Bản án số 72/2024/DS-ST ngày 28/09/2024 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 72/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 72/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 72/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 72/2024/DS-ST ngày 28/09/2024 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Việt Yên (TAND tỉnh Bắc Giang) |
Số hiệu: | 72/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty TNHH Việt Hàn - Ông Nguyễn Văn Tuấn tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VIỆT YÊN
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 72/2024/DS-ST
Ngày 28-9-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng
Mua bán hàng hoá.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG
Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Tân Thịnh;
- Các hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Đức Hiền và ông Hoàng Văn Tấn.
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Trang – Thư ký Tòa án nhân
dân thị xã Việt Yên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Việt Yên tham gia phiên tòa: Ông Ong
Văn Chúc - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và 28 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 100/2023/TLST-
DS ngày 25 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 85/2024/QĐXXST-DS, ngày 24
tháng 8 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: Công ty TNHH B1.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện V (nay là tổ dân phố Đ, phường Q, thị xã V),
tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Đức T – chức vụ: Giám đốc (có mặt).
Bị đơn: Ông Trần Văn T1, sinh năm 1973; (có mặt)
Địa chỉ: Thôn K, xã Q, huyện V (nay là tổ dân phố K, phường Q, thị xã V),
tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1963; (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Ả, xã T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang.
2. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1959; (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Q, xã T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang.
3. Ông Tiêu Văn S, sinh năm 1954; (vắng mặt)
2
Địa chỉ: Thôn C, xã T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang.
4. Ông Đỗ Văn Á, sinh năm 1971; (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, ông Ngô Đức T đại diện Nguyên đơn trình
bày:
Công ty TNHH B1 chuyên bán bê tông thương phẩm cho các công trình, nhà
dân và khách hàng có nhu cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Ngày 25/8/2022, ông
Trần Văn T1 là cai xây dựng và là chỗ quen biết đến trụ sở Công ty TNHH B1 hỏi
mua bê tông của Công ty để làm công trình đường nông thôn tại địa bàn xã T, huyện
V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang. Sau khi trao đổi, cùng ngày hai bên ký kết hợp
đồng mua bán số 25.8/ND/2022/HĐMB tại văn phòng Công ty TNHH B1. Theo ni
dung Hợp đồng: Bên mua là ông T1 và bên bán là Công ty TNHH B1. Bên mua đồng
ý mua các loại vật liệu phục vụ công trình xây dựng: Bê tông thương phẩm và bên
mua phải thanh toán tiền cho bên bán. Đơn giá, số lượng, chủng loại được hai bên
thống nhất và xác nhận ghi qua từng đơn hàng. Thời hạn thanh toán: Theo tiến đ
cung cấp từng mẻ đổ đến 1000m
3
thì bên mua phải trả cho bên bán 70% giá trị, 30%
còn lại sẽ cng dồn vào số công nợ của khối lượng thanh toán tiếp theo cho đến khi
kết thúc công trình. Bên mua thanh toán từ 1-5 ngày sau khi hai bên chốt công nợ.
Quá trình thực hiện Hợp đồng, Công ty TNHH B1 đã giao hàng hóa đầy đủ
cho ông T1 theo đúng cam kết. Việc giao nhận được phản ánh trên các phiếu giao bê
tông. Tuy nhiên khi kết thúc công trình (tháng 12/2022) ông T1 vi phạm hợp đồng
không thanh toán nốt số tiền còn nợ, mặc dù Công ty TNHH B1 đã đôn đốc nhiều
lần.
Do vậy, ngày 30/5/2023, hai bên đã chốt công nợ thể hiện tại bản Tổng hợp
công nợ mà ông T1 đã ký xác nhận, theo bản Tổng hợp công nợ này xác định ông T1
còn nợ Công ty TNHH B1 tổng số nợ khối lượng bê tông 4128,5 m
3
x 850.000 đ/m
3
= 3.509.225.000 đồng; tiền thuế xuất hoá đơn giá trị gia tăng của các thôn là
440.096.604 đồng. Ông T1 đã trả là 3.070.000.000 đồng. Ông T1 còn nợ Công ty
TNHH B1 số tiền mua bê tông là 879.321.604 đồng, trong đó tiền bê tông thương
phẩm còn nợ là 439.225.000 đồng và tiền xuất 25 hoá đơn giá trị gia tăng có tổng số
tiền là 440.096.604 đồng. Ngày 24/8/2024 tại buổi hoà giải, ông T đại diện Công ty
TNHH B1 xác nhận ngoài số tiền đã kê khai số tiền ông T1 đã trả trong bản Tổng
hợp công nợ thì còn khoản tiền 53.840.000 đồng tiền nhân công ông T1 trả sau ngày
đối chiếu công nợ, như vậy tổng số tiền ông T1 còn nợ là 825.481.604 đồng.
Nay Công ty TNHH B1 đề nghị Tòa án buc ông Trần Văn T1 phải trả Công ty
TNHH B1 số tiền còn nợ là 825.481.604 đồng và trả số tiền lãi suất quá hạn mà hai
bên đã thỏa thuận tại Điều 2 của Hợp đồng đã giao kết kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ
thanh toá cho đến ngày xét xử.
3
Bị đơn ông Trần Văn T1 trình bày: Ông là chủ cai xây dựng chuyên đổ bê tông
cho các công trình. Ông xác nhận ngày 25/8/2022, giữa ông và Công ty TNHH B1 có
ký kết hợp đồng mua bán số 25.8/ND/2022/HĐMB. Hai bên thống nhất các điều
khoản ghi trong hợp đồng. Cụ thể ông mua bê tông thương phẩm của Công ty TNHH
B1 để đổ đường giao thông nông thôn. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty TNHH
B1 đã giao đủ số lượng làm xong đường giao thông nông thôn, chất lượng bê tông,
giá thành. Ông xác định có mua khối lượng bê tông thương phẩm của Công ty TNHH
B1 số tiền mua bê tông là 3.509.225.000 đồng (4.128,5m
3
x 850.000 đồng/1m
3
). Ông
đã thanh toán cho nguyên đơn số tiền 3.070.000.000 đồng theo bản Tổng hợp công
nợ ngày 30/5/2023 do Công ty TNHH B1 cung cấp và trả 53.840.000 đồng tiền nhân
công. Tổng số tiền đã trả Công ty TNHH B1 là: 3.123.840.000 đồng. Số tiền
16.000.000 đồng trước đây ông trình bày nay ông xác định không liên quan đến Công
ty TNHH B1 nên ông không yêu cầu đối trừ số tiền này. Ông xác định chỉ còn nợ
Công ty TNHH B1 số tiền là 385.385.000 đồng.
Tuy nhiên ông xác định bản Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023 chỉ là do ông
tạm ký. Các bên chưa chốt với nhau cụ thể. Ông không đồng ý trả tiền thuế xuất hoá
đơn giá trị gia tăng có tổng số tiền là 440.096.604 đồng thể hiện trong bản Tổng hợp
công nợ nêu trên vì số tiền này các thôn phải có trách nhiệm trả, đồng thời ông và
Công ty TNHH B1 không thỏa thuận việc ông phải trả tiền thuế trong hợp đồng nên
ông không đồng ý trả và ông T1 không đồng ý trả khoản tiền lãi.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Thực hiện theo nghị quyết 02 và nghị quyết 16 của Hi đồng nhân dân huyện
V (nay là thị xã V) về việc hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn (đường N), trong
đó thôn Q cũng được hỗ trợ khối lượng lớn, công việc đổ bê tông vào tháng 12/2022,
sau khi hoàn thành công việc ông Trần Văn T1 và đại diện thôn, xã, huyện xác nhận
khối lượng công việc hai bên không có tranh chấp gì. Đến ngày 30/12/2022 nhận
được tiền hỗ trợ của huyện tại ngân hàng N với số tiền 1.844.000.000 đồng thì ban
quản lý thôn do ông trả toàn b số tiền này trả cho ông T1 ngay tại Ngân hàng.
Việc đổ bê tông nêu trên ông không ký hợp đồng với ông T1 hoặc với ai khác.
Ông khẳng định đã trả tiền đổ bê tông làm đường cho thôn Quả xong không còn nợ
khoản tiền nào khác đối với ông T1 nên không liên quan đến việc Công ty TNHH B1
với ông Trần Văn T1. Còn giữa ông T1 và Công ty TNHH B1 quan hệ làm ăn như
thế nào ông không biết. Việc np thuế để xuất hoá đơn giá trị gia tăng không phải do
thôn np, ông chỉ đứng ra hỗ trợ ông T1 làm các thủ tục thanh toán, thôn không mất
thêm mt khoản tiền nào khác.
Ngoài ra ông Đ không có yêu cầu đề nghị nào khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn Á trình bày:
Thực hiện theo nghị quyết 02 và nghị quyết 16 của Hi đồng nhân dân huyện
V (nay là thị xã V) về việc hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn (đường N), trong
đó thôn Đ cũng được hỗ trợ, công việc đổ bê tông vào tháng 10/2022, sau khi hoàn
thành công việc ông Trần Văn T1 và đại diện thôn, xã, huyện nghiệm thu xác nhận
khối lượng công việc để hỗ tiền bê tông hai bên không có tranh chấp gì. Đến ngày
4
28/12/2022 trả ông Trần Văn T1 ngay tại ngân hàng N số tiền 272.900.000 đồng, lần
2 trả tại ngân hàng nng nghiệp số tiền 475.000.000 đồng. (tiền hỗ trợ của huyện) thì
ông trả toàn b số tiền này trả cho ông T1 ngay tại Ngân hàng.
Việc đổ bê tông nêu trên ông không ký hợp đồng với ông T1 hoặc với ai khác.
Tôi khẳng định đã trả tiền đổ bê tông làm đường cho thôn Quả xong không còn nợ
khoản tiền nào khác đối với ông T1 nên không liên quan đến việc Công ty TNHH B1
với ông Trần Văn T1. Còn giữa ông T1 và Công ty TNHH B1 quan hệ làm ăn như
thế nào ông không biết. Việc np thuế để xuất hoá đơn giá trị gia tăng không phải do
thôn np, ông chỉ đứng ra hỗ trợ ông T1 làm các thủ tục thanh toán, thôn không mất
thêm mt khoản tiền nào khác. Ngoài ra ông Á không có yêu cầu đề nghị nào khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn B trình bày:
Thực hiện theo nghị quyết 02 và nghị quyết 16 của Hi đồng nhân dân huyện
V (nay là thị xã V) về việc hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn (đường N), trong
đó thôn Ả cũng được hỗ trợ khối lượng lớn, công việc đổ bê tông vào từ tháng 8 đến
tháng 12/2022, sau khi hoàn thành công việc ông Trần Văn T1 và đại diện thôn, xã và
đại diện huyện V nghiệm thu xác nhận khối lượng công việc hai bên không có tranh
chấp gì. Trả tổng số tiền là 3.546.000.000 đồng (số lần trả cụ thể có bản phô tô kèm
theo) Trong đó có cả 500.000.000 đồng chuyển khoản Công ty TNHH B1 và
500.000.000 bằng phiếu thu. Sau khi nhận được tiền hỗ trợ của huyện tại ngân hàng
N với số tiền 3.546.000.000 đồng thì ông trả toàn b số tiền này trả cho ông T1 tại
Ngân hàng.
Việc đổ bê tông nêu trên ông không ký hợp đồng với ông T1 hoặc với ai khác.
ông khẳng định đã trả tiền đổ bê tông làm đường cho thôn Ả xong không còn nợ
khoản tiền nào khác đối với ông T1 nên không liên quan đến việc Công ty TNHH B1
với ông Trần Văn T1. Còn giữa ông T1 và Công ty TNHH B1 quan hệ làm ăn như
thế nào ông không biết. Việc np thuế để xuất hoá đơn giá trị gia tăng không phải do
thôn np, Ông chỉ đứng ra hỗ trợ ông T1 làm các thủ tục thanh toán, thôn không mất
thêm mt khoản tiền nào khác. Ngoài ra ông B không có yêu cầu đề nghị nào khác.
Ông Tiêu Văn S trình bày:
Thực hiện theo nghị quyết 02 và nghị quyết 16 của Hi đồng nhân dân huyện
V (nay là thị xã V) về việc hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn (đường N), trong
đó thôn Ả cũng được hỗ trợ khối lượng lớn, công việc đổ bê tông vào từ tháng 8 đến
tháng 12/2022, sau khi hoàn thành công việc ông Trần Văn T1 và đại diện thôn, xã và
đại diện huyện V nghiệm thu xác nhận khối lượng công việc hai bên không có tranh
chấp gì. Trả tổng số tiền là 426.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền hỗ trợ của
huyện tại ngân hàng N với số tiền 426.000.000 đồng thì ông trả toàn b số tiền này
trả cho ông T1 tại Ngân hàng.
Việc đổ bê tông nêu trên ông không ký hợp đồng với ông T1 hoặc với ai khác.
Ông khẳng định đã trả tiền đổ bê tông làm đường cho thôn N xong không còn nợ
khoản tiền nào khác đối với ông T1 nên không liên quan đến việc Công ty TNHH B1
với ông Trần Văn T1. Còn giữa ông T1 và Công ty TNHH B1 quan hệ làm ăn như
thế nào ông không biết.
5
Ngoài ra ông S không có yêu cầu đề nghị nào khác.
Tại phiên toà, sau khi đối chiếu các mã giao bê tông nguyên đơn Công ty
TNHH B1 xác nhận mất mt phiếu giao bê tông 10 khối so với bản Tổng hợp công
nợ hai bên đã đối chiếu ngày 30/5/2023, do vậy ông T đại diện Công ty TNHH B1
đồng ý trừ giá trị của 10 khối bê tông trị giá 8.500.000 đ vào số tiền đã chốt ngày
30/5/2023 là 825.481.604 đ – 8.500.000đ = 816.981.604 đồng.
Bị đơn ông Trần Văn T1 giữ nguyên quan điểm chỉ đồng ý trả số tiền bê tông
còn nợ, không đồng ý trả lãi và không đồng ý trả tiền thuế xuất hoá đơn giá trị gia
tăng do không có thoả thuận trong hợp đồng.
Đại diện VKSND thị xã Việt Yên tham gia phiên toà nhận xét:
- Về chấp hành pháp luật: Người tiến hành tố tụng gồm: Thẩm phán, thư ký và
HĐXX đã thực hiện theo đúng quy định của B luật Tố tụng dân sự về thời hạn giải
quyết vụ án; việc thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan, đảm bảo trình tự thủ tục tố
tụng dân sự. Đối với Người tham gia tố tụng gồm có: Nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện theo đúng quy định của B luật Tố tụng
dân sự.
- Về nội dung: Áp dụng Điều 274, 275, 357, 385, 429, 430, 440, khoản 2 Điều
468 B luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều
150; Điều 227; Điều 228 B luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hi, quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, np, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B1. Buc ông Trần Văn
T1 có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH B1 tiền còn nợ là 892.515.639 đồng trong đó:
tiền còn nợ là 816.981.604 đồng và tiền lãi là 75.534.035 đồng.
Về án phí: Ông Trần Văn T1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên phải chịu
38.775.469 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị
xã Việt Yên và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hi đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thẩm quyền: Hợp đồng giữa Công ty TNHH B1 được xác lập với ông
Trần Văn T1 (không đăng ký kinh doanh) là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa pháp
nhân và cá nhân, bị đơn là ông Trần Văn T1 có địa chỉ cư trú tại thị xã V nên thẩm
quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1
Điều 39 B luật tố tụng dân sự là TAND thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
[2] Về thời hiệu: Ngày 30/5/2023 giữa Công ty TNHH B1 và ông Trần Văn T1
có lập biên bản Tổng hợp công nợ. Ngày 25/10/2023 Công ty TNHH B1 np đơn
6
khởi kiện tại Tòa án. Như vậy đảm bảo về thời hiệu khởi kiện quy định tại được quy
định tại khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của B
luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011. Điều 2 nghị quyết số: 103/2015/QH13
ngày 25/11/2015, nghị quyết về việc thi hành B luật tụng dân sự của Quốc hi.
[3] Về ni dung: Căn cứ vào hợp đồng hợp đồng mua bán số:
25.8/ND/2022/HĐMB ngày 25 tháng 8 năm 2022 được ký kết giữa Công ty TNHH
B1 và ông Trần Văn T1. Theo ni dung Hợp đồng: Bên mua là ông T1 và bên bán là
Công ty TNHH B1. Bên mua đồng ý mua các loại vật liệu phục vụ công trình xây
dựng: Bê tông thương phẩm và bên mua phải thanh toán tiền cho bên bán. đơn giá, số
lượng, chủng loại được hai bên thống nhất và xác nhận ghi qua từng đơn hàng cụ thể.
Thời hạn thanh toán: Theo tiến đ cung cấp từng mẻ đổ đến 1000m
3
thì bên mua phải
trả cho bên bán 70% giá trị, 30% giá trị còn lại sẽ cng dồn vào số công nợ của khối
lượng thanh toán tiếp theo cho đến khi kết thúc công trình. Bên mua thanh toán từ 1-5
ngày sau khi hai bên chốt công nợ.
Quá trình thực hiện Hợp đồng, Công ty TNHH B1 đã giao hàng hóa đầy đủ cho ông
T1 theo đúng cam kết. Hai bên không có tranh chấp về số lượng, chủng loại, chất
lượng, giá thành và các tiêu chuẩn khác của hàng hóa. Việc thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa trên ông Trần Văn T1 thừa nhận và đã được thay thế bằng bản Tổng
hợp công nợ ngày 30/5/2023 giữa Công ty TNHH B1 và ông Trần Văn T1.
Trong quá trình làm việc tại Toà án cũng như tại buổi làm việc ngày 24/8/2024
ông T1 xác nhận khối lượng bê tông thương phẩm, giá thành, việc ông T1 đã thanh
toán trả cho Công ty TNHH B1 theo biên bản tổng hợp công nợ liệt kê là đúng. Tuy
nhiên ngày 09/9/2024 ông T1 đến Toà án giao np 35 mã giao bê tông thương phẩm
(phiếu giao bê tông) giữa Công ty TNHH B1 và ông T1 có tổng khối lượng
3.621,5m
3
chứ không phải 4.128,5m
3
bê tông như trong bản Tổng hợp công nợ ngày
30/5/2023. Nếu phía Công ty TNHH B1 có giấy tờ chứng minh và do ông T1 ký thì
ông chấp nhận. Cùng ngày 09/9/2024 phía Công ty TNHH B1 mang giao np 47 mã
giao bê tông thương phẩm (bản gốc) theo hợp đồng đã ký kết với ông T1 và có tổng
khối lượng 4.118,5m
3
bê tông hụt so với bản tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023 là 10
khối bê tông, do vậy phía đại diện công ty đồng ý trừ giá trị 10 khối bê tông này vào
tổng số tiền đã tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023. Sau khi đối chiếu chứng cứ là các
phiếu giao nhận bê tông thì ông T1 không có 07 mã giao bê tông (của thôn Q, xã T).
Đối với khối lượng bê tông của 07 mã giao bê tông này ông T1 không thừa nhận vì
ông không ký nhận vào phiếu giao bê tông. Tuy nhiên ông Đ đại diện Ban quản lý
thôn Q, xã T xác nhận chữ ký của 07 mã bê tông do Toà án cho tiếp cận, trong đó
phần lớn là do ông ký nhận, ngoài ra còn có các ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn
T2, ông Diêm Công K và ông Nguyễn Văn C đều làm trong ban giám sát cng đồng
về việc đổ bê tông, việc các ông ký nhận là do ông T1 nhờ và tất cả khối lượng bê
tông đều đã được nghiệm thu và thanh toán xong. Hơn nữa ngày 30/5/2023 ông T1
cùng đại diện Công ty TNHH B1 đã đối chiếu khối lượng bê tông cùng số tiền thuế
xuất hoá đơn giá trị gia tăng, nên xét thấy không cần thiết phải xem xét lại quá trình
thực hiện hợp đồng mà căn cứ vào bản Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023 để xác
định quyền nghĩa vụ giữa các bên. Kể từ sau ngày lập biên bản Tổng hợp công nợ
7
(30/5/2023) ông T1 không cung cấp thêm chứng cứ tài liệu nào khác.
Như vậy tổng số khối lượng bê tông Công ty TNHH B1 đã bán cho ông T1 là
4.118,5m
3
x 850.000 đồng/1m
3
= 3.500.725.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, ông T1 không đồng ý trả tiền
thuế giá trị gia tăng vì ông cho rằng trong hợp đồng 25.8/ND/2022/HĐMB ngày 25
tháng 8 năm 2022 được ký kết giữa Công ty TNHH B1 và ông T1 không có điều
khoản nào thể hiện ông phải chịu tiền thuế giá trị gia tăng. Xong căn cứ biên bản
Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023 mà ông đã ký xác nhận thì thấy ông Trần Văn T1
là người có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm dân sự, không bị nhược điểm về thể
chất và tinh thần, do vậy ông T1 phải chịu trách nhiệm với các giao dịch dân sự mà
ông tham gia ký kết, do vậy có căn cứ buc ông T1 phải có nghĩa vụ trả khoản tiền
thuế xuất hoá đơn giá trị gia tăng nêu trên.
Từ những phân tích, đáng giá nêu trên và sự xác nhận của các bên đương sự có
căn cứ xác định: Ông Trần Văn T1 còn nợ Công ty TNHH B1 879.321.604 đồng
(theo bản Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023), trong đó tiền bê tông thương phẩm còn
nợ là 439.225.000 và tiền xuất 25 hoá đơn giá trị gia tăng tổng là 440.096.604 đồng.
Tuy nhiên tại buổi hoà giải Ngày 24/8/2024, ông T đại diện Công ty TNHH B1 xác
nhận ngoài số tiền đã kê khai số tiền ông T1 đã trả trong bản Tổng hợp công nợ thì
còn khoản tiền 53.840.000 đồng tiền nhân công ông T1 trả sau ngày đối chiếu công
nợ và sau khi đối chiếu cụ thể từng mã phiếu giao bê tông, phía đại diện Công ty
TNHH B1 đồng ý trừ thêm khoản tiền giá trị 10 khối bê tông do thất lạc phiếu giao
bê tông là 8.500.000 đồng, như vậy tổng số tiền ông T1 còn nợ là 879.321.604 đồng
(theo bản Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023) - 53.840.000 đồng - 8.500.000 đồng =
816.981.604 đồng. Do vậy cần buc ông Trần Văn T1 phải có nghĩa vụ trả cho Công
ty TNHH B1 số tiền còn nợ là 816.981.604 đồng (T3 trăm mười sáu triệu chín trăm
tám mốt nghìn sáu trăm linh bốn đồng) và tiền lãi chậm thanh toán theo thoả thuận.
[5] Quá trình giải quyết vụ án, đại diện Công ty TNHH B1 yêu cầu ông Trần
Văn T1 phải trả tiền lãi quá hạn đối với số tiền chậm thanh toán theo quy định của
pháp luật.
Căn cứ tiểu mục 3,4 mục 2.2 Điều 2 trong hợp đồng thì phương thức thanh toán
thì ông T1 phải chịu lãi suất theo lãi suất quá hạn theo quy định của ngân hàng N1
đối với số tiền bê tông thành phẩm chưa thành toán là 376. 885.000 đồng; còn đối với
số tiền xuất 25 hoá đơn giá trị gia tăng tổng là 440.096.604 đồng hai bên không có
thoả thuận về nghĩa vụ chậm trả tiền thuế xuất hoá đơn nêu trên nên không có căn cứ
để tính lãi do ông T1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán của Công ty TNHH B1 kể từ ngày
vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho đến ngày xét xử.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 468 B luật dân sự: “...Bằng 50% mức lãi suất
giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự (20%/năm)”, nghĩa là bằng
10%/năm (0,83%/tháng). Yêu cầu tính lãi theo lãi suất quá hạn của Công ty TNHH
B1 là phù hợp nên cần chấp nhận yêu cầu này, nghĩa là bằng 15%/năm
(1.25%/tháng).
8
Thời điểm tính lãi theo tiểu mục 3,4 mục 2.2 Điều 2 trong hợp đồng có ghi
“…Bên A thanh toán từ 1-5 ngày sau khi hai bên chốt công nợ”. Như vậy ngày hai
bên chốt công nợ thể hiện qua biên bản Tổng hợp công nợ ngày 30/5/2023, do vậy
ngày ông T1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán kể từ ngày 06/6/2023, do vậy ông T1 phải
chịu khoản tiền lãi kể từ ngày 06/6/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2024.
Cụ thể, số tiền lãi được tính như sau: 376. 885.000 đồng x 15%/năm x 481 ngày
(06/6/2023 – 28/9/2024) = 75.534.035 đồng.
Tổng số tiền ông T1 phải trả Công ty TNHH B1 là 892.515.639 đồng trong đó:
tiền còn nợ là 816.981.604 đồng và tiền lãi là 75.534.035 đồng.
[6] Đối với yêu cầu tính lãi suất do chậm thi hành án thì thấy: Yêu cầu này là có
căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 357 và Điều 468 B luật dân sự 2015 nên được
HĐXX chấp nhận.
Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty
TNHH B1 đối với ông Trần Văn T1. Buc ông Trần Văn T1 phải trả cho Công ty
TNHH B1 số tiền còn nợ là 816.981.604 đồng và tiền lãi là 75.534.035 đồng. Tổng
số tiền 892.515.639 đồng (T3 trăm chín mươi hai triệu năm trăm mười năm nghìn
sáu trăm ba mươi chín đồng).
[7] Án phí: Do yêu cầu của Công ty TNHH B1 được toà án chấp nhận nên
Công ty TNHH B1 không phải chịu án phí. Ông Trần Văn T1 phải chịu toàn b án
phí dân sự sơ thẩm 38.775.469 đồng. (Cụ thể: 800.000.000đ= 36.000.000đ;
92515639đ x 3% = 2.775.469đ).
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Từ những nhận định trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 87, 385, 429, 430, 440, Điều 468, 470 B luật dân sự; Điều 357
và Điều 468 B luật dân sự 2015; Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1
Điều 39, 91, 93, khoản 8 điều 94, 95, 96, 147, 179, 271 và điều 273 của B luật tố
tụng dân sự; Khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hi về mức thu, miễn, giảm, thu, np, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí tòa án; Xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B1.
Buc ông Trần Văn T1 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH B1 số tiền còn
nợ là 816.981.604 đồng và tiền lãi là 75.534.035 đồng. Tổng cng 892.515.639 đồng
(T3 trăm chín mươi hai triệu năm trăm mười năm nghìn sáu trăm ba mươi chín
đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án mà người phải thi hành án không trả thì hàng tháng người phải thi
hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại
khoản 2 Điều 357 của B luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
9
thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
- Án phí: Ông Trần Văn T1 phải chịu 38.775.469 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Công ty TNHH B1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả Công ty
TNHH B1 20.744.000đ tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số: 0000238 ngày
25/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên (nay là thị xã V), tỉnh
Bắc Giang.
Án xử sơ thẩm, Công ty TNHH B1 và ông Trần Văn T1 có mặt có quyền kháng
cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang.
- VKSND thị xã Việt Yên.
- Chi cục T.H.A DS thị xã Việt Yên;
- Các đương sự;
- Lưu
T /M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Vũ Tân T4
Tải về
Bản án số 72/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 72/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 03/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 17/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 23/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 20/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 02/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm