Bản án số 195/2024/DS-PT ngày 14/11/2024 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 195/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 195/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 195/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 195/2024/DS-PT ngày 14/11/2024 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Trà Vinh |
Số hiệu: | 195/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Lực
Ông Lê Thành Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Bé Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa: Bà
Võ Thị Kim Liên - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 235/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 141/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 129/2024/QĐ - PT ngày
24 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1940 (có mặt)
Địa chỉ: ấp Đ, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T gồm:
1/ Bà Trịnh Thị Lệ M, sinh năm 1971 (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh, theo Văn bản ủy quyền ngày
25/12/2023.
2/ Bà Trịnh Thị Lệ H, sinh năm 1967 (có mặt).
Địa chỉ: ấp P, xã S, huyện C, tỉnh Trà Vinh, theo Văn bản ủy quyền ngày
03/10/2024.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 195/2024/DS - PT
Ngày 14 - 11 - 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trần Thị
Đ, Văn phòng L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh T. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Trịnh Quốc T1, sinh năm 1964 (có mặt)
Địa chỉ: ấp Đ, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Hoàng
O, Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh T (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trịnh Thị H1, sinh năm 1958 (xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: số B Khu phố A, phường F, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
2. Bà Trịnh Thị Lệ N, sinh năm 1965 (có mặt)
Địa chỉ: ấp Đ, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
3. Bà Trịnh Thị Lệ H, sinh năm 1967 (có mặt)
Địa chỉ: ấp Phú Lân, xã Song Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
4. Ông Trịnh Quốc D, sinh năm 1968 (có mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã H 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
5. Bà Trịnh Thị Lệ T2, sinh năm 1969 (xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
6. Ông Trịnh Quốc H2, sinh năm 1972 (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
7. Bà Trịnh Thị Lệ M, sinh năm 1971 (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T,
lời khai của bà Trịnh Thị Lệ M là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trong
quá trình giải quyết vụ án trình bày: Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Trịnh H3 là
vợ chồng, có tạo lập tài sản chung là quyền sử dụng đất tổng diện tích đất
34.520m
2
được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ Trịnh Hẩu . Bà T với ông H3 có 10 người con chung gồm: Trịnh Quốc
T1, Trịnh Thị H1, Trịnh Thị Lệ N, Trịnh Thị Lệ H, Trịnh Quốc D, Trịnh Thị Lệ
T2, Trịnh Thị Lệ M, Trịnh Quốc H2, Trịnh Quốc T3 (đã chết), Trịnh Quốc H4
(đã chết). Vào năm 2016 ông H3 chết, bà T3 cùng các con có thỏa thuận phân
chia tài sản thừa kế, tài sản được chia đều cho bà T3 và các con. Bà T3 được
3
hưởng thừa kế diện tích 3.422m
2
, thửa đất số 957, tờ bản đồ số 28, tọa lạc ấp H,
xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Trước khi làm hồ sơ thừa kế, bà T3 sống chung với người con là ông Trịnh
Quốc D được khoản 08 năm thì bà T3 về sống với gia đình người con là ông Trịnh
Quốc T1. Sau khi bà T3 và các con bà T3 làm xong thủ tục chia thừa kế thì ông
D về rước bà T3 về nhưng ông T1 không cho bà T3 về. Do sống với ông T1, ông
T1 chở bà T3 ra Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh lăng tay vào tờ
giấy thì bà T3 lăng tay vào nhưng bà T3 không biết lăng tay để làm gì; đến sau
này thì bà T3 mới biết lăng tay vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông
T1. Bà T3 biết chữ nhưng tay rung nên không ký tên được và thuộc diện người
cao tuổi, tai cũng không nghe rõ khi nói chuyện, cho nên khi cán bộ làm hồ sơ
kêu bà T3 làm sao thì bà T3 làm vậy chứ bà T3 không hề biết nội dung trong hồ
sơ. Nay bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Tuyên vô hiệu
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa số 957, diện tích 3.422m
2
, loại
đất CLN, tờ bản đồ số 28, toạ lạc ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa bà
Nguyễn Thị Ngọc T với ông Trịnh Quốc T1 được Ủy ban nhân dân xã L chứng
thực ngày 11/5/2023; Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Trịnh Quốc T1 đối với thửa đất số 957 và yêu cầu ông Trịnh Quốc T1 trả lại cho
bà Nguyễn Thị Ngọc T diện tích 3.422m
2
thuộc thửa 957.
Bị đơn ông Trịnh Quốc T1 trình bày: Ông thống nhất như lời trình bày của
bà T về nguồn gốc đất cũng như phân chia thừa kế quyền sử dụng đất cho bà T và
các người con. Thửa số 957, diện tích 3.422m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ số 28, toạ
lạc ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh là phần của mẹ ông là bà Nguyễn Thị Ngọc
T được chia và bà T đã tặng cho ông thửa đất này và ông đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng. Nay ông không đồng ý theo yêu cầu của khởi kiện của bà T.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trịnh Thị H1, bà Trịnh Thị Lệ
N, ông Trịnh Quốc D, bà Trịnh Thị Lệ T2 trình bày: Các ông bà là con ruột của
ông Trịnh H3, bà Nguyễn Thị Ngọc T, sau khi ông Trịnh H3 chết để lại 34.220m
2
,
bà T đã chia đều cho 9 người con và con riêng của ông Trịnh H3 là bà Trịnh Thị
H1 một phần. Tổng cộng 10 phần bằng nhau và đã sang tên xong, nay các ông bà
không có tranh chấp gì trong vụ án này. Riêng phần đất diện tích 3.422m
2
, thửa
957 chia cho bà T, sau đó ông Trịnh Quốc T1 tự làm hợp đồng tặng cho phần đất
này của bà T cho ông T1. Các ông, bà yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông T1 phải
trả cho bà T thửa đất trên.
4
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Quốc H2, bà Trịnh Thị
Lệ H: Thống nhất ý kiến trình bày của bà Trịnh Thị H1, bà Trịnh Thị Lệ N, ông
Trịnh Quốc D, bà Trịnh Thị Lệ T2.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 141/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc
T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T kháng cáo
Bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bà Trịnh Thị Lê M1, bà Trịnh Thị Lê H5
không rút yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng: Việc bà
Nguyễn Thị Ngọc T tặng cho thửa đất 957 cho ông Trịnh Quốc T1 là không đúng
với ý chí của bà T; khi chứng thực hợp đồng tặng cho, cán bộ Ủy ban nhân dân
xã L không có đọc lại cho bà T nghe, kêu bà T lăn tay thì bà T lăn tay chứ bà T
không biết nội dung gì; việc chứng thực không có người làm chứng nên không
đúng quy định tại Điều 36 của của Nghị định số: 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo
của bà T, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng: Bà
Nguyễn Thị Ngọc T ở chung với ông Trịnh Quốc T1 nên việc bà T tặng cho thửa
đất 957 là hoàn toàn tự nguyện; vào thời điểm bà T làm hợp đồng tặng cho đất
cho ông T1, bà T có đầy đủ sức khỏe, tinh thần minh mẫn, cán bộ Ủy ban nhân
dân xã K chứng thực hợp đồng tặng cho có đọc lại cho bà T nghe, nói rõ việc tặng
cho đất, bà T đồng ý điểm chỉ. Ông T1 cũng làm tròn trách nhiệm nuôi dưỡng bà
T chứ không phải không nuôi dưỡng bà T. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của bà T. Tại phiên tòa hôm nay, ông T1 tự nguyện cho bà
T số tiền 200.000.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này
của ông T1.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
5
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vị Kiểm sát viên cho rằng: Hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất đối với thửa đất 957 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T với ông Trịnh Quốc
T1 được Ủy ban nhân dân xã L chứng thực theo quy định của pháp luật. Vào thời
điểm chứng thực hợp đồng, bà T sức khỏe bình thường, tinh thần minh mẫn, cán
bộ tiếp nhận hồ sơ có đọc lại nội dung hợp đồng tặng cho và giải thích cho bà T
về việc tặng cho quyền sử dụng đất, bà T đồng ý và điểm chỉ vào hợp đồng. Nay
ông T1 đã được cấp quyền sử dụng đất đối với thửa đất 957 và sử dụng đất nên
hợp đồng tặng cho này có hiệu lực pháp luật. Do đó, kháng cáo của bà T là không
có cơ sở chấp nhận. Tại phiên tòa hôm nay, ông T1 tự nguyện cho bà T số tiền
200.000.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của ông
T1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Trịnh Thị H1, bà Trịnh Thị Lệ T2 vắng mặt nhưng có đơn xin giải quyết vắng
mặt nên căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt
đương sự trên.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T, Hội đồng xét
xử xét thấy: Thửa số 957, diện tích 3.422m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ số 28, toạ
lạc ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh là của bà Nguyễn Thị Ngọc T, ngày
11/5/2023, bà T làm hợp đồng tặng cho thửa đất 957 trên cho ông Trịnh Quốc T1.
Hợp đồng tặng cho ngày 11/5/2023 được UBND xã L chứng thực. Tại thời điểm
UBND xã L chứng thực hợp đồng thì bà T sức khỏe bình thường, tinh thần minh
mẫn, bà T biết chữ nhưng do tay bị rung nên bà T không ký được mà chỉ điểm chỉ
vào hợp đồng, sự việc này được bà T thừa nhận tại bản tự khai ngày 21/12/2023,
tại biên bản lấy lời khai ngày 18/7/2024, ngày 31/7/2024 (BL 15, 91 -92, 98 –
100). Tại công văn số: 195/CV – UBND ngày 19/8/2024 của Ủy ban nhân dân xã
L xác định: Khi UBND xã chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa
bà T với ông T1, cán bộ tiếp nhận hồ sơ có tiếp xúc với bà T thì xét thấy bà T
nhận thức bình thường, bà T lớn tuổi không đọc được nhưng trước khi ký, điểm
chỉ cán bộ tiếp nhận hồ sơ có thông qua nội dung hợp đồng tặng cho quyền sử
6
dụng đất cho bà T nghe và giải thích quyền lợi, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý cho bà
T, sau đó cán bộ tiếp nhận hồ sơ có hỏi bà T đồng ý ký tên không thì bà T đồng
ý, do tay bà T bị rung nên bà T xin điểm chỉ (BL 103a). Theo khoản 3 Điều 36
của Nghị định số: 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực
hợp đồng, giao dịch quy định: “…Trường hợp người yêu cầu chứng thực không
ký được thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không
ký, không điểm chỉ được thì phải có 02 (hai) người làm chứng. Người làm chứng
phải có đủ năng lực hành vi dân sự và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên
quan đến hợp đồng, giao dịch”. Theo quy định trên thì người yêu cầu chứng thực
không ký được thì phải điểm chỉ, chỉ khi nào người yêu cầu chứng thực đồng thời
không đọc được, không nghe được, không ký được, không điểm chỉ được thì mới
bắt buộc phải có 02 người làm chứng. Đối với bà T mặc dù bà T không ký được,
không đọc được nhưng bà T nghe được, điểm chỉ được và được cán bộ tiếp nhận
hồ sơ chứng thực hợp đồng đọc lại nội dung hợp đồng và giải thích quyền lợi,
nghĩa vụ, hậu quả pháp lý cho bà T nên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này
được Ủy ban nhân dân xã L chứng thực đúng theo quy định tại các Điều 35, 36
của Nghị định số: 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ. Việc bà T
cho rằng ông T1 chở bà đến Ủy ban nhân dân xã L kêu bà lăn tay thì bà T lăn tay
nhưng bà T không biết lăn tay để làm gì, cán bộ làm hồ sơ kêu bà T làm sao thì
bà T làm vậy chứ bà T không biết nội dung trong hồ sơ nhưng bà T không có tài
liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho lời trình bày này của bà. Như vậy, thửa đất
957 trên là của bà T, bà T đã tự nguyện tặng cho ông T1 và ông T1 đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối
với thửa đất 957 giữa bà T với ông T1 đã có hiệu lực pháp luật. Từ những chứng
cứ và phần tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T là có cơ sở, đúng quy định của
pháp luật.
[3] Tại phiên tòa hôm nay, ông Trịnh Quốc T1 tự nguyện cho bà T số tiền
200.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của ông T1.
[4] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn,
như nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận.
[5] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, của
vị Kiểm sát viên, như phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở
chấp nhận.
7
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà T là người cao tuổi, có đơn xin miễn
án phí nên miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho bà T.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 141/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ các Điều 116, 117, 118, 119, 457, 459, 500, 501, 502, 503 của Bộ
luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 167, 168, 169, 188 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Ngọc T yêu cầu: Tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với
thửa số 957, diện tích 3.422m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ số 28, toạ lạc ấp H, xã L,
huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T với ông Trịnh Quốc T1 được
Ủy ban nhân dân xã L chứng thực ngày 11/5/2023; Huỷ giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã cấp cho ông Trịnh Quốc T1 đối với thửa đất số 957 và yêu cầu ông
Trịnh Quốc T1 trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc T diện tích 3.422m
2
thuộc thửa
957.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trịnh Quốc T1 cho bà Nguyễn Thị Ngọc
T số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án, cho đến
khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên
được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời
gian chưa thi hành án.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho
bà Nguyễn Thị Ngọc T.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
8
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Trà Vinh;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Hùng
Tải về
Bản án số 195/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 195/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 460/2024/DSPT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm