Bản án số 585/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 585/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 585/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 585/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 585/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 585/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, đòi lại quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 585/2023/DS-PT
Ngày: 29-11-2023
V/v tranh chấp yêu cầu hủy
hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất, đòi lại quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Triều
Các Thẩm phán : Bà Nguyễn Thị Diệp Thuý
Bà Nguyễn Thị Ánh Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Hà Vy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Hà Ngọc Thư Trúc - Kiểm sát viên.
Ngày 27 và ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 257/2023/TLPT-DS
ngày 02 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất, đòi lại quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 94/2023/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2023
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 781/2023/QĐ-PT ngày
11 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị P, sinh năm 1936;
Địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Văn X, sinh năm 1965; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp E, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn: Nguyễn Trí D, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Số B, phường D, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn D1 – Văn
phòng Luật sư D1 – Đoàn Luật sư tỉnh T. (có mặt)
Địa chỉ: E, Đường C, khu phố C, phường E, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Văn L, sinh năm 1937;
Địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Nguyễn Văn T, sinh năm 1956; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp D, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
3. Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1956; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
4. Nguyễn Văn H1, sinh năm 1960; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang
5. Nguyễn Văn S, sinh năm 1961; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
6. Nguyễn Văn T1, sinh năm 1962; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp M, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
7. Nguyễn Văn X, sinh năm 1965; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp E, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang
8. Bà Nguyễn Thị Ánh H2, sinh năm 1966; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 6, xã Phú An, huyện C, tỉnh Tiền Giang
9. Nguyễn Văn H3, sinh năm 1969 (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh tiền G.
10. Nguyễn Thị Bạch T2, sinh năm 1967;
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn D2, sinh năm 1971; (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
11. Nguyễn Văn D2, sinh năm 1971; (có mặt)
12. Nguyễn Thị Phương M, sinh năm 1996 (xin vắng mặt)
13. Nguyễn Minh T3, sinh năm 2000 (xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
14. Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lý Thái T4 – Chủ tịch xã.
- Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Trí D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm;
* Ông Nguyễn Văn X là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng thời là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Cụ Nguyễn Thị P và cụ Nguyễn
Văn L có tạo lập được thửa đất vườn số 1798, diện tích 3.928m
2
tại ấp F, xã P,
huyện C, tỉnh Tiền Giang, được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do cụ P đại diện hộ đứng tên ngày 25/11/1999, trên đất có căn
nhà vợ chồng cụ P xây dựng năm 1994, nhà mồ và căn nhà của bà Nguyễn Thị
Bạch T2, đất này bà T2 nhượng lại của cụ P và cụ L xây nhà ở từ năm 1999, ngày
04/6/2007 cụ P được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.102,9m
2
, đến ngày
22/4/2013 gia đình cụ P làm hợp đồng tặng cho ông D thửa đất ruộng và toàn bộ
thửa đất vườn, được Ủy ban nhân dân xã P chứng thực ngày 24/4/2013, cụ P không
tranh chấp thửa đất ruộng. Đối với thửa đất vườn Ủy ban nhân dân huyện C cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất mới số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích
2.348,5m
2
cho ông D đứng tên vào ngày 04/9/2013, khi cụ P và các con trong gia
đình thống nhất ký hợp đồng tặng cho ông D tài sản với điều kiện ông D phải chăm
sóc nuôi dưỡng cha mẹ già và thờ cúng ông bà, cho đất trên giấy tờ còn thực tế cụ
P, cụ L vẫn trồng cây canh tác để sinh sống, hiện nay cụ P và cụ L bệnh khuyết tật
nặng, không đi lại được, cần sự hỗ trợ từ người khác nhưng ông D bỏ mặc, không
chăm sóc nuôi dưỡng là trái với đạo đức và vi phạm các điều kiện thỏa thuận tặng
cho tài sản, ngoài ra trong hợp đồng tặng cho tài sản ông Nguyễn Văn T và ông
Nguyễn Văn T1 là con cụ P và cụ L không có ký tên.
Nay cụ Nguyễn Thị P yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất ngày 22/4/2013 được Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng
thực ngày 24/4/2013 giữa cụ Nguyễn Thị P, cụ Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị
Kim H, ông Nguyễn Văn H1, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn
Thị Ánh H2, ông Nguyễn Văn H3, bà Nguyễn Thị Bạch T2 tặng cho ông Nguyễn
Trí D đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.102,9m
2
(thửa cũ 1798),
nay là thửa số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.348,5m
2
tại ấp F, xã P, huyện C,
tỉnh Tiền Giang được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 04/9/2013 cho ông Nguyễn Trí D đứng tên, buộc ông Nguyễn Trí D
trả lại thửa đất cho hộ cụ Nguyễn Thị P.
* Bị đơn ông Nguyễn Trí D trình bày: Ngày 22/4/2013 cụ Nguyễn Thị P và
những người cùng hộ có bà Nguyễn Thị Bạch T2 ký hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng thửa đất số 223, diện tích 2.102,9m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số H04222 cấp ngày 04/6/2007 và thửa 236, diện tích 245,6m
2
theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03606 cấp ngày 25/11/1999 do bà
Nguyễn Thị Bạch T2 đứng tên nhưng thửa này đã bị thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do đo đạc theo chỉ dẫn bà T2 không có căn cứ tách thửa nên
diện tích 245,6m
2
nằm trong thửa 166 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do cụ Nguyễn Thị P đứng tên, ông D được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01144 ngày 04/9/2013 đối với thửa đất số
516, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.348,5m
2
trong đó có 300m
2
đất ở nông thôn và
2.048,5m
2
đất trồng cây lâu năm tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang là
đúng trình tự thủ tục theo quy định. Do đó cụ P yêu cầu lấy lại thửa đất số 223,
tờ bản đồ số 13, diện tích 2.102,9m
2
và hủy hợp đồng tặng cho là không có căn
cứ pháp luật, ông D không chấp nhận.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Cụ Nguyễn Văn L trình bày: Năm 2013 vợ chồng cụ có tặng cho ông
Nguyễn Trí D là con trai út trong gia đình thửa đất ruộng và thửa đất vườn, trên
thửa đất vườn có căn nhà của vợ chồng cụ và căn nhà của con gái tên Nguyễn
Thị Bạch T2, năm 2004 đã tiến hành đo đạc cấp giấy cho bà T2, do khi đo đạc
có sai sót nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T2 bị thu hồi, nhiều lần
cụ L yêu cầu ông D tách thửa đất cho bà T2 đứng tên nhưng ông D không thực
hiện và bỏ mặc vợ chồng cụ từ năm 2017, ông D mỗi lần về nhà kiếm chuyện
đập phá đồ đạc, xua đuổi bà T2 và hăm đuổi vợ chồng cụ ra khỏi nhà, tuy đã
tặng cho thửa đất vườn cho ông D nhưng vợ chồng cụ vẫn trồng cây, canh tác
đất, khi tặng cho tài sản cho ông D với điều kiện ông D chăm sóc nuôi dưỡng vợ
chồng cụ, từ năm 2021 đến nay cụ P và cụ Lạc b không đi được, cần sự trợ giúp
nhưng ông D không chăm sóc, nuôi dưỡng, trong hợp đồng tặng cho tài sản ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn T1 là con cụ không ký tên.
Nay cụ Nguyễn Văn L thống nhất theo yêu cầu của cụ Nguyễn Thị P.
- Ông Nguyễn Văn D2 trình bày: Cụ Nguyễn Thị P và cụ Nguyễn Văn L có
thửa số 1798, diện tích 3.928m
2
được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do cụ P đại diện hộ đứng tên ngày 25/11/1999, cụ P và
cụ L có chuyển nhượng cho vợ chồng ông phần đất cất nhà sinh sống từ năm
1999, đã đo đạc và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thửa số 236 diện tích 245,6m
2
ngày 04/6/2007 đo bà T2 đứng tên,
do có sai sót quá trình đo đạc tách thửa nên đã bị thu hồi, phần đất có căn nhà
của gia đình ông đã nhập chung thửa 223 của cụ P, đến năm 2013 cụ P và gia
đình ký hợp đồng tặng cho thửa đất vườn gắn liền căn nhà cụ P và nhà của gia
đình ông cho ông D, khi tặng cho tài sản với điều kiện ông D chăm sóc nuôi
dưỡng cha mẹ, thờ cúng ông bà và theo đó ông D được Ủy ban nhân dân huyện
C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích
2.348,5m
2
ngày 04/9/2013, cụ P và cụ L nhiều lần yêu cầu ông D tách phần đất
gắn liền căn nhà của vợ chồng ông trên thửa 516 do ông D đứng tên cho bà T2
nhưng ông D không thực hiện, hiện nay cụ P và cụ L bệnh khuyết tật nặng
không đi lại được, cần người trợ giúp nhưng ông D bỏ mặc không quan tâm,
chăm sóc nên đã xảy ra tranh chấp.
Nay bà Nguyễn Thị Bạch T2, ông Nguyễn Văn D2 thống nhất theo yêu cầu
của cụ P, đối với căn nhà của gia đình bà T2 xây dựng sinh sống từ năm 1999
trên thửa đất số 516, bà T2, ông D2 không tranh chấp.
+ Bà Nguyễn Thị Kim H trình bày: Cụ P, cụ L cùng anh chị em trong gia
đình thống nhất tặng cho ông D là con trai út thửa đất vườn có ngôi nhà của cha
mẹ và thửa đất ruộng với điều kiện ông D chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ khi tuổi
già sức yếu và thờ cúng ông bà, hiện nay, cụ P và cụ L bệnh tật không đi được,
mọi sinh hoạt cần sự hỗ trợ từ người khác nhưng ông D bỏ mặc, không quan tâm
chăm sóc, mỗi khi về nhà kiếm chuyện đòi đưa cha mẹ vô chùa ở, bà H không
tranh chấp và thống nhất theo yêu cầu của cụ P.
+ Ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Từ nhỏ các ông
sống chung với cụ P và cụ L, khi làm hợp đồng tặng cho các ông không ký tên,
khi nhận hết tài sản thì ông D không thực hiện đúng lời hứa chăm sóc cha mẹ
lúc tuổi già, các ông không tranh chấp và thống nhất theo yêu cầu của cụ
Nguyễn Thị P.
+ Ông Nguyễn Văn H1, ông Nguyễn Văn S trình bày: ông D nhận hết đất
của cha mẹ giao để nuôi dưỡng cha mẹ tuổi già và thờ cúng sau này, nhưng ông
D không thực hiện, bạc đãi cha mẹ trong khi cha mẹ đang bệnh khuyết tật nặng,
các ông không tranh chấp và thống nhất theo yêu cầu của cụ P.
+ Ông Nguyễn Văn H3 trình bày: Không tranh chấp trong vụ án.
+ Bà Nguyễn Thị Ánh H2 đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án,
giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần để hòa giải và xét xử nhưng không ghi văn bản
trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và vắng mặt không lý do.
+ Chị Nguyễn Thị Phương M và anh Nguyễn Minh T3 trình bày: Thống
nhất theo yêu cầu của cụ Nguyễn Thị P, không tranh chấp trong vụ án.
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã P trình
bày: Ủy ban nhân dân xã P có chứng thực hồ sơ theo quy định của Nghị định số
23/2015/NĐ-CP, tại thời điểm chứng thực đã kiểm tra giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất bản chính, kiểm tra chứng minh nhân dân của các bên, bên cho, bên
nhận đã đọc kỹ lại hợp đồng và có ký tên trước mặt chính quyền địa phương
theo quy định pháp luật, cụ thể tại các điều khoản của Hợp đồng tặng cho có nội
dung cam kết của các bên rất rõ và chi tiết, Ủy ban nhân dân kính gởi đến Tòa
án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại Bản án sơ thẩm số 94/2023/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2023 của Toà
án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ: Điều 26; Điều 35; khoản 1, 2
Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166,
203 Luật đất đai năm 2013; Điều 125, 465, 467, 470 của Bộ luật dân sự năm
2005; Điều 70, 71 luật Hôn nhân gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn
giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị P.
- Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 22/4/2013 được Ủy ban
nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực vào ngày 24/4/2013 giữa
cụ Nguyễn Thị P, cụ Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Kim H, ông Nguyễn Văn
H1, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn Thị Ánh H2, ông
Nguyễn Văn H3, bà Nguyễn Thị Bạch T2 tặng cho ông Nguyễn Trí D đối với
thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13 diện tích 2.102,9m
2
(thửa cũ 1798 diện tích
2.348,5m
2
) nay là thửa đất số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.348,5m
2
tại ấp F,
xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào ngày 04/9/2013 cho ông Nguyễn Trí D đứng tên.
- Buộc ông Nguyễn Trí D trả lại thửa đất số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích
2.348,5m
2
tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho hộ cụ Nguyễn Thị P.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
* Ngày 22/6/2023, bị đơn Nguyễn Trí D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang do bản án sơ thẩm xử không có
căn cứ, trái pháp luật. Yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm xem xét theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị P.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Nguyên đơn cụ Nguyễn Thị P có đại diện theo uỷ quyền ông Nguyễn Văn
X vẫn giử nguyên yêu cầu khởi kiện và không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo
của ông Nguyễn Trí D.
Ông nguyễn Trí D3 có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho ông Nguyễn Trí D trình bày: Cụ Phấn
khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho và đòi lại thửa đất mà đã tặng cho
ông D là chưa hợp lý, trong hợp đồng tặng cho không có kèm theo điều kiện là
khi cho đất ông D phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, ông D sống chung với cụ P,
cụ L và chăm sóc các cụ, đi dạy học ở thị xã C vẫn tới lui, do đợt dịch vừa qua
nên hạn chế đi lại chăm sóc cụ P và cụ L.
Các biên bản xác minh của Tòa án có nội dung giống nhau, cho rằng từ
khi ông D đứng tên tài sản không còn chăm sóc cha mẹ là không đúng và đây
chỉ là lời nói từ một hướng thân cận của cụ P nhằm để tạo áp lực và cho rằng
ông D bất hiếu không chăm sóc cha mẹ cho thấy các lời trình bày này không
khách quan. Về nguyên tắc đạo đức con cái phải có trách nhiệm nuôi dưỡng
cha mẹ và đây là nghĩa vụ tất cả anh em, không chỉ riêng cá nhân ông D. Theo
hợp đồng tặng cho đất ngoài những người trong hộ ký tên thì các anh chị em
trong gia đình cũng thống nhất cùng ký tên, do đó hợp đồng đúng quy định và
hợp pháp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn và chấp nhận kháng cáo của ông D.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tại phiên toà phúc thẩm bị đơn không đưa ra được chứng cứ
gì để đảm bảo quyền lợi cho mình do đó không có cơ sở chấp nhận theo yêu cầu
kháng cáo của bị đơn. Tuy nhiên, án sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng tặng cho, buộc
ông D trả đất cho cụ P nhưng không tuyên cụ P được quyền kê khai, đăng ký
cấp giấy chứng nhận là chưa đúng quy định tại Điều 166 luật đất đai năm 2013
nên sửa 01 phần bản án dân sự sơ thẩm.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm - TAND tỉnh Tiền Giang áp dụng:
khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của bị đơn Nguyễn Trí D; Sửa 01 phần bản án sơ thẩm số 94/2023/DS-ST ngày
06/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện C bổ sung vào phần quyết định của bản
án sơ thẩm: Cụ P được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
làm thục tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của
nguyên đơn; lời trình bày của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho bị đơn, căn cứ
kết quả tranh tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Trí D còn trong thời hạn luật
định, đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp là “Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, đòi
lại quyền sử dụng đất” là đúng quy định
[3] Về tố tụng: Nguyên đơn cụ Nguyễn Thị P có đại diện theo uỷ quyền
ông Nguyễn Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn
D2 có mặt, bị đơn ông Nguyễn Trí D và những người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[4] Về nội dung kháng cáo ông Nguyễn Trí D cho rằng ông không chấp
nhận huỷ hợp đồng tặng cho và lấy lại thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13, diện tích
2.102,9m
2
toạ lạc tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
[5] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ P yêu cầu hủy
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 22/4/2013 được Ủy ban nhân dân xã
P, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực vào ngày 24/4/2013 giữa cụ Nguyễn
Thị P, cụ Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Kim H, ông Nguyễn Văn H1, ông
Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn Thị Ánh H2, ông Nguyễn Văn
H3, bà Nguyễn Thị Bạch T2 tặng cho ông Nguyễn Trí D thửa đất số 223, tờ bản
đồ số 13 diện tích 2.102,9m
2
(thửa cũ 1798 diện tích 2.348,5m
2
) nay là thửa số
516, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.348,5m
2
tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền
Giang được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vào ngày 04/9/2013 cho ông Nguyễn Trí D, buộc ông D trả lại thửa đất cho hộ
cụ P. Hội đồng xét xử xét thấy, theo hợp đồng tặng cho ngày 22/4/2013 được
Ủy ban nhân dân xã P chứng thực ngày 24/4/2013 là thửa đất số: cắt 166, (223,
236 số cũ 1798) do cụ P đại diện hộ gia đình đứng tên vào ngày 25/11/1999,
thời điểm này người trong hộ của cụ P theo xác nhận của công an xã P thì gồm
có Nguyễn Thị P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Trí D và Nguyễn Văn S nên trong
hợp đồng tặng cho ông T, ông T1 không ký tên cũng không ảnh hưởng đến thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, cụ P cho rằng, khi tặng
cho ông D quyền sử dụng đất với điều kiện ông D phải chăm sóc vợ chồng cụ,
thờ cúng ông bà và điều kiện này không ghi rõ trong hợp đồng, phía ông D
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của cụ P, có đơn xin vắng mặt và cũng
không có ý kiến gì đối với lời trình bày của cụ P về điều kiện tặng cho tài sản
nhưng căn cứ vào tờ di chúc lập ngày 19/4/2011 trước khi lập hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất ngày 22/4/2013 mà ông X đại diện theo uỷ quyền của bà
P cung cấp tại phiên toà phúc thẩm trong nội dung di chúc thể hiện ‘…Ba đứa
con Bạch Tuyết + Sang + Xuân qua bộ QSDĐ xong, còn lại bao nhiêu ruộng,
vườn, nhà di chúc cho con trai út là Nguyễn Chí D4 đứng bộ QSDĐ, ghi chú:
vợ chồng Nguyễn Chí D4 có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ hết tuổi già...”
cùng lời xác nhận của các anh chị em trong gia đình là: vì ông D4 là con út, khi
cụ P, cụ Lạc tặng cho ông D4 tài sản nhà, đất với điều kiện phải chăm sóc lúc
cha mẹ già và thờ cúng ông bà nên có căn cứ xác định hợp đồng tặng cho tài sản
này là có điều kiện, hiện nay ông D4 sinh sống ở thị xã C với vợ con, bỏ mặc
các cụ không quan tâm, các cụ đang bệnh khuyết tật nặng, cụ L bệnh xương
khớp, cột sống, thoát vị đĩa đệm không ngồi được, cụ P té gãy xương chân
không đi được, mọi sinh hoạt ăn uống, vệ sinh cần sự hỗ trợ từ người khác, ông
D4 không chăm sóc và thường xuyên uống rượu kiếm chuyện đập phá chửi đuổi
cụ L, cụ P, bà T2; Theo các biên bản xác minh ngày 15/5/2023, tại địa phương
nơi cụ P và cụ L sinh sống đều xác định: cụ P, cụ Lạc tặng cho tài sản để ông
D4 có trách nhiệm nuôi dưỡng các cụ tuổi già, các cụ bệnh tật không đi lại
được, chỉ thấy các anh chị em ông D4 tới lui và nói cho lối xóm biết về tình
hình sức khỏe của các cụ, tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn cung cấp đoạn ghi
âm có nội dung ông D4 có lời nói và hành động làm ảnh hưởng tinh thần của cụ
P và cụ L, từ đó đủ căn cứ xác định ông D4 đã vi phạm điều kiện khi nhận tài
sản từ hợp đồng tặng cho ngày 22/4/2013; Hơn nữa ngoài thửa đất vườn đang
tranh chấp các cụ còn tặng cho ông D4 thửa đất ruộng nhưng cụ P không tranh
chấp thửa đất ruộng này. Hiện tại cụ P và cụ L không còn phần đất nào khác,
ngoài ra trên thửa đất 516 còn có căn nhà của bà T2 xây dựng ở từ năm 1999.
Từ những nhận định trên xét thấy cần thiết hủy hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất được Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực vào
ngày 22/4/2013 giữa cụ Nguyễn Thị P, cụ Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Kim
H, ông Nguyễn Văn H1, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn
Thị Ánh H2, ông Nguyễn Văn H3, bà Nguyễn Thị Bạch T2 tặng cho ông
Nguyễn Trí D. Buộc ông Nguyễn Trí D thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13 diện
tích 2102,9m
2
(thửa cũ 1798 diện tích 2.348,5m
2
) nay là thửa số 516, tờ bản đồ
số 13, diện tích 2.348,5m
2
tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang được Ủy ban
nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa vào ngày
04/9/2013 cho ông Nguyễn Trí D đứng tên và ông D trả lại thửa đất trên cho hộ
cụ P là có căn cứ.
Tuy nhiên án sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng tặng cho, buộc ông D trả đất
cho cụ P, nhưng không tuyên cụ P được quyền kê khai, đăng ký cấp giấy chứng
nhận là thiếu sót cần phải bổ sung vào quyết định án sơ thẩm.
[10] Xét lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
đơn không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp
nhận.
[11] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[12] Về án phí: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn
Trí D, ông D phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 26; Điều 35; khoản 1, 2 Điều 227; khoản
1, 3 Điều 228; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166, 203 Luật đất đai
năm 2013; Điều 125, 465, 467, 470 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 70, 71
luật Hôn nhân gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn giảm thu nộp quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Trí D5.
- Sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm 94/2023/DS-ST ngày 06
tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị P.
- Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 22/4/2013 được Ủy ban
nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực vào ngày 24/4/2013 giữa
cụ Nguyễn Thị P, cụ Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Kim H, ông Nguyễn Văn
H1, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn Thị Ánh H2, ông
Nguyễn Văn H3, bà Nguyễn Thị Bạch T2 tặng cho ông Nguyễn Trí D đối với
thửa đất số 223, tờ bản đồ số 13 diện tích 2.102,9m
2
(thửa cũ 1798 diện tích
2.348,5m
2
) nay là thửa đất số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích 2.348,5m
2
tại ấp F,
xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào ngày 04/9/2013 cho ông Nguyễn Trí D đứng tên.
- Buộc ông Nguyễn Trí D trả lại thửa đất số 516, tờ bản đồ số 13, diện tích
2.348,5m
2
tại ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho hộ cụ Nguyễn Thị P.
Cụ Nguyễn Thị P được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để làm thục tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
2. Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc định giá và xem xét thẩm định thực tế
tại chỗ, nguyên đơn tự nguyện nộp, đã nộp xong.
3. Về án phí: Ông Nguyễn Trí D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án theo qui định các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tuyên án vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 29 tháng 11 năm 2023 có mặt anh X,
anh D2.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C.
- CCTHADS huyện Cai Lậy;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Triều
Tải về
Bản án số 585/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 585/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm