Bản án số 178/2024/DS-PT ngày 17/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 178/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 178/2024/DS-PT ngày 17/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Số hiệu: 178/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Như vậy, mặc dù các bên có ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đảm bảo về hình thức, tuy nhiên Hợp đồng tặng cho ngày 10/9/2010 chưa đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, đối với thửa đất số 52 bên được tặng cho chưa nhận phần đất, cũng chưa nhận được tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nên không đủ điều kiện để công nhận hợp đồng có hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có căn cứ pháp luật.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số: 178 /2024/DS-PT
Ngày: 17 9 2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng tặng cho
tài sản và tranh chấp về thừa kế tài
sản”
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hồng Thanh
Các Thẩm phán:Ông Nguyễn Hữu Bằng
Bà Đào Thị Thủy
- Thư phiên tòa: Giang Thư Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh
Hậu Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tham gia phiên tòa:
Bà Đặng Kim Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 9 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang,
công khai xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 152/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 6
năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản và tranh chấp về thừa
kế tài sản”. Do Bản án dân sự thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 09 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo. Theo
Q đưa vụ án ra xét xử số: 154/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 7 năm 2024, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Văn T (có mặt);
2. Bà Nguyễn Thị T1 (có mặt);
Cùng cư trú tại: ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
3. Nguyễn Thị H; trú tại: ấp Đ, Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang
(có mặt).
2
- Bị đơn:Nguyễn Thị M; cư trú tại: ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu
Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của M (Giấy y quyền ngày 31/5/2022):
Ông Trương Thanh V; địa chỉ: khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang
(có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh
Hậu Giang; trụ sở:Số C V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. (có đơn xin
vắng mặt)
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T1
Nguyễn Thị Bé H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, các tài liệu trong hồ thì
nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, các
nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị T1 Nguyễn Thị H trình
bày:
Cha mẹ chúng tôi ông Nguyễn Văn A (chết 2010) Đoàn Thị B
(chết 2021) tổng cộng 04 người con chung gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị
T1, Nguyễn Thị H Nguyễn Thị M. Sinh thời cha mẹ chúng tôi tạo lập
được 22.735 m
2
đất tại các thửa s 295, 52, 57, 74, 75, 76 tờ bản đồ số 1 thuộc ấp
P, P (nay thị trấn M), huyện C, tỉnh Hậu Giang. Sau khi cha chúng tôi qua
đời, mẹ chúng tôi Đoàn Thị B anh em chúng tôi đồng ý giao cho
Nguyễn Thị M đại diện đứng tên trong giấychứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày
29/4/2008, bà M được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất trên.
Ngày 10/9/2010, bà M đã lập hợp đồng tặng cho tiền và đất cho bà B, ông
T, bà T1, bà H. Theo hợpnày, những người được tặng cho được hưởng quyền lợi
như sau: Khi lãnh tiền lần thứ nhất, M giao cho Đoàn Thị B 500.000.000
đồng, số tiền này M đã giao B đã gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N1, chi
nhánh huyện C; khi lãnh tiền lần thứ hai, M chia như sau: B được hưởng
852m² đất tại thửa s52, ông T được hưởng tổng cộng 5.200 m² đất (gồm thửa 75
diện tích 2.033 thửa 76 diện tích 3.167m²), H T1 895 đất tại
thửa 52 và 2.808 m² đất tại thửa 76. Tuy nhiên, sau khi Nhà nước thu hồi 04 thửa
57, 74, 75, 76 để xây dựng Trung tâm Điện lực Sông Hậu và trả tiền bồi thường
lần thứ nhất, M hưởng toàn bộ tiền bồi thường 03 thửa 57, 74, 75 và chỉ giao
tiền bồi thường của thửa 76 cho ông T, bà Bé H và bà T1.
3
Ngày 03/10/2021, sau khi bà B qua đời, Nhà nước tiếp tục thu hồi bồi
thường lần 2 đối với thửa 52. Theo Bảng tính chi tiết ban hành kèm Quyết định
số 5114/QĐ-UBND ngày 29/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C, tổng số tiền
bồi thường và hỗ trợ 1.674.498.200 đồng. Trong số tiền này, phần bồi thường
852m² đất mà bà M đã tặng cho bà B là 728.382.000 đồng và 895m² đất mà bà M
tặng cho H bà T1 946.106.200 đồng, tức 1.674.498.200 đồng -
728.382.000 đồng (phần của mẹ), bà H và T1 mi người được hưởng
473.053.100 đồng. Như vậy, đến thời điểm này, chỉ còn lại tiền bồi thường thửa
52. Do M không thực hiện Hợpđồng tặng cho ngày 10/9/2010 đối với phần
852m² đất tại thửa 52 nên phát sinh tranh chấp và hiện nay vẫn chưa nhận tiền bồi
thường. Vì vậy, các nguyên đơn yêu cầu cụ thể như sau:
+ Ông Nguyễn Văn T yêu cầu được chia giá trị quyền sử dụng đất của
Trần Thị B1 diện tích 852m² gđền 728.382.000 đồng chia làm 04 phần,
ông xin nhận một phần là 182.095.500 đồng. Yêu cầu chia làm 04 phần số tiền
B1 gửi tiết kiệm là 300.000.000 đồng, mỗi người 75.000.000 đồng.
+ Bà Nguyễn Thị Bé H yêu cầu được chia giá trị quyền sử dụng đất của
Trần Thị B1 diện tích 852m² giá đền 728.382.000 đồng, chia làm 04 phần,
bà xin nhận một phần là 182.095.500 đồng. Yêu cầu nhận giá trị phần đất 895m²
giá đền 946.106.200 đồng, yêu cầu được nhận 473.053.100 đồng. Yêu cầu
chia làm 04 phần số tiền bà B1 gửi tiết kiệm 300.000.000 đồng, mỗi người
75.000.000 đồng.
+ Nguyễn Thị Thương yêu c được chia giá trị quyền sử dụng đất của
Trần Thị B1 diện tích 852m² giá đền 728.382.000 đồng, chia làm 04 phần,
bà xin nhận một phần là 182.095.500 đồng. Yêu cầu nhận giá trị phần đất 895m²
giá đền 946.106.200 đồng, yêu cầu được nhận 473.053.100 đồng. Yêu cầu
chia làm 04 phần số tiền B1 gửi tiết kiệm 300.000.000 đồng, mỗi người
75.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
Nguyễn Thị M là ông Trương Thanh V trình bày:
Đối với yêu cầu chia thừa kế giá trị quyền sử dụng đất 852m² của bà Đoàn
Thị B yêu cầu nhận giá trị phần đất 895m² theo hợp đồng tặng cho ngày
10/9/2010 được lập tại Ủy ban nhân dân thị trấn M thì bị đơn không đồng ý chia
không đồng ý cho các nguyên đơn. do phần đất hứa tặng cho B nhưng
bà B đã không còn. Hiện nay các anh em trong gia đình không còn thuận hòa nữa
nên bị đơn không đồng ý cho giá trị đất cho các nguyên đơn, mặc dù trước đó có
hứa cho. Đối với số tiền gửi tiết kiệm của B 300.000.000 đồng, khi còn sống
bà B đã rút hết không còn, khi còn sống B đã đưa bà T1 giữ 150.000.000 đồng
4
bà H mượn 50.000.000 đồng. Nay bị đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu chia làm 04
phần đối với số tiền 200.000.000 đồng của bà Trần Thị B1.
Quá trình giải quyết, các nguyên đơn xin t lại yêu cầu chia số tiền tiết
kiện B1 đã gửi ngânhàng. Bị đơn cũng rút yêu cầu phản tvề việc yêu cầu chia
thừa kế số tiền 200.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm s29/2024/DS-ST ngày 09 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị T1,
Nguyễn Thị Bé H.
Huỷ Hợp đồng đồng thoả thuận tặng cho tiền và đất ngày 10/9/2010 được
lập giữa Nguyễn ThM Đoàn Thị B, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị T1
Nguyễn Thị Bé H.
Đình chỉ yêu cầu chia thừa kế số tiền 300.000.000 đồng của các nguyên
đơn.
Đình chỉ yêu cầu phản tố chia thừa kế stiền 200.000.000 đồng của bị đơn.
Nguyễn Thị M được liên hệ quan thẩm quyền để nhận số tiền
1.670.268.200 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo quyền yêu cầu
thi hành án của các đương sự theo quy định.
Ngày 22/4/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị T1 và
Nguyễn Thị Bé H nộp đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm
theo hướng công nhận hợp đồng tặng cho đã được chứng thực tại Ủy ban nhân
dân xã P ngày 10/9/2010.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và yêu cầu kháng cáo.
- Ông T trình bày: việc M tặng cho quyền sử dụng đất cho các nguyên
đơn có hợp đồng tặng cho, tờkết của M, xác nhận của những người làm chứng.
Sau này, khi Nhà nước tiến hành thủ tục thu hồi đất thì M vẫn ý kiến tiếp
tục thực hiện việc giao tiền khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng sau đó lại không thực
hiện. Phần đất tại thửa 52 M chưa giao đất cho bà H và bà T1.
- Bà H và bà T1 trình bày: Bà M chưa giao đất đã tặng cho tại thửa 52, cho
đến khi Nhà nước thu hồi đất tcụ B cũng chưa được nhận phần đất tặng cho.
Cụ A cũng tờ di chúc phân chia đất nhưng sau đó cha mẹ, anh em đã hợp
đồng tặng cho bà M.
5
- Đại diện theo ủy quyền của bà M: Thống nhất ý kiến của các nguyên đơn
về việc bà M ký hợp đồng tặng cho thửa đất 52, nhưng do anh chị em trong gia
đình phát sinh mâu thuẫn, không còn thuận thảo nữa nên bà M không đồng ý tiếp
tục thực hiện theo hợp đồng đối với thửa đất số 52. Đối với các thửa đất khác đã
thực hiện xong theo hợp đồng tặng cho.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:
- Về chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán -
Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa và các đương sự đã thực
hiện đúng quy định của pháp luật tốtụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Các đương sự khai thống nhất nguồn gốc đất
tranh chấp là của cụ A và cụ B. Năm 2008, cụ A, cụ Ba cùng ông T, bà T1, bà H
hợp đồng tặng cho M toàn bộ diện tích đất M đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ngày 10/9/2010, bà M ký hợp đồng tặng cho cụ B, ông
T, bà H và bà T1 đối với nhiều thửa đất, trong đó có thửa 52 đang tranh chấp. Các
thửa đất khác các bên đã thực hiện xong, riêng thửa đất số 52 do mâu thuẫn
trong gia đình nên M không đồng ý tiếp tục thực hiện nên phát sinh tranh chấp.
Xét hợp đồng tặng cho ngày 10/9/2010 đảm bảo vhình thức là được lập thành
văn bản, chứng thực. Về hiệu lực của hợp đồng tặng cho bất động sản, theo
quy định tại Điều 467, 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hợp đồng chưa phát
sinh hiệu lực. Tuy nhiên, Hợp đồng tặng cho đã được thực hiện một phần, chỉ còn
phần đất tại thửa 52 chưa thực hiện. Do hợp đồng chưa có hiệu lực, M thay đổi
không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, do đó không có căn cứ chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của các nguyên đơn. vậy, kháng cáo của các nguyên đơn yêu cầu
công nhận hợp đồng tặng cho hiệu lực không sở chấp nhận. Đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp
nhận kháng cáo của các nguyên đơn, giữ nguyên bảnán sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểmt, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Sau khi xét xử thẩm, ngày 22/4/2024 nguyên đơn ông Nguyễn Văn
T, bà Nguyễn Thị T1 và bà Nguyễn Thị Bé H nộp đơn kháng cáo đúng quy định
tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem là hợp lệ và
chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
6
[1.2] Tòa án triệu tập hợp lệ các đương sự để tham dự phiên tòa được mở
lần thứ hai, nhưng vắng mặt Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang, cóyêu
cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn
tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Về nội dung:
[2.1] Đối với kháng cáo yêu cầu công nhận “Bảng hợp đồng V/v đồng ý
thỏa thuận tặng cho tiền và đất” ngày 10/9/2010.
[2.1.1] Về nguồn gốc đất, các đương sự thống nhất cha mẹ là ông Nguyễn
Văn A (chết ngày 22/6/2010) bà Đoàn Thị B (chết ngày 03/10/2021) tổng
cộng 04 người con chung gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị
H Nguyễn Thị M. Sinh thời cụ A cB tạo lập được phần đất diện tích
22.735 m
2
tại các thửa 295, 52, 57, 74, 75, 76, tờ bản đồ số 01, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 001092, Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 16/11/1991 do
cụ Nguyễn Văn A đứng tên chủ sử dụng. Ngày 22/5/1999, cụ A cụ B đã chuyển
nhượng 3.790m
2
thửa 295 cho ông Hoàng Văn N nên diện tích đất còn lại
18.945m
2
gồm các thửa 52, 57, 74, 75, 76.
[2.1.2] Các nguyên đơn cho rằng sau khi cụ A qua đời thì cụ Ba cùng các
nguyên đơn đã thống nhất để lại cho bà M đại diện đứng tên toàn bộ diện tích đất,
trong đó phần đất đang tranh chấp tại thửa 52 nhưng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh việc M chỉ đại diện đứng tên trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Trong khi đó, căn cứ vào Hợptặng cho quyền sử dụng đất ngày
14/4/2008 (bút lục 154) thể hiện cụ A t cho bà M phần đất diện tích 18.945m
2
có
chữ thống nhất của các thành viên trong gia đình gồm cụ B, ông T, H,
T1, đến ngày 29/4/2008 M được chỉnh biến động đứng tên quyền sử dụng
đất. Do đó, việc tặng cho được thực hiện từ khi cụ A còn sống và được các thành
viên trong gia đình đồng ý nên phần đất được tặng cho là tài sản riêng của bà M,
không phải di sản thừa kế hay tài sản chung của hộ gia đình. M được toàn
quyền định đoạt đối với tổng diện tích đất ông A đã tặng cho.
[2.1.3] Ngày 10/9/2010, bà M cùng cụ B, ông T, bà H, T1 đến Ủy ban
nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang đchứng thực “Bảng hợp đồng v/v đồng
ý thỏa thuận tặng cho tiền đất” phần đất bị ảnh hưởng quy hoạch đxây
dựng Trung tâm ĐiệnSông Hậu. Theo Hợpđồng này, những người được tặng cho
được hưởng quyền lợi nsau: khi lãnh tiền lần thứ nhất, M giao cho cụ B
500.000.000 đồng; khi lãnh tiền lần thứ hai, M chia cho cụ B được hưởng
852m² tại thửa số 52, ông T được hưởng tổng cộng 5.200 (gồm thửa 75 diện
tích 2.033 m² và thửa 76 diện tích 3.167m²), bà H và T1 hưởng chung 895m²
7
thửa 52 và 2.808m² thửa 76. Ngày 04/10/2011, Nhà nước thu hồi đất hết thửa 57,
74, 75, 76, chỉ còn lại thửa 52, diện tích theo Giấy chứng nhận là 1.790m
2
.
[2.1.4] Đến năm 2021, thửa 52 cũng bị thu hồi để làm Nhà máy N2. Theo
Công văn số 2912/TTPTQĐ-BT&GPMB ngày 13/02/2024 của Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang (bút lục 147), Quyết định số 5102/QĐ-UBND ngày
29/11/2021 vviệc thu hồi đất để thực hiện dán: Nhà máy N2, Quyết định số
5114/QĐ-UBND ngày 29/11/2021 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định dán: Nhà máy N2 Quyết định s5320/-UBND ngày
10/12/2021 về việc hủy kết quả phê duyệt bồi thường đất tái định và điều
chỉnh kinh phí trường hợp Nguyễn Thị M (STT: 03) được phê duyệt kèm theo
Quyết định số 5114/QĐ-UBND ngày 29/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C,
tỉnh Hậu Giang thì thửa 52 bị thu hồi với tổng diện tích 2.344,2m
2
(do đất thực tế
nhiều hơn so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) với số tiền M được nhận
bồi thường là 1.670.268.200 đồng.
[2.1.5] Xét thấy, Hợp đồng tặng cho tiền đất ngày 10/9/2010 được lập
thành văn bản được Ủy ban nhân dân P (nay thị trấn M), huyện C, tỉnh
Hậu Giang chứng thực nên đảm bảo về hình thức theo quy định. Sau khi kết
Hợpnày, các nên đã thực hiện được một phần hợp đồng tại các thửa đất số 57, 74,
75, 76. Còn thửa đất số 52 các bên chưa thực hiện. Ngày 29/11/2021, Ủy ban nhân
dân huyện C, tỉnh Hậu Giang ban hành Quyết định số 5102/QĐ-UBND thu hồi
thửa đất số 52, theo Quyết định số 5114/QĐ-UBND ngày 29/11/2021 Quyết
định số 5320/QĐ-UBND ngày 10/12/2021 của UBND huyện C, tỉnh Hậu Giang
thì số tiền bà M được bồi thường là 1.670.268.200 đồng. Tuy nhiên, bà M không
đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng với do anh em trong gia đình không còn
thuận hòa nữa, mặc dù ngày 10/9/2010 có ký Hợpđồng tặng cho.
[2.1.6] Tại thời điểm kết Hợptặng cho ngày 10/9/2010 thời điểm
UBND huyện C ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, htrợ tái định thì M chủ sử dụng đối với thửa đất số
52. Thửa đất này chưa được chuyển giao cho cụ B cũng như bà Nguyễn Thị Bé H
và bà Nguyễn Thị T1. Căn cứ Điều 467 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 459
của Bộ luật Dân sự 2015) quy định về tặng cho bất động sản: 1. Tặng cho bất
động sản phải được lập thành văn bản công chứng, chứng thực hoặc phải đăng
ký, nếu bất động sản phải đăng quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. 2.
Hợp đồng tặng cho bất động sản hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể
từ thời điểm chuyển giao tài sản”; Điều 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định về hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất như sau: “Việc chuyển quyền
8
sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai”.
[2.1.7] Như vậy, mặc các bên kết hợp đồng tặng cho quyền s
dụng đất đảm bảo về hình thức, tuy nhiên Hợpđồng tặng cho ngày 10/9/2010 chưa
đăng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, đối với thửa
đất số 52 bên được tặng cho chưa nhận phần đất, cũng chưa nhận được tiền bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nên không đủ điều kiện để công nhận hợp đồng
hiệu lực. Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các
nguyên đơn là có căn cứ pháp luật.
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T và bà T1 cho rằng ngoài Hợptặng cho
ngày 10/9/2010, còn Tờ cam kết của M, xác nhận của những người làm
chứng về việc bà M thừa nhận có ký hợp đồng tặng cho, ngoài ra còn có đoạn ghi
âm ghi lại lời trình bày của bà M vẫn đồng ý tiếp tục thực hiện theo hợp đồng tặng
cho nhưng sau đó M không tiếp tục thực hiện. Hội đồng xét xử xét thấy, quá
trình giải quyết vụ án M cũng như đại diện của M vẫn thừa nhận có ký kết
Hợptặng cho ngày 10/9/2010, nhưng do không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp
đồng là do anh chị em trong gia đình có mâu thuẫn, không còn hòa thuận nữa nên
không đồng ý thực hiện nội dung ca hợp đồng. Về vấn đề này, như đã nhận định
tại mục [2.1.6] và [2.1.7] thì việc tặng cho chưa được đăng ký theo quy định của
pháp luật đấtđai n chưa phát sinh hiệu lực, nên không căn cứ ràng buộc quyền
và nghĩa vụ của các bên.
[3] Từ những nhận định trên, xét thấy các nguyên đơn Nguyễn Văn T,
Nguyễn Thị T1 Nguyễn Thị H kháng cáo yêu cầu công nhận Hợpđồng tặng
cho tiền đất ngày 10/9/2010, nhưng không cung cấp được tình tiết, chứng cứ
giá trị chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn. Tuy nhiên, Hợp đồng thỏa thuận
tặng cho tiền đất ngày 10/9/2010 chỉ hiệu đối với thửa đất số 52, không
thuộc trường hợp hủy hợp đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy toàn bộ hợp
đồng tặng cho vượt quá phạm vi xét xử về đối tượng tranh chấp đối với các
thửa đất khác và áp dụng không đúng pháp luật. Vì vậy, cần sửa một phần bản án
sơ thẩm để điều chỉnh lại cho phù hợp.
[4] Ngoài ra, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng tặng
cho hiệu lực để được nhận giá trị tài sản và chia thừa kế giá trị tài sản được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nhưng không được chấp nhận. Căn cứ điểm a
khoản 3, khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì các nguyên đơn mỗi người chỉ
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch với số tiền là 300.000 đồng.
Tòa án cấp thẩm buộc các nguyên đơn chịu án phí có giá ngạch là không đúng,
đồng thời H đơn xin miễn án phí với do người cao tuổi nên căn cứ Điều
9
12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì H được miễn án phí, vậy cần
sửa án thẩm để điều chỉnh lại. Tòa án cấp thẩm cần nghiêm túc t kinh
nghiệm.
[5] Đề nghcủa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc
không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, căn
cứ Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T1 mỗi người phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm với số tiền là 300.000 đồng. Đối với bà Nguyễn Thị Bé H là người cao
tuổi, có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí theo quy định tại Điều 12 của
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
đã có hiệu lực pháp luật nên không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn Nguyễn Văn T, Nguyễn
Thị T1Nguyễn Thị Bé H.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 09 tháng 4
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Áp dụng: Các Điều 467, 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005; các Điều 459,
688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 167 188 của Luật Đất đai
năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Nguyễn Văn T,
Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Bé H về việc yêu cầu công nhận hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất và chia di sản thừa kế đối với phần đất tại thửa số 52.
Hợp đồng đồng thoả thuận tặng cho tiền đất ngày 10/9/2010 được
kết giữa bà Nguyễn Thị M và cụ Đoàn Thị B, ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị
T1, bà Nguyễn Thị Bé H bị vô hiệu đối với thửa đất số 52 .
Nguyễn Thị M được liên hệ cơ quan có thẩm quyền để nhận số tiền bồi
thường, hỗ trợ là 1.670.268.200 đồng.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không
giá ngạch, khấu trừ số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp 11.675.900 đồng
theo Biên lai thu số 0010384 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự
10
huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Ông T được nhận lại stiền chênh lệch
11.385.900 đồng.
- Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không
giá ngạch, khấu trừ số tiền tạm ứng án phí T1 đã nộp là 11.675.900 đồng
theo Biên lai thu số 0010383 ngày 06/5/2022 11.461.000 đồng theo Biên lai
thu số 0010640 ngày 30/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu
Thành, tỉnh Hậu Giang. T1 được nhận lại số tiền chênh lệch 22.836.900
đồng.
- Bà Nguyễn Thị Bé H được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Bà H được nhận
lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.675.900 đồng theo Biên lai thu số 0010385
ngày 06/5/2022 11.461.000 đồng theo Biên lai số 0010641 ngày 30/9/2022 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
- Nguyễn Thị M được nhận lại số tiền tạm ứng án phí H đã nộp
5.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0011241 ngày 10/7/2023 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị T1 mỗi
người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm với số tiền là 300.000 đồng. Chuyển số
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm ông T T1 đã nộp 300.000 đồng theo Biênsố
0002973 và 0002974 ngày 22/4/2024 của C cụcThi hành án dân sự huyện C, tỉnh
Hậu Giang thành án phí phúc thẩm.
Nguyễn Thị Bé H được miễn án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- TAND huyện Long Mỹ;
- Chi cc THADS huyện Long
Mỹ;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Hồng Thanh
11
Tải về
Bản án số 178/2024/DS-PT Bản án số 178/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 178/2024/DS-PT Bản án số 178/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất