Bản án số 82/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 82/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 82/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Nông
Số hiệu: 82/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Khi còn sống, ông Nguyễn T2, sinh năm 1939 và bà Phạm Thị C1, sinh năm 1948 (cha mẹ bà Nguyễn Thị Kim H) có tạo lập được một số tài sản, trong đó có quyền sử dụng diện tích 2.130 m2, thuộc thửa đất 133, tờ bản đồ 07, tọa lạc tại thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 236358 do UBND huyện Đ cấp cho ông T2, bà C1 ngày 14/7/2006. Ngày 15/5/2008, bà C1 chết và ngày 26/6/2020, ông T2 chết (đều không để lại di chúc). Đối với bà H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 82/2024/DS-PT
Ngày 19-9-2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên
bố văn bản công chứng vô hiệu,
kiện đòi nhà cho ở nhờ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thm phn – Ch to phiên toà: Ông Nguyễn Hồng Chương
Cc Thm phn: Ông Nguyễn Tài Sử và ông Lương Đức Dương
- Thư ký phiên toà: Bà Trương Thị Diễm My là Thư ký viên Toà án nhân
dân tỉnh Đăk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa – Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 51/2024/TLPT-DS ngày 13
tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất,
yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng hiệu, kiện đòi nhà cho ở nhờ”, do Bản
án dân sự thẩm số: 16/2024/DS-ST ngày 11-6-2024 của Toà án nhân n
huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk ng bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm số: 38/2024/QĐ-PT ngày 19-8-2024 và Quyết định hoãn phiên tòa
số: 114/2024/QĐ-PT ngày 05-9-2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Kim H; địa chỉ: Tỏ dân phố B, thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Đăk Nông Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn K; địa chỉ: Số B đường
V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
2. Bị đơn: Nguyễn Thị Thu H1; địa chỉ: Thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
Đăk Nông Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Văn K1; địa chỉ: Thôn C, N,
huyện Đ, tỉnh Đăk Nông ông Hoàng Thanh C; địa chỉ: Thôn C, Đ, huyện
T, tỉnh Đăk Nông Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Kim H2; địa chỉ: Số I đường N, tổ dân phố A, thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Đăk Nông Vắng mặt;
- Ông Nguyễn Văn T; địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh
Đăk Nông Có mặt;
2
- Nguyễn Thị Kim L; địa chỉ: Số I đường N, tổ dân phố A, thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Đăk Nông Có mặt;
- Ông Nguyễn Thanh S; địa chỉ: Số F đường L, thôn Đ, Đ, huyện Đ,
tỉnh Đăk Nông Vắng mặt;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông đơn xét
xử vắng mặt;
- Ông Nguyễn Hữu T1; địa chỉ: Thôn E, Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông
Vắng mặt;
- Ông Hồng H3; địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk
Nông Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị Thu H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 07-02-2023 qu trình giải quyết vụ n,
nguyên đơn Nguyễn Thị Kim H, người đi diện theo y quyền ca nguyên
đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:
Khi còn sống, ông Nguyễn T2, sinh năm 1939 Phạm Thị C1, sinh
năm 1948 (cha mẹ Nguyễn Thị Kim H) tạo lập được một số tài sản, trong
đó quyền sử dụng diện tích 2.130 m
2
, thuộc thửa đất 133, tờ bản đồ 07, tọa
lạc tại thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AG 236358 do UBND huyện Đ cấp cho ông T2, C1 ngày
14/7/2006. Ngày 15/5/2008, C1 chết ngày 26/6/2020, ông T2 chết (đều
không để lại di chúc).
Đối với H: Năm 1998, ông T2, C1 cho H một phần diện tích
thuộc quyền sdụng đất nêu trên có cạnh ngang 08m, dài hết đất khoảng 70m,
các em trong gia đình không ai phản đối. Tháng 02/1999, bà H xây nhà cấp 4
với diện tích 4m x 9m = 30 m
2
sinh sống đến năm 2007 xây dựng thêm một
căn nhà khoảng 60m
2
cũng trên phần diện tích đất này. Tháng 10/2011, bà H cho
vợ chồng em gái là Nguyễn Thị Thu H1 ông Nguyễn Hữu T1 mượn để
trong thời hạn 01 năm. Tuy nhiên, hết thời hạn 01 năm H nhiều lần yêu cầu
H1, ông T1 trả lại căn nhà cho H nhưng H1, ông T1 vẫn cố tình không
trả trên căn nhà cho đến nay. Đầu năm 2022, H làm thủ tục nhằm thừa
hưởng phần tài sản trên thì được biết: Ngày 16/10/2018 UBNDĐ chứng thực
việc các đồng thừa kế của Phạm Thị C1 gồm ông Nguyễn T2 (chồng),
Nguyễn Thị Kim H, bà Nguyễn Thị Kim H2, bà Nguyễn Thị Kim L, ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Thị Thu H1 (các con) thống
nhất để lại toàn bộ di sản của bà C1 là ½ quyền sử dụng đất nói trên cho ông T2.
Ngày 07/11/2018, ông T2 đăng biến động tên ông. Ngày 26/02/2020, ông T2
lập hợp đồng tặng cho bà Nguyễn Thị Thu H1 toàn bộ diện tích đất trên.
H khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố biên bản phân chia di sản ngày
16/10/2018 được UBND Đ chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sdụng
đất giữa ông Nguyễn T2 Nguyễn Thị Thu H1 ngày 26/02/2020 hiệu,
thu hồi hủy giấy chng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Thị Thu H1.
Tại đơn thay đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện tại phiên a
3
thẩm, nguyên đơn rút yêu cầu tuyên bố biên bản phân chia di sản hiệu, chỉ
yêu cầu hủy một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T2 Nguyễn Thị Thu H1 ngày 26/02/2020 (phần diện tích đất đã tặng cho
H) khi ông T2 tặng cho H1 quyền sử dụng đất thì H không biết mặc
H đã được tặng cho quyền sử dụng đất trước đó, nhà của H tồn tại
trên đất; bổ sung yêu cầu công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (bằng
miệng) giữa H với ông T2 C1 năm 1998; buộc H1 trả lại đất tài
sản trên đất cho H. Trường hợp không đủ điều kiện công nhận hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất thì buộc bà H1 trả lại giá trị đất và tài sản trên đất cho bà
H theo giá thị trường. Bà H không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất bị tuyên vô hiệu.
2. Trong qu trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1 trình bày:
H1 thừa nhận thửa đất số 682, tờ bản đồ 07, tọa lạc tại Đ, huyện Đ,
tỉnh Đắk ng nguồn gốc của ông Nguyễn T2, Phạm Thị C1. Sau khi
C1 chết không để lại di chúc, tất cả thành viên trong gia đình đã thống nhất
để lại thừa kế phần di sản của C1 cho ông Nguyễn T2, trong đó H.
Tháng 02/2020, H1 được ông Nguyễn Thăng t cho toàn bộ thửa đất này. Về
căn nhà trên đất bà H1 xác nhận là của bà H và vợ chồng bà H1 được bà H cho ở
nhờ từ năm 2011 đến nay nlời bà H trình bày. Tuy nhiên, việc H xây nhà
trên đất là do cha mẹ bà H1 thấy bà H khổ cực, không có chỗ ở nên mới cho xây
nhà để ở tạm chứ không phải được cha mẹ tặng cho. H1 thừa nhận việc H
xây nhà trên đất H1 và tất cả các thành viên trong gia đình đều biết và không
ai phản đối gì. H1 cho rằng được ông T2 tặng cho toàn bộ quyền sử
dụng đất hợp pháp, H không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh được
tặng cho đất nên bà H1 không chấp nhận yêu cầu của bà H về việc trả đất hay trả
giá trị đất theo giá thị trường; chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc
hoàn trả giá trị căn nhà của bà H. Nếu bà H đồng ý dọn về ở thì bà H1 chấp nhận
trả nhà nhưng H1 không chấp nhận sang tên đất cho H. H1 tự nguyện
sau này sẽ tặng cho cháu Lê Hồng H3 (con trai của H) phần diện tích đất này
khi đủ điều kiện tách thửa; bà H1 không có yêu cầu phản tố.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
3.1. Ông Nguyễn Văn T ông Nguyễn Thanh S: Ngoài phần đất H
đang đang tranh chấp thì ông T2, C1 để lại một số tài sản khác nhưng
hiện không tranh chấp, các anh chị em đã thỏa thuận với nhau. do năm
2018 các thành viên trong gia đình làm thủ tục ủy quyền toàn bộ tài sản cho ông
Nguyễn T2 do thửa đất tranh chấp với ông Nguyễn Văn T3, để thuận lợi
trong việc tham gia tố tụng; hiện nay, vụ tranh chấp đã xong không ai ý kiến
gì. Theo di nguyện của cha mkhi còn sống thì ông để lại cho các con phần
tài sản như sau: Ông T được hưởng căn nhà tại số I N; ông S, H1 được nhận
quyền sử dụng đất ở khu vực đập V; phần đất C hiện đang tranh chấp chia đều
cho ba chị em gái H, H2, L. Do đó, năm 1999 H xây nhà trên đất
được bố mẹ cho là đúng, tất cả các thành viên trong nhà đều đồng ý, không ai
ý kiến phản đối, tranh chấp gì. Tuy nhiên, hiện nay H chỉ một mình
Hồng H3 con, nếu bà H1 muốn để lại phần đất cho cháu H3 cũng phù hợp, để
giải quyết ổn thỏa thì H cứ chấp nhận dọn về nhà ở, H1 sẽ trách nhiệm
4
tách thửa cho cháu H3 sau. Ông T, ông S không có yêu cầu độc lập.
3.2. Nguyễn Thị Kim H2 Nguyễn Thị Kim L: Các thừa nhận
lời khai của ông T và ông S. Tuy nhiên, c không đồng ý nội dung ông T2,
C1 cho H, H2, bà L thửa đất thôn E, Đ, huyện Đ. do H xây
nhà ở trên đất này sau khi ly hôn H khó khăn nên cha mẹ cho làm nhà tạm
để ở. Sau đó, ông T2 đã tặng cho bà H1 thì bà H1 toàn quyền quyết định, H2,
L không ý kiến hay yêu cầu gì. Tuy nhiên, trong thời gian tranh chấp tại
Đ thì các anh chị em đã thỏa thuận H1 sẽ tặng cho phần đất nhà cho
cháu Hồng H3 (con trai H) và mong H chấp nhận việc này để không
tranh chấp nữa.
3.3. Ông Phan Xuân V (người đi diện theo y quyền ca Ch tịch Ủy ban
nhân dân Đ): Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ chứng thực hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T2Nguyễn Thị Thu H1 là đúng trình
tự, thủ tục, thời hạn quy định của pháp luật. Tại thời điểm chứng thực, ông
Nguyễn T2 hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện. Tuy nhiên, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã không biết trên thửa đất tặng cho tồn tại tài sản của người
thứ ba là bà H. Vì vậy, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
3.4. Ông Nguyễn Hữu T1 (chồng bà H1): Thống nhất với bà H1, không có
ý kiến khác, tranh chấp giữa bà H và bà H1 không liên quan đến ông.
Bản án dân sự thẩm số: 16/2024/DS-ST ngày 11-6-2024 của Toà án
nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk ng quyết định: Căn cứ khoản 3, khoản 5
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91,
Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 165, khoản 2 Điều 244, Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; áp dụng Điều 131, Điều 133, Điều 463 của Bộ luật Dân sự
năm 1995; Điều 116, Điều 117, Điều 123, Điều 129, Điều 500, Điều 501, Điều
502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 73 của Luật Đất đai 1993; Điều 167,
Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Án lệ số 03/2016; khoản 2 Điều 26, khoản
3 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Nguyễn Thị Kim H: - Tuyên bố một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất giữa ông Nguyễn T2 Nguyễn Thị Thu H1 ngày 16/02/2020 hiệu. -
Công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T2, Phạm
Thị C1 Nguyễn Thị Kim H năm 1998 hiệu lực pháp luật. - Buộc
Nguyễn Thị Thu H1 trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim H một phần thửa đất số 862,
tờ bản đồ số 7, diện tích đo đạc 792 m
2
đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại thôn E,
Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông được giấy chứng nhận quyền sdụng đất sDA
052195 của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ ngày 02/8/2021. Tứ cận thửa
đất: Phía Đông giáp đường; phía Tây giáp đất ông T3, ông Q; phía Nam giáp đất
ông T1; phía Bắc giáp phần đất còn lại của thửa đất 862. Buộc Nguyễn Thị
Thu H1 và ông Nguyễn Hữu T1 trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim H 01 căn nhà và
toàn bộ công trình liên quan trên đất. (Đặc điểm thửa đất tài sản trên đất
theo biên bản xem xét thm định ti chỗ tài sản tranh chấp ngày 22/9/2023 ca
Tòa n nhân dân huyện Đắk Mil kết quả đo đc ngày 15/11/2023 ca Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Đ, tỉnh Đăk Nông). 2. Buộc bà Nguyễn
5
Thị Kim H phải thanh toán cho Nguyễn Thị Thu H1 ông Nguyễn Hữu T1
số tiền 32.640.000 đồng. 3. Đình chỉ xét xđối với yêu cầu của Nguyễn Thị
Kim H về việc tuyên bố văn bản phân chia di sản ngày 16/10/2018 được UBND
xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông chứng thực là vô hiệu.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí
tố tụng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 24-6-2024, bị đơn Nguyễn Thị Thu H1 kháng cáo toàn bộ bản
án thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án
thẩm, chchấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
bị đơn hoàn trả giá trị căn nhà, không chấp nhận trả lại diện tích đất theo yêu
cầu của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng
cáo, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; các đương sự đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định pháp luật. Người kháng cáo đồng ý hỗ trợ cho nguyên
đơn số tiền 50.000.000 đồng và giá trị căn nhà đã được thẩm định giá tài sản.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến: Về tố
tụng: Người tham gia tố tụng người tiến hành ttụng đã thực hiện đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của
H1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong h vụ án, căn cứ vào các
chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, trên sở xem xét
đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến các đương sự, quan điểm giải quyết vụ án
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Kng cáo của bị đơn thực hiện đúng quy định pháp
lut và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân n tỉnh Đăk Nông.
[2]. Về nội dung vụ án, kháng cáo:
[2.1]. Các đương sự đều thống nhất nội dung: Năm 1999, H xây nhà,
ng trình phụ, cổng, hàng rào trên một phần diện tích đất của ông T2, C1,
tọa lạc tại Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Việc H xây nhà trên đất được tất
cả các thành viên trong gia đình biết không ai phản đối; H sử dụng nhà,
đất ổn định không tranh chấp với ai. Năm 2011 bà H1 lập gia đình không có chỗ
nên H cho vợ chồng H1 về nhờ căn nhà này đến nay. Thời điểm H
xây dựng nhà thì ông T2, C1 chưa được cấp GCNQSDĐ và chưa đo đạc, giải
thửa (chưa có giấy tờ).
[2.2]. Đối với quyền sử dụng đất các đương sự không thống nhất, cụ thể:
H ông T1, ông S tnh bày: Năm 1998 H được ông T2, C1 tặng cho
(bằng lời nói) một phần diện tích đất của ông T2, C1, tọa lạc tại Đ, huyện
Đ, tỉnh Đắk Nông (rộng khoảng 8m, dài khoảng 70m) cùng với 02 chị em khác
Nguyễn Thị Kim H2, Nguyễn Thị Kim L (toàn bộ thửa đất cho ba người, ai
có điều kiện tự tách thửa). Bà H1, H2, bà L trình bày: Việc bà H xây nhà trên
đất do cha mẹ cho xây nhà tạm chứ không cho hẳn, nếu tặng cho thì đã làm
thủ tục sang tên.
6
[2.3]. Hội đồng xét xử xét thấy: Năm 1998, ông T2, C1 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên Luật Đất
đai năm 1993 không quy định tặng cho quyền sử dụng đất. m 2006, ông T2,
C1 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
nêu trên thửa đất đất 133, tờ bản đồ 07. Sau khi được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì ông T2, bà C1 không tuyên bbằng lời nói hay văn
bản thể hiện việc cho bà H diện tích đất này. Ngày 15-5-2008, bà C1 chết không
để lại di chúc cho các thành viên trong gia đình. Tại văn bản tự thỏa thuận phân
chia tài sản thừa kế ngày 16-10-2018 tại UBND Đ, các con (có cả H) đều
thống nhất để để lại toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất cho ông T2. Vì vậy, ông
T2 toàn quyền định đoạt đối với quyền sử dụng thửa đất 133, tờ bản đồ 07.
Do đó, ông T2 tặng cho bà H1 quyền sử dụng thửa đất 133, tờ bản đồ 07 và trình
tự, thủ tục tặng cho đúng quy định pháp luật. Đồng thời, hiện nay thửa đất này
thuộc quy hoạch cây xanh diện tích đất H yêu cầu nhỏ hơn hạn mức tối
thiểu để tách thửa (nhỏ hơn 1.000m
2
). Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ chấp
nhận kháng cáo của bà H1, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của H. Song, việc H1 tự nguyện hỗ trợ cho H số tiền
50.000.000 đồng và giá trị căn nhà đã được thẩm định giá tài sản là phù hợp nên
cần chấp nhận. Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không căn cứ nên
Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên H1 không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Chấp
nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1, sửa Bản án dân sự thẩm
số: 16/2024/DS-ST ngày 11-6-2024 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh
Đăk Nông:
Căn cứ khoản 3, khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 244 của Bluật T
tụng dân sự; áp dụng c Điều 131, 133, 463 của Bộ luật Dân sự năm 1995; các
Điều 116, 117, 123, 129, 500, 501, 502 của Bộ luật n sự m 2015; Điều 73
của Luật Đất đai 1993;c Điều 167, 188 của Luật Đất đai năm 2013, tuyên xử:
1.1. Bác yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Kim H về việc: Tuyên bố
một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T2Nguyễn
Thị Thu H1 ngày 16/02/2020 hiệu công nhận hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất giữa ông Nguyễn T2, Phạm Thị C1 Nguyễn Thị Kim H
năm 1998 có hiệu lực pháp luật.
1.2. Buộc Nguyễn Thị Thu H1 tr li cho Nguyễn ThKim H stiền
175.975.00 (Một trăm bảy ơi lăm triệu chín trăm bảy mươi m nghìn đồng)
gồm giá trị căn nhà thẩm định g 125.975.000đ (Một trăm hai mươi lăm triệu chín
trăm bảy ơi lăm nghìn đồng) htr50.000.00 (Năm mươi triệu đồng).
1.3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Nguyễn Thị Kim H vviệc
tuyên bố Văn bản phân chia di sản ngày 16/10/2018 được UBND xã Đ, huyện
Đ, tỉnh Đăk Nông chứng thực là vô hiệu.
7
1.4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ thẩm định giá tài sản:
Nguyễn Thị Kim H phải chịu toàn bộ và đã thực hiện xong.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 1 Điều 26, Điều 27 khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vQuốc hội ván
phí, lệ phí Toà án:
- Buộc Nguyễn Thị Kim H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
án phí dân sự thẩm và được trừ vào 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn
đồng) đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo theo biên lai số 0007175 ngày
23-3-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông; bà H
được nhận lại số tiền 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng).
- Trả lại cho Nguyễn Thị Thu H1 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã
nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0005931 ngày 27-6-2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản n, quyết định được thi hành theo quy định ti Điều 2
Luật Thi hành n dân sự, thì người được thi hành n dân sự, người phải thi
hành n dân sự quyền thoả thuận thi hành n, quyền yêu cầu thi hành n, tự
nguyện thi hành n hoặc cưỡng chế thi hành n theo quy định ti Điều 6, Điều
7, Điều 7a, Điều 7b Điều 9 Luật Thi hành n dân sự; thời hiệu yêu cầu thi
hành n được thực hiện theo quy định ti Điều 30 Luật Thi hành n dân sự.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Đăk Nông;
- TAND huyện Đăk Mil;
- Chi cục THADS huyện Đăk Mil;
- Các đương sự;
- Lưu: Tổ HCTP, TDS, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký và đóng dấu)
Nguyễn Hồng Chương
Tải về
Bản án số 82/2024/DS-PT Bản án số 82/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 82/2024/DS-PT Bản án số 82/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất