Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 28/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 28/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng
Quan hệ pháp luật: Các tranh chấp dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 12 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng
Số hiệu: 01/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Về việc “Tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá”.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN TÂY GIANG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 01/2025/DS-ST
Ngày: 28/5/2025
Về việc “Tranh chấp nghĩa vụ
thanh toán trong hợp đồng
mua bán hàng hoá”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu Thức.
Các Hội thẩm nhân dân: + Ông Nguyễn Tâm Hiếu, bà ALăng Thị Pari.
Thư ký phiên tòa: Ông Bơ Nướch Rè Thư ký Tòa án nhân dân huyện Tây
Giang, tỉnh Quảng Nam.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam tham
gia phiên tòa: Alăng Thị Tơơ - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Giang,
tỉnh Quảng Nam xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 04/2024/TLST-
DS ngày 02/12/2024 về việc “Tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua
bán hàng hoátheo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố: 02/2025/QĐXXST-DS
ngày 06/5/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Trần Đăng Q, sinh năm 1995, có mặt.
Địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
- Bị đơn: Anh Dương Văn C, sinh năm 1971, vắng mặt.
Nơi thường trú: Thôn D, H, huyện H, TP .. Chỗ ở: Thôn A, A, huyện
T, tỉnh Quảng Nam.
Chị Trần Thị Đ, sinh năm 1979, vắng mặt.
Nơi thường trú: Thôn H, H, huyện H, TP .. Chỗ ở: Thôn A, A, huyện
T, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm
1993. Địa chỉ: C(V), DAKNO, Hội P, P, H, Nội theo Văn bản uỷ quyền ngày
12/5/2025, có mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh
năm 1998, có mặt.
Địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khi kiện quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Văn
Q1 trình bày:
Trước đây, anh Q1 m nghề buôn bán hàng thực phẩm đông lạnh. Năm
2021 anh Q1 bán hàng cho vợ chồng anh C, chị Đ. Hai bên thoả thuận sau mỗi
lần bán hàng anh Q1 ghi sổ viết hoá đơn bán lẻ gồm 02 liên để mỗi bên giữ 01
liên làm chứng từ đối chiếu. Tuy nhiên, do tin tưởng nhau nên trong suốt quá trình
2
mua bán các bên không đối chiếu vào chứng từ giao nhận ng, trả tiền. Quá
trình mua bán giữa các bên lúc thanh toán tiền mặt, lúc chuyển khoản
nợ gối đầu. Các bên chỉ gửi hình ảnh giao nhận hàng, chuyển tiền qua tài khoản
với hình ảnh qua mạng Zalo. Cuối năm 2022 thì số tiền hàng anh C, chị Đ nợ nhiều
nên lấy hàng chỗ khác. Anh Q1 đã nhiều lần điện thoại và gặp trực tiếp để yêu cầu
chốt nợ, để thanh toán nợ nhưng không được.
Do vậy, anh Q1 khởi kiện yêu cầu Toà án buộc anh C, chị Đ thanh toán
số tiền hàng còn thiếu là 241.275.000 đồng (Hai trăm bốn mươi mốt triệu hai trăm
bảy mươi lăm ngàn đồng) lãi chậm thanh toán của số tiền trên k từ ngày
01/01/2023 cho đến ngày xét xử với lãi suất 10%/năm.
Tại bản tự khai, các phiên hoà giải bị đơn anh Dương Văn C trình bày: Anh
C đồng ý trước đây vợ chồng anh mua hàng thực phẩm đông lạnh của anh Q1
để bán lại. Thời gian mua hàng từ đầu năm 2021 đến giữa năm 2022 thì không mua
nữa. Anh C người trực tiếp lấy hàng tại quầy của anh Q1. Có lúc thanh toán tiền
mặt hoặc chuyển khoản, lúc vợ anh chị Đ trả tiền mặt cho vợ chồng anh Q1.
Đối với các phiếu nhận hàng anh không còn lưu giữ. Sau khi không lấy hàng nữa
thì vợ chồng anh còn nợ anh Q1 số tiền 114.000.000 đồng chứ không phải
241.275.000 đồng như anh Q1 trình bày. Trong số tiền còn nợ của anh Q1
114.000.000 đồng thì vợ chồng anh đã trả được tổng cộng 28.000.000 đồng
(chuyển khoản 24.000.000 đồng, đưa tiền mặt cho chị T vợ anh Q1 4.000.000
đồng) nên vợ chồng anh còn nợ anh Q1 86.000.000 đồng. Nay anh Q1 khởi kiện
thì anh chỉ đồng ý trả số tiền còn nợ là 86.000.000 đồng.
Tại bản tự khai, các phiên hoà giải bị đơn chị Trần Thị Đ trình bày: Chị Đ
thống nhất với phần trình bày của anh C. Trong số tiền trả nợ cho anh Q1 thì chị Đ
có trả tiền mặt cho chị T là 4.000.000 đồng, Chị T cũng thừa nhận về việc này.
Tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H
trình bày: Chị đồng ý vào đầu năm 2021 đến cuối năm 2022 anh C, chị Đ mua
hàng của anh Q1 và đến nay còn nợ lại anh Q1 86.000.000 đồng. Đối với các phiếu
mua bán hàng mà anh Q1 cung cấp không chữ ký đối chiếu số nợ của vợ chồng
anh C, ch Đ nên không sở để cho rằng anh C, chị Đ n nợ anh Q1
241.275.000 đồng. Chị chỉ đồng ý anh C, chị Đ còn nợ anh Q1 86.000.000 đồng và
đồng ý trả số tiền này. Đối với yêu cầu tính lãi của anh Q1 chị không đồng ý vì các
bên không có văn bản nào thoả thuận về việc chậm thanh toán.
Tại bản tự khai, các phiên hoà giải tại phiên toà Người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Chị T thống nhất nhận
4.000.000 đồng tiền mặt từ chị Đ trả nợ tiền hàng vào năm 2024 như lời trình bày
của chị Đ. Chị thống nhất với lời trình bày của anh Q1.
Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà, của các đương sự trong
quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghĩ để nghị án là đúng pháp luật.
Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 357; Điều 430,
Điều 440; Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của anh Trần Văn Q1. Buộc anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ phải trả
cho anh Trần Đăng Q số tiền còn nợ là 86.000.000 đồng và lãi phát sinh của số tiền
chậm trả tính từ ngày 01/01/2023 cho đến ngày xét xử.
3
Bác một phần yêu cầu khởi kiện của anh Q đối với 155.275.000 đồng nợ gốc
và 24.760.000 lãi chậm trả.
Áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 buộc các đương sự phải chịu án phí dân sthẩm theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu c tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về ttụng: Anh Trần Đăng Q đơn khởi kiện yêu cầu toà án buộc bị
đơn anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ chỗ tại thôn A, A, huyện T, tỉnh
Quảng Nam trả số tiền mua hàng thực phẩm còn thiếu nên vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam theo quy định
tại khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
[2] Về nội dung: Các bên đều thừa nhận anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ
mua hàng thực phẩm đông lạnh của anh Trần Đăng Q. Việc giao kết hợp đồng là tự
nguyện, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức hội. Anh C, chị Đ thừa
nhận sau khi không mua hàng nữa thì còn nợ anh Q số tiền mua hàng 114.000.000
đồng. Anh cung cấp chứng cứ đã ảnh chụp màn hình Zalo, sao chuyển tiền
cho anh Q 04 lần với tổng số tiền 24.000.000 đồng, trả tiền mặt cho chị T
4.000.000 đồng nên anh C, chị Đ còn nợ lại 86.000.000 đồng. Việc thừa nhận nợ
của bị đơn là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Do đó, Hội đồng xét xử căn
cứ vào Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự để chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn đối với số tiền 86.000.000 đồng lãi chậm trả của số tiền
này.
Nguyên đơn cung cấp chứng cứ là sổ ghi chép việc mua bán giữa các bên, 08
sổ hoá đơn bán lẻ năm 2021; 2022, hình ảnh tin nhắn thể hiện giao dịch mua bán
trả tiền của các bên qua mạng xã hội Zalo, sao kê Ngân hàng năm 2021; 2022.
Tuy nhiên, sổ mua bán hàng hoá 08 sổ hoá đơn không ch xác nhận nợ
của anh C, chị Đ. Anh C, chị Đ không thừa nhận toàn bộ số nợ này. Do đó, chấp
nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.
[3] Về lãi suất: Các bên không mua bán nữa từ cuối năm 2022. Việc anh C
chị Đ thừa nhận còn nợ 86.000.000 đồng và chưa thanh toán cho anh Q nên yêu
cầu tính lãi suất chậm trả của anh Q tngày 01/01/2023 đến ngày xét xử ngày
28/5/2025 (28 tháng 28 ngày) theo mức lãi suất 10% quy định tại Điều 357, khoản
2 Điều 468 của Bộ luật dân sự sở nên được Hội đồng xét xử chp nhận
một phần tiền lãi của anh Q.
Như vậy tiền lãi chậm trả được tính như sau: 86.000.000 đồng x 10%/năm x
28 tháng 28 ngày = 20.652.000 đồng.
[4] Về án phí: Anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ phải chịu án phí dân sự
thẩm đối với số tiền phải trả 106.652.000 đồng x 5%. Anh Trần Đăng Q phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được Hội đồng xét xử chấp
nhận là 180.035.000 đồng x 5% theo quy định của pháp luật.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Giang
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
4
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, qun
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Đăng Q:
Buộc anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ phải trả cho anh Trần Đăng Q số
tiền nợ gốc 86.000.000 đồng 20.652.000 đồng tiền lãi phát sinh do chậm trả.
Tổng cộng 106.652.000 đồng (Một trăm lẻ triệu sáu trăm năm mươi hai ngàn
đồng).
Bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Đăng Q đối với
155.275.000 đồng nợ gốc và 24.760.000 lãi chậm trả.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về Án phí dân sự:
Anh Dương Văn C, chị Trần Thị Đ phải chịu áp phí dân sự sơ thẩm
5.332.000 đồng.
Anh Trần Đăng Q phải chịu áp phí dân sự thẩm 9.001.000 đồng được
tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Q đã nộp 7.168.000 đồng theo biên lai
thu số 0004267 ngày 27/11/2024 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tây Giang.
Anh Trần Đăng Q n phải nộp 1.833.000 đồng.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân squyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án Dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
Dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- Các cơ quan tiến hành tố tụng; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
Nguyễn Hữu Thức
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất