Bản án số 597/2025/DS-PT ngày 26/11/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 597/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 597/2025/DS-PT ngày 26/11/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 597/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Hữu Lương
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Rẻn
Ông Lê Văn Phận
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thảo Phương Vy – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Trần Thị Kim Ngân – Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét x
phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 359/2024/DS-PT ngày 11 tháng 10 năm
2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân s thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4111/2024/QĐXXPT-
DS ngày 22 tháng 10 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
4450/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959. Nơi trú: số H ấp T,
xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T: Ông Lê Huỳnh Nhựt T1
Trợ giúp viên pháp của Trung Tâm trợ giúp pháp nnước tỉnh B. (Có
mặt)
- Bị đơn:
1. Phạm Thị R, sinh năm 1950. Nơi trú: số B, ấp T, M, huyện T,
tỉnh Bến Tre.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 597/2024/DS-PT
Ngày 26 - 11 - 2024
Về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Phạm Thị R: Đào Hồng V,
sinh năm 1966. Nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)
2. Trần Thị N, sinh năm 1955, Nơi cư trú: số I, ấp T, xã M, huyện T, tỉnh
Bến Tre.
Người đại diện theo y quyền của bđơn Trần Thị N: Ông Tấn T2,
sinh năm 1986. Nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa v liên quan:
1. Ông Phạm Văn T3, sinh năm 1967. Nơi trú: số B, ấp T, M, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
2. Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1974. Nơi cư trú: số A, ấp T, xã M, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
3. Ông Nguyễnn T5, sinh năm 1977. Nơi cư trú: số B, ấp T, xã M, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
4. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1979. Nơi cư trú: số C, ấp G, xã A, huyện T,
tỉnh Bến Tre.
5. Nguyễn Thị O, sinh năm 1981. Nơi trú: khóm I, thị trấn T, huyện
T, tỉnh Cà Mau. (Đã tống đạt hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông T3, ông T4, ông T5, bà K: Đào Hồng V, sinh năm 1966; Nơitrú: ấp A,
xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Văn T6.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm
Theo đơn khởi kiện ngày 31/01/2023 của ông Nguyễn Văn T gửi đến a án
nhân dân huyện Thạnh Phú, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơtại phiên tòa
sơ thẩm nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Ông thừa nhận là vào năm 2007 ông và ông Nguyễn Văn C (ông C đã chết)
viết giấy tay để đổi đất với nhau. Đất của ông đất ruộng (cấy lúa) diện
tích 5.565m
2
thuộc thửa đất số 209 tờ bản đồ 23 (đất do ông đứng tên QSD đất);
còn phần đất ông Nguyễn Văn C (chồng R) diện tích 3.861m
2
thuộc thửa
đất số 110, tờ bản đồ 27 (trước đây do ông C đứng tên QSD đất, hiện nay do ông
T5 đứng tên QSD đất (con ông C) nhưng giấy tờ ông và ông Châu T7 thuận ông
không cất gửi chỉ ông C cất nhưng tại các “Giấy đổi đất” viết ngày
04/07/2007 ÂL; “02 Giấy cam kết” không viết ngày tháng năm” đều không phải
tờ giấy ông ông C thỏa thuận. Trong nội dung giấy ông ông C viết nội
dung ông chỉ đồng ý đồi phần đất diện tích 3.861m
2
bằng phần đất với ông
C; còn đất của ông còn lại 1.704 m
2
nay đo đạc theo họa đồ thửa đất có diện tích
3
1.703,5m
2
(ký hiệu 209a) là đất của ông, ông không có đổi phần đất này cho ông
C. Còn số tiền 30.240.000 đồng ông đã nhận từ ông C không phải là tiền bù phần
đất còn lại mà ông C trả tiền đền bù cải tạo đất của ông C (do đất ông C bị ao
trủng) trả tiền cái cống của ông trên phần đất của ông (việc đền cải tạo
đất trả tiền cái cống chỉ thỏa thuận bằng lời nói không làm giấy tờ), phần
đất còn lại hiện nay ông đang tranh chấp thì vào năm 2007 ông thừa nhận đồng
ý để cho ông C làm luôn và có thỏa thuận khi nào hai bên làm thủ tục chuyển đổi
(sang tên với nhau) thì ông lấy lại phần đất để làm nhưng do gia đình bà R không
đồng ý trả phần đất còn lại của ông có diện tích 1.703,5m
2
(ký hiệu 209a) nên ông
làm đơn khởi kiện tại Tòa án. Tại phiên toà ông không thừa nhận đã nhận
30.240.000 đồng, ông chnhận 20.000.000 đồng, nhưng đó là tiền cải tạo đất
tiền cống.
Phần đất của ông giao cho ông C thì ông C đã thực hiện đổi đất với bà Trần
Thị Ngọc C1 ngày ông và ông C đổi đấtm 2007 (lý do chuyển đổi qua lại là để
tiện canh tác sử dụng đất), hiện tại bà N đang trực tiếp canh tác phần đất của ông
đổi cho ông C.
Ông không đồng ý kết luận giám định số 309/2024/KL-KTHS ngày
24/4/2024 nhưng ông không có yêu cầu giám định lại.
Ông đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất với
Trần Thị N, bà Trần Thị R1 cùng các con của bà R1ông Phạm Văn T3, ông
Nguyễn Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị O với
phần đất có diện tích là 3.800,7m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu 209, 209d),
tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa ông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho ông như sau:
Buộc Trần Thị N, bà Trần Thị R1 cùng các con của R1 ông Phạm
Văn T3, ông Nguyễn Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị K, Nguyễn
Thị O phải giao trả cho ông được quyền quản sử dụng phần đất theo đo đạc họa
đồ thửa đất có diện tích 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu 209a) tờ bản
đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Ông đồng ý với kết quả xem xét thẩm định, đo đạc và kết quả định giá tài
sản để làm cơ sở giải quyết; không yêu cầu thẩm định, đo đạc và định giá lại.
Tài liệu chứng cứ ông yêu cầu tranh chấp đất với các bị đơn giấy chứng
nhận QSD đất thuộc thửa đất 209, tờ bản đồ 23 và ông đã được Ủy ban nhân dân
(UBND) huyện T cấp giấy chứng nhận QSD đất vào ngày 15/12/2014.
Riêng phần đất chỉ chưa hết ranh địa chính hiệu 209b diện tích
34,3m
2
209c có diện tích 25,9m
2
phần đất này do hiện tại làm lối đi nên không
tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
4
Trong quá trình tố tụng tại tòa đại diện theo ủy quyền bị đơn Phạm
Thị R, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T8, ông Nguyễn
Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị K là bà Đào Hồng V trình bày:
Khi ông C còn sống vào ngày 04/07/2007 thì ông T và ông C thỏa thuận đổi
đất, việc đổi đất có viết giấy tay có tên gọi “Giấy đổi đất” có nội dung đất ông C
diện tích 3.861m
2
thuộc thửa đất số 110, tbản đồ 27 đổi với đất ông T diện
tích 5.565m
2
thuộc thửa đất số 209 tờ bản đồ 23. Do đất ông T nhiều hơn nên ông
C ông T thống nhất ông T nhận thêm tiền tông C giao 30.240.000 đồng
của phần đất ông T còn lại 1.704m
2
nay đo đạc theo họa đồ thửa đất diện tích
1.703,5m
2
(ký hiệu 209a).
Còn giấy tay có tên gọi “02 Giấy cam kết” không viết ngày tháng năm thì
nội dung là để ông T cam kết sau này khi làm thủ tục chuyển đổi đất với nhau thì
thuế chuyển đổi ông C ông T phải cùng chịu (1/2 tiền thuế). Sau khi chuyển
đổi đất với ông T xong thì ông C chuyển đổi phần đất này lại cho bà N cũng vào
ngày 04/07/2007 (lý do chuyển đổi qua lại để tiện canh tác sử dụng đất), đất
hiện nay do bà N đang trực tiếp canh tác.
Tại phiên tòa thẩm đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi
quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Văn T, tuy nhiên không đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Văn T là buộc bà Trần Thị R1 cùng các con của bà R1
là ông Phạm Văn T3, ông Nguyễn Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị
K, Nguyễn Thị O phải giao trả cho ông T được quyền quản lý sử dụng phần
đất theo đo đạc họa đồ thửa đất diện tích 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa 209
(ký hiệu 209a) tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại M, huyện T, phần đất này R1
và ông T đã thỏa thuận trả tiền chênh lệch xong với số tiền là 30.240.000 đồng.
Phần đất thực hiện chuyển đổi qua đo đạc theo họa đồ thửa đất gồm các
hiệu 209 diện tích 2.131,5m
2
; 209a diện tích 1.703,5m
2
; 209d diện tích
1.669,2m
2
đồng ý kết luận giám định số: 309/2024/KL-KTHS ngày 24/4/2024 để
làm cơ sở giải quyết; không yêu cầu giám định lại.
Bà đồng ý với kết quả xem xét thẩm định, đo đạc và kết quả định giá tài sản
để làm cơ sở giải quyết; không yêu cầu thẩm định, đo đạc và định giá lại.
Riêng phần đất chỉ chưa hết ranh địa chính hiệu 209b diện tích
34,3m
2
209c có diện tích 25,9m
2
phần đất này do hiện tại làm lối đi nên không
tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Trong quá trình ttụng tại tòa đại diện theo ủy quyền bị đơn Trần Thị
N là ông Lê Tấn T2 trình bày:
Khi ông T ông C thực hiện đổi đất vào ngày 04/07/2007 thì vào ngày
18/8/2007 mẹ của ông là bà Trần ThNông Nguyễn Văn C thỏa thuận đổi đất,
đất của ông C có diện tích là 5.565m
2
thuộc thửa đất số 209 tờ bản đồ 23, đất do
5
ông T đứng tên QSD đất (phần đất do ông C đổi đất với ông T) do để tiện việc
canh tác sử dụng đất nên ông C lấy phần đất đổi của ông T để đổi lại đất với N
thì đất của N diện tích 4.900m
2
như vậy chênh lệch diện tích 665m
2
do
đất của bà N không đủ với diện tích đất ông C đổi nên bà N và ông C thỏa thuận
bà N trả thêm số tiền chênh lệch cho ông C 12.500.000 đồng (tương đương với
diện tích đất là 665m
2
) và từ đó thì bà N và ông C sử dụng chuyển đổi nhưng cho
đến nay thì ông T không đồng ý chuyển quyền sang tên cho bà N sử dụng đất.
Tại phiên tòa ông đồng ý việc thực hiện hợp đồng chuyển đi quyền sử dụng
đất của ông T, tuy nhiên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Văn T buộc Trần Thị N phải giao trả cho ông T được quyền quản sdụng
phần đất theo đo đạc họa đồ thửa đất có diện tích 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa
209 (ký hiệu 209a) tbản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T, vì phần đất này ông
T đã thỏa thuận chuyển đổi phần đất và nhận tiền chênh lệch là 30.240.000 đồng
với gia đình ông C xong rồi.
Ông đồng ý kết luận giám định số: 309/2024/KL-KTHS ngày 24/4/2024 để
làm cơ sở giải quyết; không yêu cầu giám định lại.
Ông đồng ý với kết quả xem xét thẩm định, đo đạc và kết quả định giá tài
sản để làm cơ sở giải quyết; không yêu cầu thẩm định, đo đạc và định giá lại.
Riêng phần đất chỉ chưa hết ranh địa chính hiệu 209b diện tích
34,3m
2
209c có diện tích 25,9m
2
phần đất này do hiện tại làm lối đi nên không
tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn T: Ông
Huỳnh Nhựt T1 Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
tỉnh B trình bày:
Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận
của ông Nguyễn Văn T bà Trần Thị N, Trần Thị R1 cùng các con của R1
là ông Phạm Văn T3, ông Nguyễn Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị
K, Nguyễn Thị O đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển đổi quyền sử
dụng đất theo giấy đổi đất ngày 04/07/2007 và đồng ý giao cho bà Trần Thị N
người trực tiếp quản lý sử dụng phần đất theo đo đạc họa đồ thửa đất đất có diện
tích là 3.800,7m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu 209, 209d), tờ bản đồ số 23,
tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T buộc
Trần Thị N, bà Trần Thị R1 cùng các con của bà R1ông Phạm Văn T3, ông
Nguyễn Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị O phải
giao trả cho ông T được quyền sử dụng phần đất theo đo đạc họa đồ thửa đất
diện tích 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu 209a) tờ bản đồ số 23, tọa
lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
6
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đưa ván ra
xét xử.
Tại Bản án dân s thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024,
Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú quyết định:
Căn cứ vào Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tng dân sự;
Áp dụng các Điều 693, 694, 695, 696 Bộ luật dân sự 2005; Điều 106 Luật
đất đai 2003 và Điều 203 Luật Đất đai 2013.
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường v Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí
và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Trần
Thị N, Trần Thị R1 cùng các con của bà R1 là ông Phạm Văn T3, ông Nguyễn
Văn T4, ông Nguyễn Văn T5, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị O giao trả cho ông
T được quyền sử dng phần đất theo đo đạc họa đồ thửa đất diện tích 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu 209a) tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện
T, tỉnh Bến tre.
2. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông Nguyễn Văn T và bà Trần Th
N, Trần Thị R1 ng các con của R1 là ông Phạm Văn T3, ông Nguyễn Văn
T4, ông Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị K, bà Nguyễn Thị O đồng ý tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất theo giấy đổi đất ngày 04/07/2007
đồng ý giao cho Trần Thị N người trực tiếp quản sử dụng phần đất
theo đo đạc họa đồ thửa đất đất diện tích 3.800,7m
2
thuộc một phần thửa
209 (ký hiệu 209, 209d), tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Đương sự quyền liên hquan Nhà nước thẩm quyền để thực hiện
các thủ tục xem xét điều chỉnh cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
bản án của Tòa án.(Có họa đ thửa đất kèm theo).
Ngoài ra, a án cấp thẩm còn tuyên về án phí thẩm, chi ptố tụng
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau ngày xét xử thẩm, ngày 06/9/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T
kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre sửa Bản
án thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Thạnh Phú theo hướng: Buộc bà Phạm Thị R trả lại cho ông phần đất diện
tích 1.704m
2
phần chênh lệch khi đổi đất với ông Nguyễn Văn C (chồng R).
Ông cho rằng phần đất của ông khi thỏa thuận đổi với ông C diện tích
5.565m
2
, đất của ông C diện tích 3.861m
2
ông không nhận số tiền
30.240.000 đồng như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T giữ nguyên
kháng cáo. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên
7
kháng cáo, yêu cầu R trả lại cho ông T 1.703,5m
2
chênh lệch thì mới tiếp tục
thực hiện thỏa thuận đổi đất; bị đơn bà Nguyễn Thị R2 và người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn Đào Hồng V không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn.
Các bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã tuyên là căn cứ. Kháng cáo của nguyên
đơn ông Nguyễn Văn T không sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên xử theo hướng: không chấp
nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T; Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số
164/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên;
xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T kháng cáo và gửi thủ tục kháng
cáo hợp lệ trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc
thẩm. Bà Nguyễn Thị O đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vắng mặt;
Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà O.
Về nội dung:
[1] Nguồn gốc đất tranh chấp:
Ngày 4/7/2007 ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Văn C (chồng bà R2) đã
thực hiện việc đổi đất cho nhau, việc đổi đất có viết giấy tay có tên gọi “Giấy đổi
đất” có nội dung đất ông C có diện tích 3.861m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ
27 đổi với đất ông T có diện tích 5.565m
2
thuộc thửa đất số 209 tờ bản đồ 23.
Ngày 18/8/2007, Trần Thị N ông Nguyễn Văn C thỏa thuận đổi đất,
đất của ông C có diện tích là 5.565m
2
thuộc thửa đất số 209 tờ bản đồ 23, đất do
ông T đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phần đất do ông C đổi đất
với ông T),để đổi lấy phần đất của N có diện tích 4900m
2
để tiện cho việc canh
tác và sử dụng.
Theo đó thì đất của ông T diện tích 5.565m
2
còn đất của ông C diện
tích 3.861m
2
phần chênh lệch diện tích 1.703,5m
2
, theo giá hai bên thoả
thuận là 30.240.000 đồng (Ba mươi triệu, hai trăm bốn mươi nghìn đồng), ông T
cũng đã thừa nhận.Tuy nhiên ông T chỉ thừa nhận việc ông nhận 20.000.000 đồng
để cải tạo đất nhưng ông T không có chứng cứ chứ minh ông dùng số tiền trên để
cải tạo đất như thế nào.
8
Phần diện tích đất ông C 5.565m
2
đổi với phần đất của N diện tích
4900m
2
, phần chênh lệch đã được hai bên thỏa thuận xong. Từ đó thì bà N ông
C sử dụng chuyển đổi nhưng cho đến nay thì ông T không đồng ý chuyển quyền
sang tên cho bà N sử dụng đất.
[2] Quá trình quản lý, sử dụng:
Sau khi đổi đất vào năm 2007 ông T sử dụng ổn định phần đất của ông C, bà
R2.
Ông C và bà R2 chuyển đổi phần đất của ông T cho bà N.
Các bên đều sử dụng ổn định không có tranh chấp, nên ông T không thể cho
rằng phần diện tích đất chênh lệch 1.703,5m
2
thuộc một phần thửa 209 (ký hiệu
209a) tbản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T ông T không chuyển đổi đất
cho ông C.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T:
[3.1] Ông Nguyễn Văn T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa Bản án
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông; Buộc bà Phạm Thị R giao
trả cho ông phần đất diện tích 1.703,5m
2
thuộc phần thửa số 209 (ký hiệu 209a)
tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. Thấy rằng phần đất đang
tranh chấp ông T người đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Trần Thị Ngọc L người đang trực tiếp quản lý, sử dụng (Bà N người đổi đất với
ông Nguyễn Văn C).
[3.2] Đối với “Giấy đổi đất ngày 04/7/2007 ÂL Giấy cam kết không ghi
ngày tháng năm” ông T không thừa nhận chữ ký là của ông T. Tuy nhiên, tại bản
Kết luận giám định số: 309/2024/KL-KTHS ngày 24/4/2024 của Phòng K1 Công
an tỉnh B thể hiện (BL: 109): chữ ký dạng chữ viết “Toản” dưới mục “Người đổi
đất:” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A1: giấy đổi đất ngày 4/7/2007); dưới mục
“Bên đổi (A)” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A2: giấy cam kết); dưới mục “Bên
đổi (A)” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A3: giấy cam kết) so với chữ dạng
chữ viết “Toản” trên mẫu so sánh do cùng một người (viết) ra. Tòa án đã Thông
báo số: 1016/TB-TA ngày 31 tháng 5 năm 2024 thông báo cho ông T biết để nêu
ý kiến đối với kết luận giám định quyền yêu cầu giám định lại nhưng hết
thời gian đã thông báo ông T không có đơn yêu cầu và tại phiên tòa sơ thẩm ông
T vẫn không yêu cầu trưng cầu giám định lại. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T
yêu cầu giám định lại nhưng ông không đưa ra được chứng cứ chứng minh kết
quả giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật, có sự không vô tư
khách quan nên Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của ông T không có cơ sở
để chấp nhận.
[3.3] Đối với số tiền 30.240.000 đồng, ông T cho rằng không phải là số tiền
chênh lệch đất bà R đã trả cho ông. Tại Tòa án phúc thẩm, ông T cho rằng khoản
9
tiền ông T nhận 20.000.000 đồng tiền hỗ trợ chi phí cải tạo đất, trả tiền cống
nhưng ông T không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày này.
[4] Tnhững nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Bản án
thẩm đã tuyên căn cứ; kháng cáo của nguyên đơn không sở để
chấp nhận; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 164/2024/DS-ST ngày 06 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên Bản
án sở thẩm đã tuyên chưa nêu rõ về việc thu hồi giấy chứng nhận và cấp lại giữa
các bên nên Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bổ sung đđảm bảo quyền lợi của các
bên.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên
đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy đnh. Tuy nhiên, ông
T người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án pvà lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 B luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chp nhn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T;
Giữ nguyên Bản án n s thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú;
Căn cứ vào Điều 26, 35, 39 B luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 693, 694, 695, 696 B luật dân sự 2005;
Căn cứ Điều 106 Luật đất đai 2003 và Điều 203 Luật Đất đai 2013.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Trần
Thị N, bà Trần Thị R1 cùng các con của R1 là ông Phạm Văn T3, ông
Tải về
Bản án số 597/2025/DS-PT Bản án số 597/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 597/2025/DS-PT Bản án số 597/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất