Bản án số 572/2025/DS-PT ngày 25/11/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 572/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 572/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 572/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 572/2025/DS-PT ngày 25/11/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
| Số hiệu: | 572/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/11/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 09/2024/DS-ST, ngày 21 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13- Vĩnh Long). Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thành Trung
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Dũng
Bà Phạm Thị Thu Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Hồng Nhả, Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long .
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa: Bà Võ
Thị Kim Liên- Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 11 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2025/TLPT-DS, ngày 24 tháng 02
năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất), di dời tài sản trên
đất”
Do bản án dân sự sơ thẩm số 09/2024/DS-ST, ngày 21 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13- Vĩnh
Long) có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 600/2025/QĐ-PT, ngày
12 tháng 11 năm 2025 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Ấp C, xã H, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Tấn L,
Văn phòng L2 – Đoàn Luật sư tỉnh V;
- Bị đơn:
1. Ông Đỗ Việt T1, sinh năm 1963;
2. Ông Phạm Văn D, sinh năm 1968;
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, tỉnh Vĩnh Long.
3. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1963;
Địa chỉ: Ấp G, xã H, tỉnh Vĩnh Long.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.Bà Nguyễn Thị Châu B, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Ấp C, xã H, tỉnh Vĩnh Long;
2. Anh Nguyễn Đạt T2, sinh năm 1993;
3. Chị Nguyễn Nhan Như N, sinh năm 1999;
Cùng địa chỉ: số nhà F, đường C, phường B, thành phố Hồ Chí Minh.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
Bản án số: 572/2025/DS-PT
Ngày 25-11 -2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh đất)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
4. Bà Nguyễn Thị Thùy T3, sinh năm 1969;
5. Anh Đỗ Việt N1, sinh năm 1989;
6. Anh Đỗ Việt T4, sinh năm 2005;
7. Bà Huỳnh Thị N2, sinh năm 1968;
8. Anh Phạm Văn N3, sinh năm 1993;
9. Chị Phạm Thị T5, sinh năm 1997;
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, tỉnh Vĩnh Long.
10. Anh Đỗ Hải B1, sinh năm 1990;
11. Chị Đỗ Thị Thùy T6, sinh năm 1999;
Cùng địa chỉ: Ấp G, xã H, tỉnh Vĩnh Long.
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh T là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các đơn khởi kiện, trong quá trình xét xử nguyên đơn ông Nguyễn
Thanh T trình bày như sau:
Tháng 02/2009, ông T nhận hợp đồng chuyển nhượng đất bà Trầm Thị N4
thửa đất 987, tờ bản đồ số 8, diện tích 8.560m
2
ông T đã sử dụng ổn định từ khi
chuyển nhượng cho đến nay. Năm 2014, ông Đỗ Việt T1 nhận chuyển nhượng
thửa đất của Bùi Văn T7, ông T1 có hỏi xin ông T cho cặm 03 cây trụ điện cao
thế trên đất ông T để kéo sang nhà ông T1. Quá trình sử dụng gia đình ông T1 liên
tục lấn sang đất của gia đình ông T, bằng việc nới rộng ao, cất chòi tôm, trồng dừa
làm hàng rào lấn sang đất của ông. Gia đình ông Phạm Văn D và gia đình bà
Nguyễn Thị M (nay chuyển cho bà H) có đất liền kề với đất ông T và cặm trụ ranh
theo ông T1 lấn ranh sang đất ông T.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu:
- Ông Đỗ Việt T1, bà Nguyễn Thị Thùy T3, anh Đỗ Việt N1, anh Đỗ Việt
T4 nhổ hết 07 cây dừa 04 năm tuổi; 03 cây xanh 04 năm tuổi; tháo dỡ chòi tôm
(bằng tre lá lợp tole ngang 03m dài 04m) di dời hàng rào làm bằng trụ đá, trên,
lưới mùng về đúng vị trí trả lại phần đất lần chiếm ngang 2,5m dài 43m diện tích
107m
2
và di dời 03 trụ điện mà trước đây ông T1 cặm nhờ trên thửa 987 của ông.
- Ông Phạm Văn D, bà Huỳnh Thị N2, anh Phạm Văn N3 và chị Phạm Thị
T5 phải di dời trụ rào bằng tre trả lại đất lấn chiếm ngang 2,5m dài 45m diện tích
113m
2
thuộc thửa đất thửa 987.
- Riêng đối với gia đình bà Nguyễn Thị M (nay chuyển nhượng cho bà H)
trước đây ông T yêu cầu di dời trụ rào tre trả lại đất ngang 1,2m dài 30m diện tích
36m
2
thuộc thửa thửa đất thửa 987, tờ bản đồ số 8, diện tích 8.560m
2
nay ông T
rút lại không yêu cầu Toà án giải quyết. Ngoài ra, ông T không yêu cầu gì khác.
Tại các bản khai, trong quá trình xét xử vụ án bị đơn ông Đỗ Việt T1 trình
bày: Nguồn gốc thửa đất 954, 956 là của gia đình ông nhận chuyển nhượng của
ông L1 năm 2014, phần đất này giáp thửa đất của ông T, khi ông nhận chuyển
nhượng ông và ông T sử dụng ổn định không ai tranh chấp, khi sử dụng gia đình
ông có hỏi gia đình ông T cặm trụ điện phía ông T cũng đồng ý nên điện lực thống
nhất cắm trụ điện được 04 năm do mâu thuẫn cá nhân nên ông T cho rằng gia đình
ông lấn sang diện tích đất ông T nên phát sinh tranh chấp. Nay ông T yêu cầu gia
3
đình ông di dời 03 trụ điện, chòi tôm, di dời cây và trả lại đất lấn chiếm ngang
2,5m dài 43m diện tích 107m
2
ông không đồng ý do gia đình ông di dời trụ điện
sẽ làm thiệt hại về tài sản cũng như việc nuôi tôm và sinh hoạt hằng ngày của gia
đình ông, vả lại ông T đã đồng ý cho cắm trụ điện chứ không phải ông tự ý cắm.
Theo lời khai của bà Huỳnh Thị N2: Cha mẹ của bà có mua thửa đất số 953
diện tích 5.020 m
2
để cho chồng bà là Phạm Văn D đứng tên, gia đình bà sử dụng
ổn định trên 40 năm không có ai tranh chấp. thửa đất của bà giáp ranh với đất ông
T1 và đất ông T có cặm trụ đá làm ranh. Ông T cho rằng bà lấn ranh đất ngang
2,5m dài 45 diện tích 113m
2
là không đúng bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông T.
Tại bản án sơ thẩm số 09/2024/DS-ST, ngày 21 tháng 11 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Cầu Ngang đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T về việc yêu
câu ông Đỗ Việt T1, bà Nguyễn Thị Thùy T3, anh Đỗ Việt N1, anh Đỗ Việt T4
nhổ hết 07 cây dừa 04 năm tuổi; 03 cây xanh 04 năm tuổi; tháo dỡ chòi tôm (bằng
tre lá lợp tole ngang 03m, dài 04m) di dời hàng rào làm bằng trụ đá, tre, lưới mùng
về đúng vị trí trả lại phần đất lấn chiếm ngang 2,5m dài 43m diện tích 107m
2
và
di dời 03 trụ điện hạ thế (cột bê tông trụ tròn) mà trước đây ông T1 cặm nhờ ra
khỏi thửa đất thửa 987, tờ bản đồ số 8, diện tích 8.560m
2
do ông Nguyễn Thanh
T đứng tên quyền sử dụng đất và yêu cầu ông Phạm Văn D, bà Huỳnh Thị N2,
anh Phạm Văn N3 và chị Phạm Thị T5 phải di dời trụ rào bằng tre trả lại đất lấn
chiếm ngang 2,5m dài 45m diện tích 113m
2
thuộc thửa đất thửa 987, tờ bản đồ số
8, diện tích 8.560m
2
do ông Nguyễn Thanh T đứng tên quyền sử dụng đất. Đình
chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T đối với gia đình bà Nguyễn Thị
M.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 05/12/2024 ông Nguyễn Thanh T kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Buộc hộ gia đình ông Đỗ Việt T1,
bà Nguyễn Thị Thùy T3, anh Đỗ Việt N1, anh Đỗ Việt T4 trả diện tích lấn chiếm
107m
2
(chiều ngang 2,5m x chiều dài 43m). Buộc hộ gia đình ông Phạm Văn D,
bà Huỳnh Thị N2, anh Phạm Văn N3 và chị Phạm Thị T5 phải trả diện tích đất
lấn chiếm 113m
2
(chiều ngang 2,5m x chiều dài 43m) thuộc thửa đất số 987, diện
tích 8.560m
2
, tờ bản đồ số 8, tọạ lạc tại ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Buộc hộ gia đình ông Đỗ Việt T1, bà Nguyễn Thị Thùy T3, anh Đỗ Việt
N1, anh Đỗ Việt T4 phải di dời 03 trụ điện hạ thế ra khỏi thửa đất số 987, diện
tích 8.560m
2
, tờ bản đồ số 8, của ông T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T rút đơn khởi
kiện đối với ông Phạm Văn D diện tích 45,3 m
2
yêu cầu ông D trả diện tích 67,7m
2
;
rút đơn khởi kiện ông Đỗ Việt T1 diện tích 77,1 m
2
yêu cầu ông T1 trả lại diện
tích 29,9 m
2
thuộc thửa 987 của ông T, theo như kết quả đo đạc của Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh V. Ông T không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không
cung cấp thêm chứng cứ mới không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án.
4
Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn: Thửa đất số
987,956,953 có nguồn gốc do các bên nhận chuyển nhượng và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ kết quả đo đạc ngày 23/10/2025 thì ông
Phạm Văn D lấn sang đất ông T 67,7m
2
, ông T1 lấn sang đất của ông T 29,9 m
2
ngoài ra ông T1 còn cắm hai trụ điện cao thế trên đất của ông T nên đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông T sửa toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ kết quả thẩm định lại ngày 23/10/2025 của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh V đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông Phạm Văn D trả
lại diện tích 67,7 m
2
thuộc thửa 987 của ông T cho ông T sử dụng. Riêng diện tích
29,9 m
2
ông T1 đang sử dụng có xây dựng hàng rào làm nhà ở không thể di dời
nên buộc ông T1 thanh toán giá trị đất lại cho ông T. Đối với 2 trụ cột điện cao
thế khi cặm ông T thống nhất cho ông T1 cặm nên điện lực mới cặm cho gia đình
ông T1 sử dụng, trụ điện cũng không ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của ông T
nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của ông T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày tranh
luận của các đương sự, của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, ý kiến
của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Về tố tụng: Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án theo Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là đúng quy định của pháp luật.
Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T còn trong hạn luật định, nên được
cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Thanh T rút một phần yêu cầu khởi
kiện và yêu cầu kháng cáo đối với ông Phạm Văn D diện tích 45,3m
2
, ông Đỗ
Việt T1 diện tích 77,1m
2
. Chỉ yêu cầu ông D1 trả lại diện tích 67,7m
2
và ông T1
trả diện tích 29,9m
2
nên Hội đồng xét xét chấp nhận đình chỉ xét xử phần rút yêu
cầu của ông T.
[2] Về nội dung: Sau khi kháng cáo ông Nguyễn Thanh T yêu cầu đo đạc
thẩm định lại thửa đất 987 của ông Nguyễn Thanh T, thửa đất 956 của ông Đỗ
Việt T1 và thửa 953 của ông Phạm Văn D. Theo biên bản thẩm định ngày
01/10/2025 thì trên phần đất tranh chấp giữa ông T và ông T1 có 2 cây me do bên
ông T1 sử dụng và hàng rào trụ bê tông dài 40m cao 2,3 m và có đóng tole cao
2,3 m dài 30,7m và một phần nhà của anh Đỗ Việt N1 ngang 0,7m dài 13m. Thửa
đất của ông T và ông D giáp nhau là đất trống. Ngoài ra ông T1 có cặm 2 cây trụ
điện cao thế trên thửa 987 để kéo sang nhà của ông Đỗ Việt T1. Không có 07 cây
dừa 04 năm tuổi; 03 cây xanh 04 năm tuổi; chòi tôm (bằng tre lá lợp tole ngang
03m, dài 04m) hàng rào làm bằng trụ đá, tre, lưới mùng như đơn khởi kiện của
ông T.
5
[3] Tại văn bản cung cấp kết quả thẩm định số 612/VPĐ-KTĐĐBĐ ngày
23/10/2025 của Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh V như sau:
Diện tích tranh chấp 154,1m
2
. Trong đó:
+ Phần tranh chấp giữa ông Nguyễn Thanh T và ông Phạm Văn D có ký
hiệu B và B1 trên sơ đồ có diện tích tranh chấp là 76,7 m
2
. Trong đó: Phần đất có
ký hiệu B diện tích 67,7m
2
thuộc thửa đất số 987 của ông Nguyễn Thanh T, B1
diện tích 9m
2
thuộc thửa 953 của ông Phạm Văn D.
+ Phần tranh chấp giữa ông Nguyễn Thanh T và ông Đỗ Việt T1 có ký hiệu
A, A1, A2, A3, A4, A5 trên sơ đồ có diện tích tranh chấp là 77,4 m
2
. Trong đó
diện tích 29,9 m
2
ký hiệu A2, A3 thuộc thửa 987 của ông Nguyễn Thanh T. Diện
tích 47,5 m
2
ký hiệu A, A1, A4, A5 thuộc thửa 956 của ông Đỗ Việt T1
Hàng rào của anh Đỗ Việt N1 (con ông Đỗ Việt T1) xây dựng từ mốc trụ
đá số 14 lên mốc trụ đá 15 dài 30,7m có một đoạn 13,5m thuộc thửa đất 956 của
ông Đỗ Việt T1 đoạn 17,2m gần nhà của anh N1 thuộc thửa 987 của ông Nguyễn
Thanh T. Sê nô nhà của anh Đỗ Việt N1 xây dựng trên thửa 956 của ông T1 lấn
sang thửa 987 ngang 0,7 m dài 13,7 m. Cây me gần trụ đá số 14 nằm trên đất của
ông T1, cây me gần trụ đá số 15 nằm trên đất của ông T.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T
Ông Nguyễn Thanh T nhận chuyển nhượng thửa đất 987 của bà Nguyễn
Thị N5 năm 2008. Ông Đỗ Việt T1 chuyển nhượng thửa đất 956 của ông Nguyễn
Văn H1 năm 2005. Ông Phạm Văn D nhận chuyển nhượng thửa đất 953 của ông
Lê Văn C năm 2005 (theo hồ sơ cung cấp của Văn Phòng đăng ký đất từ BL 150-
228). Việc chuyển nhượng của ông T, ông T1, ông D là chuyển nhượng nguyên
thửa đất các bên không có đo đạc lại diện tích thửa đất. Sau khi được chỉnh lý biến
động các bên thống nhất theo diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ranh giới thửa đất 987 giáp ranh với thửa đất 953 và 956 hiện trạng có
3 trụ đá móc số 6, 15,14 trên sơ đồ. Trụ đá số 14, 15 ông T cho rằng ông T1 tự
cắm lấn sang đất của ông, bà Huỳnh Thị N2 vợ ông D cho rằng ranh giới thửa đất
953 của bà giáp với ông Đỗ Việt T1 và ông Nguyễn Thanh T là trụ đá số 15 trên
sơ đồ. Ông T chỉ thống nhất trụ ranh móc số 6 giữa ông D, bà N2 với ông.
Theo quy định khoản 1 Điều 175 Bộ luật dân sự: Ranh giới giữa các bất
động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc
theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp. Không được
lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh,
mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới
chung.
Ranh giới thửa đất số 987, 956 và 953 không có mốc giới tồn tại trên 30
năm và các bên không thỏa thuận ranh giới nên căn cứ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được cơ quan nhà nước cấp để xác định ranh giới giữa ba thửa đất.
Phần tranh chấp giữa ông T và ông D là đất trống diện tích 67,7m
2
thuộc
thửa đất số 987 của ông Nguyễn Thanh T nên buộc ông Phạm Văn D và gia đình
trả lại cho ông T sử dụng.
Phần tranh chấp giữa ông T và ông T1 bên gia đình ông T1 cho con là Đỗ
Việt N1 xây dựng hàng rào trụ bê tông, xây nhà cấp 4 có mái sê nô lấn sang thửa
6
987 của ông T diện tích 29,9 m
2
, giá trị tài sản lớn hơn giá trị đất việc di dời hàng
rào và nhà chi phí rất lớn. Diện tích lấn chiếm không ảnh hưởng đến việc sử dụng
thửa đất 987 của ông T nên buộc ông T1 phải thanh toán giá trị đất lại cho ông T.
Theo biên bản định giá ngày 25/6/2024 giá đất 60.000 đ/m
2
. Diện tích 29,9 m
2
x
60.000 đ/m
2
=1.794.000 đồng nên ông T1 hoàn trả cho ông T 1.794.000 đồng.
[5] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T yêu cầu ông Đỗ Việt T1 phải
di dời 02 cây cột điện cao thế do ông T1 cặm kéo sang nhà của ông T1. Hai cây
cột cao thế một cây cắm mốc số 8 và vị trí C1 trên sơ đồ hiện trạng.
Trước khi ông T1 kéo đường dây điện có xin ông T thống nhất công ty Đ
mới kéo điện vào nhà ông T1 lấp bình biến áp hạ thế cho ông T1 sử dụng. Đường
dây điện do điện lực kéo đảm bảo an toàn cho người sử dụng đất nên việc ông T
yêu cầu ông T1 di dời cột điện là không có cơ sở để chấp nhận. Mặt khác theo
quy định tại Điều 255 Bộ luật dân sự quy định: Chủ sở hữu bất động sản có quyền
mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu
khác một cách hợp lý, nhưng phải bảo đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở
hữu đó; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Do đó yêu cầu kháng cáo này của ông T không có cơ sở để chấp nhận.
[6] Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ông T là có căn cứ một
phần nên được chấp nhận. Ý kiến Kiểm sát viên là phù hợp với các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án nên được chấp nhận.
[7] Về án phí, chi phí thẩm định các đương sự phải chịu theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 289, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ các Điều 175, Điều 255 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ các Điều 99, 100, 166, 167, 170 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T.
Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 09/2024/DS-ST, ngày 21 tháng 11 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13-
Vĩnh Long).
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử phần diện tích 45,3m
2
thuộc
thửa đất 953 do ông Phạm
Văn D sử dụng, diện tích 77,1m
2
thuộc thửa 956 do ông Đỗ Việt T1 sử dụng. Do
ông Nguyễn Thanh T rút yêu cầu khởi kiện và kháng cáo.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T về việc buộc ông Đỗ
Việt T1 phải di dời 2 trụ cột điện cao thế của ông T1 cắm trên thửa đất 987 của
ông T.
7
3. Buộc ông Phạm Văn D và bà Huỳnh Thị N2, Phạm Văn N3, Phạm Thị
T5 giao trả diện tích 67,7m
2
thuộc thửa đất số 987 của ông Nguyễn Thanh T có
ký hiệu B trên sơ đồ khu đất.Tứ cận như sau:
- Hướng Bắc giáp thửa 953 dài 44,79m thửa 952 dài 20,9m.
- Hướng Nam giáp phần còn lại thửa 987 dài 65,86m.
- Hướng Tây giáp nhà của Đỗ Việt N1 dài 02m.
4. Giao cho ông Đỗ Việt T1 và Đỗ Việt N1 được quyền tiếp tục sử dụng
diện tích diện tích 29,9m
2
, loại đất trồng lúa thuộc thửa 987 ký hiệu A2, A3 trên
sơ đồ khu đất. Tứ cận như sau:
- Hướng Bắc giáp thửa 956 dài 27,5 m.
- Hướng Nam giáp phần còn lại thửa 987 dài 28,86m.
- Hướng Tây giáp phần còn lại thửa 987 dài 2m.
(có sơ đồ khu đất kèm theo bản án)
5. Buộc ông Đỗ Việt T1 thanh toán giá trị đất cho ông Nguyễn Thanh T
bằng 1.794.000 đồng (Một triệu bảy trăm chín mươi bốn ngàn đồng).
Về án phí sơ thẩm: Ông Phạm Văn D, ông Đỗ Việt T1 mỗi người phải chịu
300.000 đồng. Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh T 358.875 đồng tiền tạm ứng án
phí theo biên lai thu số 0007959 ngày 27/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cầu Ngang (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 13 – Vĩnh Long).
Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh T không phải chịu. Hoàn trả
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011533 ngày 06/12/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang (nay Phòng thi hành án dân sự
khu vực 15.
Về chi phí thẩm định: Cấp sơ thẩm 3.845.693 đồng, cấp phúc thẩm
16.628.597 đồng. Tổng cộng bằng 20.474.290 đồng. ông Đỗ Việt T1 phải chịu
6.824.763 đồng. Ông Phạm Văn D phải chịu 13.649.526 đồng. Ông Nguyễn
Thanh T đã nộp tạm ứng 18.115.693 đồng, ông Đỗ Việt T1 đã nộp tạm ứng
3.000.000 đồng cho Tòa án chi xong. Buộc ông Phạm Văn D nộp 13.649.526
đồng, ông Đỗ Việt T1 nộp 3.824.763 đồng để trả cho ông Nguyễn Thanh T. Còn
lại 641.000.000 đồng ông T được nhận lại tại Tòa án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- TAND khu vực 13 –Vĩnh Long;
- Phòng THADS khu vực 13-Vĩnh
Long;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
8
Lê Thành Trung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm