Bản án số 227/DS ngày 24/11/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
  • Bản án số 227/DS

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • Bản án số 227/DS

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 227/DS

Tên Bản án: Bản án số 227/DS ngày 24/11/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 227/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc giữa Nguyễn Thị H và Đinh Công T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tophiên toà:
Các Thẩm phán:
bà Hoàng Ngọc Liễu
ông Nguyễn Kim Trường
ông Đinh Trường Sơn
- Thư ký phiên toà: Lò Phương Anh - TTòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: ông
Hoàng Xuân Tân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 21/10 và ngày 24 tháng 11 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Phú Thọ (cơ sở 3) xét xử phúc thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số
78/2025/TLPT- DS ngày 31/7/2025 về việc Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc. Do Bản
án dân sự sơ thẩm s05/2025/DS - ST ngày 23 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân
dân huyện K, tỉnh Hòa Bình (nay Tòa án nhân dân khu vực 13 - Phú Thọ) bị
kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 148/2025/QĐ-PT
ngày 27/8/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1981.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Thanh N, sinh năm 1981.
Cùng địa chỉ: 5, đường A, phường P, thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn: ông Đinh Công T, sinh năm 1960 Bùi Thị D, sinh năm 1960.
Cùng địa chỉ: xóm T, xã M, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Chí H1, sinh năm 1983. Địa chỉ:
thôn T, xã X, thành phố Hà Nội.
3. Người làm chứng:
3.1. Bà Bùi Thị L, sinh năm 1980. Địa chỉ: xóm M, xã H, tỉnh Phú Th.
3.2. Anh Lê Xuân Đ1, sinh năm 1994. Địa chỉ: khu Đ, xã K, tỉnh Phú Thọ.
4. Người kháng cáo: ông Nguyễn Chí H1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 227/2025/DS - PT
Ngày: 24 - 11 - 2025
V/v: Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
(Tại phiên tòa, H, ông N, ông H1 mặt. Ông T bà D vắng mặt. Ngoài
ra Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập bổ sung người làm chứng trong đó anh Đ đơn
xin xét xử vắng mặt; bà L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện lời khai trong quá trình tham gia tố tụng
nguyên đơn Nguyễn Thị H và người đại diện theo ủy quyền ông Phạm Thanh N
trình bày:
Cuối năm 2021, anh Lê Công Đ1 người quen giới thiệu với H anh Đ1
quen biết người dân muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại xóm T, xã H,
huyện K, tỉnh Hòa Bình. Anh Đ1 bảo anh Bùi Văn D1 đang làm môi giới thửa đất
này, bà H gặp anh D1 thì anh D1 bảo bà Bùi Thị L là người môi giới chính. Sau đó
vợ chồng H đến gặp chủ đất ông Đinh Công T, sau khi xem đất xong
đến nhà L để trao đổi. H đã đưa trước tiền đặt cọc cho L 200.000.000
đồng, hẹn khi nào làm việc được với ông T thì cọc thêm 600.000.000 đồng nữa.
Đến ngày 27/01/2022, vợ chồng H cùng L, anh D1 anh Đ1 cùng đi đến
nhà ông T, hôm đó vợ chồng ông T D nhà, mục đích đến nhà ông T để
chuyển cọc trực tiếp sang cho ông T, tại nhà ông T giữa bà H vợ chồng ông T
có ký kết Hợp đồng đặt cọc với nội dung: Vợ chồng ông T đồng ý chuyển nhượng
cho H 96.000m
2
đất rừng sản xuất tại xóm T, H, K, tỉnh a Bình. Giá
chuyển nhượng là 2.800.000.000 đồng, bên mua đặt cọc trước số tiền 800.000.000
đồng. Số tiền còn lại là 2.000.000.000 đồng. Bên bán có trách nhiệm đo lại và cấp
đổi sổ mới với diện tích là 110.000m
2
(11 ha). Thời hạn ra sổ mới là 90 ngày kể từ
27/01/2022 đến 27/04/2022. Nếu thời hạn trên bên bán không ra được sổ thì
phạt cọc gấp 3 lần số tiền đặt cọc, tổng cộng 2.400.000.000 đồng. Nếu thời hạn
trên, bên mua không xuống hết tiền thì sẽ mất hết số tiền cọc. Nếu bên bán không
chuyển nhượng cho bên mua thì bên bán bị phạt gấp 03 lần số tiền cọc. Ngoài ra,
hợp đồng còn thỏa thuận về thuế và lệ phí và cam kết chung.
Cùng ngày Hợp đồng, H đã giao số tiền đặt cọc, ông T bà D trực
tiếp nhận 600.000.000 đồng nhưng trong Hợp đồng đặt cọc ghi số tiền đặt cọc
800.000.000 đồng. ông T D đồng ý cộng cả 200.000.000 đồng H đã
giao cho L trước đấy tiền công môi giới bán đất của L nên ông T đã ghi
dòng chTôi đã nhận đủ stiền đặt cọc bên dưới Hợp đồng. Đến ngày
27/04/2022, bà H đã mang số tiền 2.000.000.000 đồng đến nhà ông T yêu cầu tiếp
tục thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng do ông T, bà D chưa
ra được sổ mới theo diện tích như đã thỏa thuận trong Hợp đồng nên không thực
hiện việc chuyển nhượng được. vậy hai bên đã lập Biên bản xác nhận tiến độ
3
thực hiện hợp đồng đặt cọc với nội dung: việc chuyển nhượng không thực hiện
được do lỗi của ông T, bà D. Dó đó, H có quyền yêu cầu ông T, bà D nộp phạt
vi phạm Hợp đồng số tiền 2.400.000.000 đồng, ông T bà D đề nghị bà H cho thêm
thời gian để hoàn tất thủ tục ra Bìa đất mới, cam kết chậm nhất đến 20/8/2022 sẽ
ra Bìa đất mới. H đã nhờ anh Lê Công Đ1 viết Biên bản xác nhận này, sau đó
cũng đã nhiều lần thông báo qua anh Công Đ1 yêu cầu ông T, D ra Bìa
mới để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng cho đến nay ông T, bà
D vẫn chưa ra được B mới. vậy bà H đã khởi kiện yêu cầu ông T, bà D nghĩa
vụ liên đới trả bà số tiền gốc đã đặt cọc là 800.000.000đ tiền phạt cọc gấp đôi
1.600.000.000đ. Tổng cộng 2.400.000.000đ đồng thời trả lãi đối với số tiền do
chậm thực hiện nghĩa vụ từ ngày 27/04/2022. Quá trình giải quyết, H xin rút yêu
cầu tính lãi. Toàn bộ số tiền đặt cọc tiền riêng của H, việc H thỏa thuận đặt
cọc mua bán thửa đất trên là việc làm ăn riêng của cá nhân không liên quan đến gia
đình chồng, con.
* Các bị đơn ông Đinh Công T, Bùi Thị D người đại diện theo ủy quyền
ông Nguyễn Chí H1 trình bày:
Vợ chồng ông Đinh Công T Bùi Thị D Hợp đồng đặt cọc thỏa
thuận chuyển nhượng 96.000m
2
đất rừng sản xuất tại địa chỉ xóm T, xã H, K,
tỉnh Hòa Bình cho Bùi Thị L với giá 2,1 tỷ đồng, đất đã Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do y ban nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình cấp, số vào sổ
00499 quyền sử dụng đất đứng tên ông Đinh Công T. L đã đưa trước cho vợ
chồng ông số tiền đặt cọc 600.000.000đ. Vợ chồng ông cũng xác nhận
Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất ngày 27/01/2022 giữa vợ chồng ông và H để
thỏa thuận chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nêu trên, giá chuyển nhượng là
2.800.000.000 đồng vì bà L người môi giới bán đất cho bà H nên mới phát sinh
việc lập 02 hợp đồng với 02 người khác nhau. Trong hợp đồng đặt cọc với bà H có
ghi số tiền đặt cọc 800.000.000 đồng nhưng thực tế vợ chồng ông mới nhận được
600.000.000 đồng tiền đặt cọc từ L. Tuy nhiên, khi Hợp đồng đặt cọc mua
bán nhà đất với bà H trong hợp đồng có ghi H đặt cọc trước cho vợ chồng ông
800.000.000 đồng, vợ chồng ông vẫn đồng ý nghĩ rằng sau này sẽ nhận đủ
2.100.000.000 đồng như đã thỏa thuận với bà L là được, do bà L là người môi giới,
L mua của vợ chồng ông với giá 2.100.000.000 đồng và bán lại cho H với
giá 2.800.000.000 đồng, vợ chồng ông cũng đồng ý việc môi giới là phảicông
nên đã đồng ýtên vào hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất ngày 27/01/2022 với
H, còn việc thỏa thuận đi làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là doHL thỏa thuận với nhau vợ chồng ông không biết gì. Hiện nay
4
vợ chồng ông không liên lạc được với L nữa. Đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, vợ chồng ông không đồng ý vẫn nguyện vọng tiếp tục bán
đất rừng nêu trên cho bà H theo gthị trường thời điểm hiện tại. Việc không làm
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất được do lỗi của bên mua không trả
nốt số tiền còn lại.
Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, anh Lê Công Đ1 có ý kiến:
Ngày 27/01/2022 tại gia đình ông Đinh Công T, anh Đ1 chứng kiến việc
bà H thỏa thuận và ký kết Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất với vợ chồng ông T
Bùi Thị D, cụ thể: H thỏa thuận nhận chuyển nhượng 96.000m
2
đất rừng
của ông T, bà D với giá 2.800.000.000 đồng. Ông T, bà D (bên bán) trách nhiệm
đo đạc lại và ra sổ mới với diện tích 110.000m
2
trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày
27/01/2022 đến ngày 27/04/2022, quá thời hạn này không ra được sổ bên bán sẽ
chịu phạt cọc gấp 3 lần số tiền đặt cọc. Cùng ngày bà H đã đặt cọc cho ông T và
D stiền 800.000.000 đồng. Khi H giao tiền đặt cọc, anh được chứng kiến, phía
gia đình ông T bà D có con trai của ông bà cũng có mặt, ông T bà D đã trực tiếp
và điểm chỉ Hợp đồng đặt cọc. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc cho đến nay anh được
biết vợ chồng ông T vẫn chưa ra được sổ như đã cam kết mặc bà H đã nhiều lần
thúc giục cho gia hạn, thậm chí H còn nhiều lần nhờ anh nhắn cho ông T, yêu
cầu ông T bà D ra bìa.
Kết luận giám định số 284/KL-KTHS ngày 30/5/2025 của Phòng Kthuật
hình s- Công an tỉnh H, kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Đinh Công T, Bùi Thị
D tại mặt sau Biên bản xác nhận tiến độ thực hiện hợp đồng đặt cọc đã ngày
27/01/2022” với ch, chviết của ông Đinh Công T, Bùi Thị D trên các mẫu
so sánh do cùng một người viết ra.
Biên bản xác minh ngày 06/6/2025 của Tòa án nhân dân huyện K tại Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai huyện K, cho biết: đến thời điểm hiện tại Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K chưa tiếp nhận được Hồ sơ đề nghị cấp
đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đinh Công T và bà Bùi Thị D đối
với thửa số 49, 50 tờ bản đồ 07 xóm T H, huyện K, tỉnh Hòa Bình. Ngày
02/12/1998, Ủy ban nhân dân huyện K đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên ông Đinh Công T đối với 02 thửa đất nêu trên tổng diện tích
96.000m
2
,
số vào sổ 00499 QSDĐ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 23/6/2025 của Tòa án nhân
dân huyện K, tỉnh Hòa Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13 - Phú Thọ) quyết
định:
5
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147; Điều 235; Điều 244; Điều 266; Điều 271 Điều 273 của Bộ luật T
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 116; Điều 117; Điều 118; Điều 119; Điều 274; Điều 275; Điều
288; Điều 291; Điều 292; Điều 328 và Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015
Căn cứ Điều 12; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện ca Nguyên đơn.
Buộc ông Đinh Công T Bùi Thị D phải nghĩa vụ liên đới không chia
phần trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền đặt cọc là 800.000.000đ và số tiền phạt cọc
1.600.000.000đ. Tổng cộng 2.400.000.000đ. Đình chỉ xét xử một phần yêu
cầu khởi kiện ca Nguyên đơn đối với yêu cầu tính lãi.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 23/7/2025, ông Nguyễn Chí H1 - đại diện theo y quyền của ông T
kháng cáo với nội dung đề ngh Tòa án sửa Bản án dân sự 05/2025/DS-ST ngày
23/6/2025 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình hoặc tuyên hủy toàn bộ
bản án sơ thẩm này. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H1 đề nghị sửa bản án dân sự sơ
thẩm theo hướng bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu ý kiến: Về tố tụng,
việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa và
của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc
thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tụng dân sự.
Về nội dung, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự cung cấp thêm Hợp đồng
đặt cọc giữa bà Nguyễn Thị H và bà Bùi Thị L; bản cam kết giữa bà Bùi Thị L
ông Đinh Công T tài liệu mới. Do đó, cần đưa bà Bùi Thị L vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để làm tính hiệu lực của
hợp đồng đặt cọc cũng như số tiền đặt cọc và phạt cọc. Căn c khoản 3 Điều 308,
Điều 310 của Bộ luật Ttụng dân sự Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ca y
ban ThườngQuc hi, Hủy toàn bộ bán dân sự thẩm số 05/2025/DS-ST ngày
23/6/2025 ca Tòa án nhân dân huyn K, tnh Hòa Bình (nay Tòa án nhân dân
khu vc 13- Phú Th), giao h cho Tòa án nhân dân khu vc 13 - Phú Th để
xét x li theo th tục sơ thẩm. V án phí, người kháng cáo không phi np án phí
theo quy định.
6
Căn cứ vào các chng c, tài liệu đã được thm tra ti phiên tòa phúc thm;
căn cứ o kết qu tranh lun tại phiên tòa, trên s xem xét đầy đủ, toàn din
tài liu, chng c, ý kiến ca Kim sát viên và những người tham gia t tng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1.] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H khởi kiện các bị đơn ông Đinh Công T, bà
Bùi Thị D về vi phạm Hợp đồng đặt cọc ký ngày 27/01/2022. Các bị đơn cư trú tại
xóm T, xã H, huyện K, tỉnh Hòa Bình (nay là xóm T, xã M, tỉnh Phú Thọ). Tòa án
nhân dân huyện K (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13 - Phú Thọ) xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp Hợp đồng đặt cọc để thụ lý, giải quyết theo đúng quy
định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Đơn kháng cáo của ông H1 trong hạn luật định, hợp lệ. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự được chấp nhận đxem xét theo trình
tự phúc thẩm.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm: H, ông N và ông H1 có mặt. Ông T và bà D
vắng mặt nhưng người đại diện theo ủy quyền ông H1. Anh Đ1 L đã
được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án nhân dân vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[4] Ngày 27/01/2022, Nguyễn Thị H và vợ chồng ông Đinh Công T,
Bùi Thị D có ký Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất, thỏa thuận: Vợ chồng ông T
đồng ý chuyển nhượng cho bà H 96.000m
2
đất rừng sản xuất tại địa chỉ xóm T, xã
H, huyện K, tỉnh Hòa Bình, đất đã Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên ông Đinh Công T do y ban nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình cấp ngày
02/12/1998, số vào sổ 00499. Giá chuyển nhượng là 2.800.000.000 đồng, bên mua
đặt cọc trước số tiền 800.000.000 đồng. Bên bán có trách nhiệm trích đo lại và cấp
đổi sổ mới với S = 110.000m
2
(11 ha). Thời hạn ra sổ mới là 90 ngày kể từ
27/01/2022 đến 27/04/2022. Nếu thời hạn trên bên bán không ra được sổ thì
phạt cọc gấp 3 lần số tiền đặt cọc trên. Hợp đồng đã được các bên kết, chữ
ký của người làm chứng là anh Lê Công Đ1.
H khai đã đưa trực tiếp cho vợ chồng ông T 600.000.000 đồng và trước
đó đưa cho Bùi Thị L người giới thiệu 200.000.000 đồng, L trách
nhiệm chuyển cho vợ chồng ông T.
Ông T, bà D khai đã nhận được 600.000.00tiền đặt cọc. Ông T chưa được
nhận số tiền 200.000.000 đồng, lời khai xác nhận số tiền 200.000.000 đồng là
tiền công của L. Ông T nghĩ L đi môi giới thì môi giới phải có công, nghĩ sau
này cứ nhận đủ 2.100.000.000 đồng từ L được. Do đó, ông đã Hợp đồng
7
đặt cọc mua bán nhà đất nội dung số tiền đặt cọc 800.000.000 đồng, đồng thời
ông T đã ghi dòng chữ “Tôi đã nhận đủ số tiền cọc ” ở bên dưới Hợp đồng. Có lời
khai ông T khai 200.000.000 đồng bà L nhận từ bà H là tiền chênh lệch do bán đất.
[5] Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H. Buộc ông
Đinh Công T và Bùi Thị D phải có nghĩa vụ liên đới không chia phần trả cho bà
Nguyễn Thị H số tiền đặt cọc 800.000.000đ số tiền phạt cọc
1.600.000.000đ. Tổng cộng là 2.400.000.000đ.
[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương s cung cấp thêm tài liệu chứng cứ
mới (bà H cung cấp Hợp đồng đặt cọc giữa Nguyễn Thị H và Bùi Thị L liên
quan đến thửa đất của ông T; ông H1 cung cấp biên bản cam kết giữa ông Đinh Công
T Bùi Thị L về việc L trách nhiệm cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất), ông H1 khai chỉ mua bán, đặt cọc thửa đất với bà Bùi Thị L. Nhận thấy,
cần xác định bà L người quyền lợi nghĩa vliên quan để làm số tiền
200.000.000 đồng thực chất là tiền chuyển cọc hay là tiền chênh lệch trong mua bán
liên quan đến thửa đất của ông T hay là tiền công môi giới; đánh giá tính liên quan
của Hợp đồng đặt cọc giữa H L cam kết giữa ông T bà L liên quan
đến việc đặt cọc mua bán thửa đất giữa ông T, D H. Ngoài ra, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Đinh Công T chỉ thể hiện diện tích
9,6 ha tcấp thẩm cần làm rõ, chứng minh được thỏa thuận :“Bên bán
trách nhiệm trích đo lại và cấp đổi sổ mới với S = 110.000m
2
(11 ha),” có đạt được
trên thực tế không hoặc có vi phạm điều cấm của của pháp luật không.
Từ đó, mới có căn cứ xác định được hiệu lực của hợp đồng đặt cọc mua bán
nhà đất giữa ông T, D và H; nếu hợp đồng hiệu lực tsố tiền phạt
600.000.000 đồng hay là 800.000.000 đồng.
Do tình tiết mới được cung cấp tại phiên tòa phúc thẩm, dẫn đến việc
không đưa bà L vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan sảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương skhác
Tòa án cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Cần Hủy bản án dân sự
thẩm của Tòa án nhân dân huyện K(nay là Tòa án nhân dân khu vực 13 Phú Thọ)
để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[7] Về án phí: Do bản án dân sự sơ thẩm bị hủy nên người kháng cáo không
phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự.
8
Căn cứ Điu 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bảndân sự thẩm số 05/2025/DS - ST ngày 23 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13
- Phú Thọ). Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân khu vực 13 - Phú Thọ để giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. V án phí:
- Án phí dân s sơ thẩm được xác định khi Tòa án gii quyết li v án.
- Án phí dân s phúc thm: ông Đinh Công T không phi chu án phí dân s
phúc thm. Hoàn tr li cho ông T 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tin tm ng án
phí đã nộp theo biên lai s số 0000770 ngày 23/7/2025 tại Thi hành án dân sự tỉnh
Phú Thọ.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (24/11/2025)./.
Nơi nhận:
- TANDTC;
- VKSNDTC;
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- VKSND khu vực 13 - Phú Thọ;
- TAND khu vực 13 - Phú Thọ
- THADS tỉnh Phú Thọ;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN T
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Liễu
Tải về
Bản án số 227/DS Bản án số 227/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 227/DS Bản án số 227/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất