Bản án số 337/2025/DS-PT ngày 19/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 337/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 337/2025/DS-PT ngày 19/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 337/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Mai Văn H tranh chấp hợp đồng đặt cọc Mai Ngọc C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 337/2025/DS-PT
Ngày: 19-11-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Huỳnh Châu Thạch
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Ông Trần Minh Công
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 19 tháng 11 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 319/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 10
năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 25 tháng 8 năm 2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lâm Đồng bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 514/2025/-PT ngày
03 tháng 11 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Vợ chồng ông Mai Văn H, sinh năm: 1975; Mai Thị H1,
sinh năm: 1975; trú tại thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã H,
tỉnh Thanh Hóa).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
+ Thị P - Công ty L1; địa chỉ: Tầng E, tòa nhà H, F Đại lộ V, phường
Đ, thành phố T (nay phường H, tỉnh Thanh Hóa). Hợp đồng ủy quyền ngày
18/7/2024.
+ Bà Nguyễn Thu H2, sinh năm: 1991; cư trú tại tầng E, tòa nhà H, lô F đại
lộ V, phường Đ, thành phố T (nay là phường H, tỉnh Thanh Hóa).
- Bị đơn: Vợ chồng ông Mai Ngọc C, sinh năm: 1974, Trần Thị D, sinh
năm: 1974; cư trú tại tổ dân phố Đ, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại din theo y quyn ca b đơn: Ông Cao T, sinh năm: 1972;
trú tại G, đường H, phường X - Đ, tỉnh Lâm Đồng (Giy y quyn ngày
07/8/2024).
- Người có quyn lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyn Th Ngc B;trú ti s B, thôn M, phưng L - Đ, tỉnh Lâm
Đồng.
+ Ngân hàng N1 Chi nhánh khu vc L, tỉnh Lâm Đồng; địa ch: s A,
đường L, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đi din theo pháp lut: Ông Nguyn Mnh H3 Chc vụ: Giám đốc.
Người làm chng: Ông Trn Thanh S, sinh năm: 1976; cư trú tại t dân ph
Đ, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1 Lâm Đồng.
Người kháng cáo: Ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D Bị đơn.
(Ông H, bà H2, ông C, ông T, ông S có mặt tại phiên tòa; bà B và đại diện
Ngân hàng có đơn xin xét xử vắng mặt; các đương sự còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Mai Văn H, bà Mai Thị H1 trình bày: Vợ chồng ông Mai
Ngọc C, bà Trần Thị D (là anh trai và chị dâu của H1, ông H) chủ sử dụng
thửa đất số 61, tờ bản đồ số 19, có chiều rộng là 20m, chiều dài là 50m, thửa đất
có địa chỉ tại xã L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng nay là phường L - Đ. Năm 2021, vợ
chồng ông Mai Ngọc C, Trần Thị D thỏa thuận sẽ chuyển nhượng cho vợ chồng
H1, ông Hồ ½ diện tích tại thửa đất s61, tbản đồ số 19, phần đất chuyển
nhượng chiều rộng mặt tiền đường 10m, mặt đường sau 10m, chiều dài theo
diện tích đất trong sổ với gchuyển nhượng 810.000.000 đồng (T1 trăm
mười triệu đồng). Theo đó, ngày 29/01/2021, nguyên đơn đã đặt cọc cho vợ chồng
ông C, bà D số tiền là 500.000.000 đồng giấy nhận tiền cọc đất. Hai bên thỏa
thuận khi nào vợ chồng ông C thực hiện hoàn tất các thủ tục sang tên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phần diện tích đất chuyển nhượng cho vợ chồng H1,
ông H thì bên mua sẽ thanh toán đủ khoản tiền chuyển nhượng đất còn lại
310.000.000 đồng cho bên chuyển nhượng (ông C, bà D).
Đồng thời, giữa hai bên cũng thỏa thuận nếu hết thời hạn 6 tháng kể từ ngày
29/01/2021 đến ngày 29/7/2021 ông C, D không thực hiện xong thủ tục tách
thửa, sang tên phần đất chuyển nhượng cho vợ chồng nguyên đơn thì hai bên (vợ
chồng H1, ông H vợ chồng ông C, bà D) sđứng tên đồng chủ sử dụng thửa
đất số 61, tờ bản đồ số 19, chiều rộng 20m, chiều dài như trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (trong đó mỗi bên sở hữu, sử dụng ½ diện tích đất) nhưng
giá chuyển nhượng chỉ còn 500.000.000 đồng không phải 810.000.000
đồng, vợ chồng ông H, H1 không phải trả thêm tiền cho vợ chồng ông C,
D. Thực hiện đúng thỏa thuận hai bên, vợ chồng ông H, bà H1 đã chuyển đủ tiền
đặt cọc 500.000.000 đồng cho vợ chồng ông C, bà D. Tuy nhiên, hết thời hạn 06
tháng mà các bên thỏa thuận, vợ chồng ông C không thực hiện được thủ tục tách
thửa sang tên một phần thửa đất chuyển nhượng cho vợ chồng bà H1. Vợ chồng
H1 yêu cầu thực hiện thủ tục đăng đứng tên đồng chủ sử dụng thửa đất số
61, tờ bản đồ số 19 cho vợ chồng ông H, H1 vợ chồng ông C, bà D nhưng
vợ chồng ông C, bà D cũng không thực hiện.
Sau đó, vợ chồng ông C thông báo cho vợ chồngH1 là ông C đã chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất số 61, tờ bản đồ số 19 cho người khác với giá
2.200.000.000 đồng không hỏi ý kiến của vợ chồng ông H, H1, nguyên đơn
không biết ông C, D chuyển nhượng cho ai, cũng không thu thập được hồ
chuyển nhượng giữa vợ chồng ông C, D với bên nhận chuyển nhượng. Nhiều
lần nguyên đơn yêu cầu ông C phải thực hiện thủ tục chuyển nhượng diện tích đất
đã cam kết bán hoặc hoàn trả bằng tiền tương ứng giá trị chuyển nhượng cho bên
mua 1.100.000.000 đồng hoặc hoàn trả tiền cọc, phạt cọc cho nguyên đơn
1.000.000.000 đồng nhưng vợ chồng ông C cũng không thực hiện. Sau rất nhiều
lần nguyên đơn yêu cầu, đến tháng 06/2022 ông C có chuyển cho H1 số tiền là
670.000.000 đồng (Sáu trăm bảy mươi triệu đồng) tuyên bố hết trách nhiệm
không chuyển cho nguyên đơn bất kỳ khoản tiền nào nữa. Nguyên đơn cho rằng,
việc vợ chồng ông Mai Ngọc C, Trần Thị D nhận số tiền đặt cọc của nguyên
đơn 500.000.000 đồng để bảo đảm cho việc giao kết thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng ½ diện tích tại thửa đất số 61, tờ bản đsố 19, phần đất chuyển
nhượng chiều rộng mặt đường 10m, mặt đường sau 10m, chiều dài theo diện
tích đất ở trong sổ có địa chỉ tại xã L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng (nay là phường L
- Đ, Lâm Đồng) nhưng không thực hiện đúng thỏa thuận, mà lại chuyển nhượng
diện tích đất này cho người khác xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của nguyên
đơn, được xác định từ chối giao kết thực hiện hợp đồng, thuộc trường hợp
phải bị phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015
“Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho
bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, ngày 18/7/2024, nguyên đơn đã làm đơn khởi kiện đối với vợ chồng
ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D. Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết:
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng đặt cọc ngày 29/01/2021 giữa bên nhận đặt cọc
là ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D và bên đặt cọc là ông Mai Văn H, bà Mai Thị
H1 do ông Mai Ngọc C, Trần Thị D vi phạm nghiêm trọng hợp đồng đặt cọc
ngày 29/01/2021.
Buộc ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D phải hoàn trả tiền đặt cọc là
500.000.000 đồng phạt cọc số tiền 500.000.000 đồng, tổng stiền vợ chồng
ông C, D phải trả cho vợ chồng ông H, H1 số tiền 1.000.000.000 đồng.
Trong đó ông C, D đã trả tiền cọc 500.000.000 đồng phạt cọc
170.000.000 đồng, tổng cộng số tiền đã trả cho nguyên đơn số tiền 670.000.000
đồng. Nay buộc vợ chồng ông Mai Ngọc C, Trần Thị D tiếp tục còn phải trả
cho vợ chồng ông Mai Văn H, Mai Thị H1 số tiền là 330.000.000 đồng tiền
phạt cọc.
Ngoài ra không có ý kiến và yêu cầu gì khác.
- Bị đơn ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D trình bày: Vào năm 2018 vợ chồng
ông C, D mua của ông L, N diện tích đất 1000m² thuộc thửa đất số 61,
tờ bản đồ 19 tọa lạc tại thôn P, L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, khi các bên nhận
chuyển nhượng tlàm thủ tục chuyển nhượng với nhau bằng giấy viết tay
(hiện nay giấy viết tay này đã bị thất lạc). Năm 2019 các bên làm thủ tục chuyển
nhượng đất theo quy định tại Văn phòng C1. Vợ chồng ông C, bà D đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Năm 2019 vchồng ông C, bà D tiến hành san ủi đối với diện tích đất
này, đến năm 2021 thì ông H, H1 ý định mua đất tại huyện L thì vợ chồng
ông C, bà D có cho ông H, H1 xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chở
ông H vào vị trí đất để xem thì ông H đồng ý mua và các bên tiến hành xác định
cắm mốc phân chia ranh giới giữa các bên. Sau đó giữa vchồng ông C, D với
ông H, H1 tiến hành lập giấy viết tay nhận tiền cọc với số tiền 500.000.000
đồng để chuyển nhượng diện tích đất này và có ông S người xác nhận làm
chứng, sau đó ông C trao đổi nội dung giấy đặt cọc giữa các bên qua điện thoại
thì ông H, bà H1 đồng ý ông C, D đã gửi giấy này cho ông H, H1 theo
đường bưu điện ra cho ông H, H1. Theo nội dung giấy đặt cọc các bên thỏa
thuận thì khi nào vợ chồng ông C, D làm thủ tục tách sổ sang tên cho ông H,
H1 đối với diện ch đất này thì các bên sẽ tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng
và thanh toán hết số tiền còn lại 310.000.000 đồng.
Tuy nhiên trong quá trình vchồng ông C, D làm thủ tục tách ssang tên
cho ông H, H1 thì y ban nhân dân huyện L văn bản trả lời với nội dung
không thể tách thửa đối với diện tích đất này với lý do phần diện tích đất bên ông
H nhận chuyển nhượng là 80m
2
đất xây dựng trong khi đó bên phần đất vợ chồng
ông C, D sử dụng chỉ 20m đất xây dựng không phù hợp với quy hoạch
tại địa phương (diện tích đất xây dựng tối thiểu 70m mới cho tách thửa), sau đó
vợ chồng ông C, bà D có làm đơn xin chuyển đổi thêm diện tích đất xây dựng để
đủ điều kiện tách thửa nhưng Ủy ban nhân dân huyện văn bản trả lời không
đồng ý không phù hợp với quy hoạch của địa phương, vợ chồng ông C, D
có trao đổi lại với ông H, H1 bằng điện thoại vnội dung này để vợ chồng ông
C, D trả lại tiền cọc cho ông H, H1 thì ông H, bà H1 không đồng ý nhận tiền
cọc, sau đó một thời gian thì ông H gọi điện cho ông C đồng ý nhận lại tiền đặt
cọc nhưng do thời gian này vướng dịch Covid nên vợ chồng ông C, D không
bán được đất đlấy tiền trả cho ông H, bà H1. Đến tháng 6/2022 thì vợ chồng ông
C bán được đất và thông báo cho ông H biết để trả lại tiền cọc cho ông H thì ông
H, H1 đồng ý chỉ yêu cầu vchồng ông C trả lại tiền cọc 500.000.000
đồng chứ không yêu cầu thanh toán số tiền phạt cọc. Vì vậy các bên đã tiến hành
lập giấy kết thúc việc đặt cọc chuyển nhượng đất, nhưng do thời gian này dịch
bệnh nên chỉ trao đổi với nhau qua điện thoại người làm chứng ông Sử
vào giấy kết thúc này. Sau đó ông C ra Ngân hàng nông nghiệp huyện L,
tỉnh Lâm Đồng chuyển cho bà Mai Thị H1 vợ ông H theo số chứng minh thư nhân
dân của H1 đến Ngân hàng nông nghiệp huyện N, tỉnh Thanh Hóa với số tiền
670.000.000 đồng, với nội dung chuyển tiền đất. Trong đó 500.000.000 đồng
tiền cọc còn 170.000.000 đồng là tiền ông C chuyển do nhầm, từ đó cho
đến khi ông H khởi kiện thì ông H không có ý kiến gì.
Nay ông H, H1 khởi kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc đối với vợ chồng
ông C, D thì bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn vì vợ chồng ông C đã thanh toán đủ tiền các bên nhận đặt cọc cho ông H, bà
H1.
Ngoài ra, vợ chồng ông C vẫn giữ nguyên nội dung đơn phản tố đề nghị
tuyên bố hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất lập ngày 29/01/2021 giữa vchồng
ông C, D với vchồng ông H, H1 hiệu buộc ông H, H1 trả lại
cho vợ chồng ông Căn số tiền 170.000.000 đồng mà ông C đã chuyển dư cho ông
H, bà H1.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng N1 Chi nhánh khu vực L, Lâm Đồng trình bày: Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 417211 thửa đất số 89, tờ bản đồ số 81, diện tích
957,2m
2
cấp cho bà Nguyễn Thị Ngọc B được thế chấp tại Ngân hàng và đăng ký
bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng 5401 LAV-202401139. Ngân
hàng không tham gia xét xử và không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
Đề nghị xét xử theo quy định của pháp luật.
+ Nguyễn Thị Ngọc B tại đơn trình bày ý kiến thể hiện nội dung: Vào
khoảng năm 2021 nhận chuyển nhượng 01 diện tích đất tại thôn P, L,
huyện L (nay là phường L - Đ) của ông Mai Ngọc C, Trần Thị D giá chuyển
nhượng 2.660.000.000 đồng. Diện tích đất nhận chuyển nhượng đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nhận chuyển nhượng nhận đất
canh tác sử dụng ổn định không tranh chấp với ai, hiện nay trên đất đã dựng nhà
lồng kính trồng cây hoa cúc. Nay giữa các bên phát sinh tranh chấp thì
không ý kiến yêu cầu gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định. Đồng
thời xin được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi vụ án kết
thúc. Ngoài ra không có ý kiến và yêu cầu gì khác.
- Người làm chứng ông Trần Thanh S trình bày: Vào năm 2021 ông chứng
kiến việc nhận tiền cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông C, bà
D với ông H, H1. Theo đó ông H, H1 nhận chuyển nhượng diện tích đất tọa
lạc tại thôn P, xã L, huyện L. Số tiền ông H, H1 đặt cọc là 500.000.000 đồng.
Nay các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc tranh chấp hợp đồng đặt
cọc thì ông không ý kiến yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
Ngoài ra không có ý kiến và yêu cầu gì khác.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 25 tháng 8 năm 2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai Văn H,
Mai Thị H1; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Mai Ngọc
C và bà Trần Thị D
- Tuyên hủy, chấm dứt hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lập ngày 29/01/2021 giữa vợ chồng ông Mai Văn H, Mai Thị H1 với vợ chồng
ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D.
- Buộc vợ chồng ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D có trách nhiệm thanh toán
cho vợ chồng ông Mai Văn H, bà Mai Thị H1 số tiền đặt cọc là 500.000.000 đồng
phạt cọc 500.000.000 đồng. Vợ chồng ông C, D đã trả số tiền 670.000.000
đồng (bao gồm 500.000.000 đồng tiền cọc 170.000.000 đồng phạt cọc). Vợ
chồng ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D tiếp tục phải trách nhiệm trả cho vợ
chồng ông Mai Văn H, Mai Thị H1 stiền 330.000.000 đồng (ba trăm ba mươi
triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Tại Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày 08/9/2025 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1 Lâm Đồng, kháng nghị toàn bộ bản
án thẩm. Đề nghị sửa bản án theo hướng: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của ông H, bà H1; Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông C, bà
D về việc tuyên hợp đồng đặt cọc ngày 29/01/2021 giữa vchồng ông C vợ
chồng ông H vô hiệu; Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông C,
D về việc yêu cầu vợ chồng ông H, H1 trả lại 170.000.000 đồng tiền chuyển
dư.
Ngày 03/9/2025 ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D có đơn kháng cáo đề nghị
hủy toàn bộ bản án hoặc sửa bản án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản
tố của bị đơn, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa hôm nay: Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện
nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giải quyết như án
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Ttụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1 – Lâm Đồng,
chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông C, bà D. Căn cứ khoản 2 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án thẩm theo hướng không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H, H1. Chấp nhận một
phần yêu cầu phản tố của bđơn ông C, bà D về việc tuyên hợp đồng đặt cọc ngày
21/01/2021 giữa vợ chồng ông C với vợ chồng ông H vô hiệu; Không chấp nhận
một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu vợ chồng ông H, bà H1 trả
lại số tiền 170.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Mai Ngọc C, Trần
Thị D; kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1 - Lâm
Đồng; người kháng cáo, kháng nghị; thủ tục kháng cáo, kháng nghị được thực
thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273, 278, 279 và 280 Bộ luật
Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1
Lâm Đồng kháng cáo của bị đơn ông Mai Ngọc C, Trần Thị D thì thấy rằng:
Hồ thể hiện, ngày 29/01/2021 giữa vợ chồng ông C, D vợ chồng
ông H, H1 “Giấy nhận tiền cọc đất”(BL số 17). Theo đó, hai bên thỏa thuận
ông C, D chuyển nhượng cho ông H, H1 ½ diện tích đất thuộc thửa đất số
61, tờ bản đồ số 19, L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng (nay phường L - Đ, tỉnh
Lâm Đồng) có chiều rộng mặt tiền đường 10m, mặt sau 10m, chiều dài theo thửa
đất trong sổ, đất xây dựng 50m
2
với giá chuyển nhượng là 810.000.000 đồng. Hai
bên thỏa thuận ông H đặt cọc số tiền 500.000.000 đồng, khi nào làm sổ sang
tên xong thì ông H thanh toán hết số tiền 310.000.000 đồng. Nếu bên mua không
mua thì mất số tiền đặt cọc 500.000.000 đồng. Thời gian tách thửa gia hạn 6 tháng
kể từ 29/01/2021 đến ngày 29/7/2021. Nếu không tách thửa được thì ông C n
cho ông H diện ch đất nêu trên đứng tên đồng sử dụng với giá chuyển nhượng
giảm từ 810.000.000 đồng còn 500.000.000 đồng. Ông H, H1 đã đặt cọc cho
ông C, bà D số tiền 500.000.000 đồng. Ông C, bà D cũng đã thực hiện thủ tục để
tách thửa đối với diện tích đất chuyển nhượng.
Do Giấy chứng nhận quyền sử dụng cấp cho ông C, D chỉ 100m
2
đất
xây dựng, hai bên thỏa thuận chuyển nhượng ½ thửa đất số 61 trong đó có 50m
2
đất xây dựng nhưng qua đo đạc hai thửa đất mới hình thành thì một thửa sẽ
80m
2
đất xây dựng, thửa còn lại chỉ còn 20m
2
đất xây dựng là không phù hợp với
quy hoạch (diện tích đất xây dựng còn lại không đủ 72m
2
kích thước chiều
rộng mặt đường < 4,5m) nên việc tách thửa không thực hiện được. Ngày
11/5/2021 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L Thông báo số
1278/TB-CNLD trả hồ sơ tách thửa cho ông C. Ông C, D vẫn thiện chí thực
hiện hợp đồng nên đã làm thủ tục xin chuyển mục đích 60m
2
đất trồng cây lâu
năm sang đất để đảm bảo đủ diện tích tách thửa. Ngày 17/5/2021, Phòng Tài
nguyên và môi trường huyện L có Thông báo số 18/TB-TNMT trả hồ sơ đăng ký
chuyển mục đích cho ông C, bà D vì lý do vị trí đăng ký chuyển mục đích không
thực hiện được do không phù hợp quy hoạch. Như vậy, việc tách thửa đất không
thực hiện được là do khách quan, không phải lỗi của ông C, bà D.
Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận nếu không tách thửa được thì ông C, D
chuyển nhượng cho ông H, H1 diện tích đất nêu trên đứng tên đồng sử dụng
với giá chuyển nhượng 500.000.000 đồng. Mặc dù hai bên thỏa thuận không tách
được thửa thì sẽ đứng tên đồng sử dụng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng khi chuyển nhượng hai bên đã thỏa thuận diện tích vị trí là ½ thửa đất,
chiều rộng mặt đường 10m, mặt sau 10m, chiều dài hết thửa đất. Khi chia đôi
thửa đất mỗi bên một nửa thì diện tích đất xây dựng của một thửa là 80m
2
, thửa
còn lại là 20m
2
, trong khi đó hai bên thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất xây
dựng cho ông H, bà H1 50m
2
. Như vậy, trong trường hợp hai bên đứng tên đồng
sử dụng thì diện tích đất xây dựng theo vị trí hai bên thỏa thuận chuyển nhượng
không thực hiện được. Vì vậy, hợp đồng đặt cọc nêu trên là hiệu do đối
tượng không thực hiện được.
Do hợp đồng vô hiệu nên căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự hai bên hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Lỗi dẫn đến
hợp đồng vô hiệu là do cả hai bên đã không tìm hiểu quy định diện tích tối thiểu
tách thửa cũng như không xem xét vị tđất xây dựng thỏa thuận chuyển
nhượng 50m
2
đất xây dựng dẫn đến không thực hiện được hợp đồng. Phía ông C,
bà D đã nhận của ông H, bà H1 500.000.000 đồng nên phải trả lại cho ông H, bà
H1 500.000.000 đồng. Ông C, bà D đã nhận của ông H, H1 500.000.000 đồng,
sau đó chuyển nhượng thửa đất cho bà B với giá 2.200.000.000 đồng. Do ông C,
D đã tự nguyện thanh toán thêm cho ông H, bà H1 số tiền 170.000.000 đồng,
tổng cộng 670.000.000 đồng từ năm 2022 đến khi ông H, H1 khởi kiện
ông C, D không ý kiến đối với việc chuyển thêm số tiền 170.000.000
đồng nên ông H, H1 được hưởng số tiền trên là thỏa đáng.
Từ những phân tích trên, căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1 – Lâm Đồng và chấp nhận mt phần kháng cáo
của ông Mai Ngọc C, bà Trần Thị D, sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên
nguyên đơn phải chịu số tiền 8.766.655 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ
và đo vẽ (nguyên đơn đã ứng chi và quyết toán xong).
[4] Về án phí:
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông C, D không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
khu vực 1 Lâm Đồng, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Mai Ngọc C, bà
Trần Thị D, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai Văn
H, Mai Thị H1 về việc tuyên chấm dứt hợp đồng đặt cọc ngày 29/01/2021 giữa
vợ chồng ông Mai Ngọc C, Trần Thị D vợ chồng ông Mai Văn H, Mai
Thị H1 yêu cầu vợ chồng ông Mai Ngọc C, Trần Thị D trả số tiền
330.000.000 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Mai Ngọc C, Trần
Thị D. Tuyên bố hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
29/01/2021 giữa vợ chồng ông Mai Văn H, Mai Thị H1 với vợ chồng ông Mai
Ngọc C, bà Trần Thị D vô hiệu.
Không chấp nhận phản tố của bị đơn ông Mai Ngọc C, Trần Thị D yêu
cầu vợ chồng ông Mai Văn H, bà Mai Thị H1 trả lại số tiền 170.000.000 đồng
ông Mai Ngọc C đã chuyển dư cho vợ chồng ông Mai Văn H, bà Mai Thị H1.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc vchồng ông Mai Văn H, Mai Thị H1 phải
chịu 8.766.655 đồng chi phí ttụng. Ông H, H1 đã ứng chi quyết toán xong.
4. Về án phí:
Buộc nguyên đơn ông Mai Văn H, Mai Thị H1 phải chịu 16.800.000 đồng
nhưng được trừ vào số tiền 8.550.000 đồng theo Biên lai thu số 0002098 ngày
02/08/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Dương (nay là Phòng thi
hành án dân sự khu vực 1 Lâm Đồng). Ông H, H1 còn phải nộp 8.250.000
đồng án phí.
Buộc bđơn ông Mai Ngọc C, Trần Thị D phải chịu 8.500.000 đồng án
phí dân sthẩm nhưng được trừ vào số tiền 4.550.000 đồng tạm ứng án phí
dân sự thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0002109 ngày 13/09/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Lạc Dương (nay Phòng thi hành án dân sự khu vực
1 Lâm Đồng) 600.000 đồng tạm ứng dân sự phúc thẩm số 0002930 ngày
05/9/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng. Ông C, D còn phải nộp
3.350.000 đồng án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, KT, TT&THA (01);
- TAND khu vực 1 – Lâm Đồng (01);
- Phòng THADS khu vực 1 Lâm Đồng
(01);
- Đương sự (04);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Bản án số 337/2025/DS-PT Bản án số 337/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 337/2025/DS-PT Bản án số 337/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất