/5/2022 đã ký giữa các bên, vợ chồng ông H hoàn trả lại số
tiền 150.000.000 đồng đã nhận cọc cho ông C nên vợ chồng ông H không vi phạm
điều khoản “Nếu bên A (vợ chồng ông H) đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải
đền gấp 2 lần số tiền đã nhận cọc của bên B (ông C)” như các bên đã thoả thuận
trong hợp đồng, ngoài thoả thuận về đền cọc như nêu trên thì hợp đồng đặt cọc ngày
19/5/2022 không có thoả thuận về nghĩa vụ chịu lãi trên số tiền đặt cọc khi một
trong hai bên vi phạm hợp đồng. Mặt khác, tại biên bản xác minh ngày 12/9/2024
tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã C thể hiện phần đất có diện tích
6
1048.2m
2
các bên thoả thuận chuyển nhượng không đủ điều kiện tách thửa theo quy
định của pháp nên trong trường hợp vợ chồng ông H không thực hiện được việc
tách thửa cũng do khách quan. Từ những nhận định trên có cơ sở xác định vợ chồng
ông H1 không có lỗi dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng nên việc ông C
yêu cầu vợ chồng ông H trả tiền lãi với tổng số tiền là 63.825.000 đồng như nêu trên
là không có căn cứ, không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát: Tại phiên toà quan điểm
giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông C
được chấp nhận một phần nên ông C phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không
được chấp nhận, cụ thể: Ông C phải chịu án phí đối với yêu cầu tính lãi không được
chấp nhận với số tiền là: 63.825.000 đồng x 5% = 3.191.250 đồng. Ông H, bà H1
phải chịu án phí đối với phần yêu cầu của ông C được chấp nhận, cụ thể: ông H, bà
H1 phải chịu án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc là
300.000 đồng và yêu cầu trả lại tiền cọc với số tiền là: 150.000.000 đồng x 5% =
7.500.000 đồng. Tổng số tiền án phí ông H, bà H1 phải chịu là 7.800.000 đồng.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
các Điều 144; Điều 147; 244; 266; 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 328; 423 và Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 26 nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng C:
Ghi nhận sự thoả thuận của ông Nguyễn Hoàng C và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn
Thị H1.
1. Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất ngày 19/5/2022 ký giữa ông Nguyễn Hoàng C và ông Nguyễn Văn H, bà
Nguyễn Thị H1 để đảm bảo giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với phần đất có diện tích là 1048.2 m
2
, phần đất này nằm trong thửa đất số: 201,
tờ bản đồ số 7, diện tích 6442.8 m
2
toạ lạc tại Khu phố A, phường M, thị xã C, tỉnh
Bình Phước, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H - 00887, do UBND
huyện C cấp ngày 15/01/2009 cho hộ ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1.
2. Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ phải trả cho ông
Nguyễn Hoàng C số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán số tiền phải thi hành
thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành.
7
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hoàng C yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1 trả số tiền lãi là
63.825.000 đồng (Sáu mươi ba triệu tám trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Hoàng C phải chịu án phí với số
tiền là 3.191.250 đồng (Ba triệu một trăm chín mươi mốt ngàn hai trăm năm mươi
đồng), được trừ vào số tiền 7.500.000 đồng ông C nộp tạm ứng án phí tại biên lai
thu tiền số 0004353 ngày 13/7/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự thị xã Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước, hoàn trả cho ông C số tiền 4.308.750 đồng (Bốn triệu ba
trăm lẻ tám ngàn bảy trăm năm mươi đồng); Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1
phải chịu án phí với số tiền là 7.800.000 đồng (Bảy triệu tám trăm ngàn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
7hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Nơi nhận
- VKSND thị xã Chơn Thành;
- Chi cục THADS thị xã Chơn Thành;
- TAND tỉnh Bình Phước;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Trần Quốc Mạnh
8
Tải về
Bản án số 73/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 73/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm