Bản án số 58/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 58/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 58/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 58/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 58/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 58/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh H. - Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phán: Ông Phan Thanh Tòng
Ông Nguyễn Thế Hồng
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Yến Mai - Thẩm tra viên chính Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre: Bà Nguyễn Thị Minh
Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án đã thụ lý số: 368/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 10
năm 2024 về việc
“
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp
đồng ủy quyền”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4258/2024/QĐ-PT ngày
30 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Lữ Văn C, sinh năm 1974;
1.2. Bà Phan Thị Hồng L, sinh năm 1977;
Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị D, sinh năm
1997. Địa chỉ: Số 118E3, đường số 3, khu dân cư M, khu phố T, phường A, thành
phố T, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị
M - Luật sư thuộc Công ty Luật Luật sư M và Cộng sự - Chi nhánh T thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 58/2025/DS-PT
Ngày: 21/01/2025
V/v “
Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và hợp đồng ủy quyền”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1969; (có mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã C, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
Địa chỉ liên hệ: Số 10/30 đường T, khu phố 2, phường B, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Phạm Thanh H, sinh năm: 1972;
Địa chỉ: Số 54 khu phố 2, phường An Hội, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Thanh H: Chị Lê Thị Cẩm T,
sinh năm 1995. Địa chỉ: Số 187/1 ấp A, xã T, huyện P, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
3.2. Anh Lữ Phan Thanh T, sinh năm 1998;
Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của anh Lữ Phan Thanh T: Chị Huỳnh Thị
D, sinh năm 1997. Địa chỉ: Số 118E3, đường số 3, khu dân cư M, khu phố T,
phường A, thành phố T tỉnh Bến Tre. (có mặt)
* Người kháng cáo: Ông Phạm Thanh H là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện ngày 20/6/2023 và các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
chị Huỳnh Thị D trình bày:
Ngày 17/11/2022, ông C và bà L có vay của ông V số tiền 100.000.000
đồng, lãi suất là 4%/tháng, thời hạn vay là 01 năm, đến ngày 17/11/2023 là đến hạn
trả nợ. Ông C, bà L có ký hợp đồng ủy quyền ngày 17/11/2022 cho ông V đối với
thửa đất số 25 (13), tọa lạc tại ấp Đ, T, huyện B, tỉnh Bến Tre để làm tin. Nội dung
hợp đồng ủy quyền này có nhiều nội dung thể hiện tại Điều 1 của hợp đồng, trong
đó có nội dung: ông V được quyền ký tên trên các hợp đồng đặt cọc, chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ… Tuy nhiên, hai bên
thống nhất chỉ ký hợp đồng ủy quyền này để đảm bảo khoản vay nêu trên, như vậy
thực chất hợp đồng ủy quyền này là hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo khoản
vay 100.000.000 đồng mà ông C, bà L vay của ông V. Trên đất còn có 01 căn nhà
cấp 4 của ông C, bà L là nơi ở duy nhất của ông C, bà L nên hai bên thống nhất
ông V không được lợi dụng hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng
đất này cho bất kỳ ai. Thỏa thuận này chỉ thỏa thuận miệng không làm giấy tờ.
Ngoài ra, ông C, bà L còn ký tên “Văn bản thỏa thuận” ngày 17/11/2022 để
xác nhận đã nhận số tiền 100.000.000 đồng nhưng thực tế là nhận 90.000.000 đồng
vì trừ 6.000.000 đồng tiền phí dịch vụ môi giới và 4.000.000 đồng tiền lãi tháng
3
đầu tiên. Từ tháng 12/2022 đến tháng 5/2023, ông Lữ Phan Thanh T là con của ông
C, bà L, có trả thêm cho ông V 24.500.000 đồng tiền lãi thông qua việc chuyển
khoản vào tài khoản số 7409205164108 mang tên Nguyễn Văn V mở tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; tổng số tiền lãi đã đóng là
28.500.000 đồng. Đầu tháng 5/2023, ông C, bà L liên hệ với ông V để trả lại tiền
vay và hủy hợp đồng ủy quyền đã ký, ông V hẹn ngày 20/6/2023 sẽ đến Văn
phòng Công chứng Nguyễn Nữ Hoàng O để ký hủy hợp đồng ủy quyền nêu trên;
nhưng ngày 18/6/2023, anh T liên hệ lại với ông V để nhắc ngày hẹn ký hủy hợp
đồng ủy quyền thì ông V từ chối không đến. Hơn nữa, ông C, bà L được biết ông V
đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 25 (13) nêu trên cho ông Phạm Thanh
H và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do ông V biết việc ủy quyền này chỉ để làm tin cho khoản vay nhưng cố ý
chuyển nhượng cho người khác làm ông C, bà L phải khởi kiện vụ án nên ông C,
bà L không đồng ý trả lãi tiếp cho ông V như đã thỏa thuận và yêu cầu ngưng tính
lãi từ thời điểm khởi kiện là ngày 20/6/2023. Đồng thời, lãi suất hai bên thỏa thuận
vượt mức quy định nên ông C, bà L yêu cầu xác định lại lãi suất là 10%/năm tương
đương với 0,83%/tháng. Tổng tiền lãi mà ông C, bà L phải trả theo mức lãi suất
0,83%/tháng từ ngày 17/11/2022 đến ngày 17/6/2023 là 100.000.000 đồng x 07
tháng x 0,83%/tháng = 5.810.000 đồng. Tiền lãi còn dư là 28.500.000 đồng –
5.810.000 đồng = 22.690.000 đồng, yêu cầu trừ vào số tiền nợ gốc đã vay. Ông C,
bà L sẽ trả lại số tiền 77.310.000 đồng, không đồng ý tiếp tục tính lãi nữa cho đến
khi trả xong.
Nay ông C, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng ủy quyền số
công chứng 66, quyển số 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 17/11/2022 tại Văn
phòng Công chứng Nguyễn Nữ Hoàng O giữa Lữ Văn C và Phan Thị Hồng L với
Nguyễn Văn V vô hiệu. Tuyên bố “Văn bản thỏa thuận” ngày 17/11/2022 giữa Lữ
Văn C và Phan Thị Hồng L với Nguyễn Văn V bị vô hiệu. Chấm dứt hợp đồng vay
giữa Lữ Văn C và Phan Thị Hồng L với Nguyễn Văn V. Yêu cầu không tính lãi
đối với số tiền vay từ ngày 19/6/2023 và số tiền lãi còn dư là 22.690.000 đồng trừ
vào số tiền đã vay. Ông C, bà L sẽ trả lại số tiền 77.310.000 đồng. Yêu cầu tuyên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 25, tờ bản đồ số
13, địa chỉ ấp Tích Đức, xã Khánh Thạnh Tân, huyện B, tỉnh Bến Tre giữa ông
Nguyễn Văn V với ông Phạm Thanh H bị vô hiệu. Kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số DK 733968 từ ông Phạm Thanh H sang cho ông C, bà
L.
Ngoài ra, do ông V có ký “Văn bản thỏa thuận” ngày 22/11/2022 với ông
4
Phạm Thanh H với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của ông C, bà L về việc
lưu cư sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 25 (13), tọa lạc tại ấp
Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Ông C, bà L không có ủy quyền cho ông V ký
thỏa thuận về việc lưu cư trên đất với ông H. Việc ông V tự ký thỏa thuận tại “Văn
bản thỏa thuận” ngày 22/11/2022 với ông H ông C, bà L không biết và cũng không
đồng ý với thỏa thuận này nên yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản này bị vô hiệu.
* Tại đơn yêu cầu phản tố ngày 10/6/2024 và các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Văn V trình bày:
Những lời trình bày nêu trên của chị D đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn là đúng. Ông V đồng ý với yêu cầu của ông C, bà L là tuyên bố hợp đồng ủy
quyền số công chứng 66, quyển số 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày
17/11/2022 tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Nữ Hoàng O giữa Lữ Văn C và
Phan Thị Hồng L với ông V; Văn bản thỏa thuận ngày 17/11/2022 giữa Lữ Văn C
và Phan Thị Hồng L với ông V; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13, địa chỉ ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre giữa
ông V với ông Phạm Thanh H bị vô hiệu.
Ông V đồng ý chấm dứt hợp đồng vay với ông C và bà L. Ông C, bà L yêu
cầu không tính lãi đối với số tiền vay từ ngày 19/6/2023 và số tiền lãi còn dư là
22.690.000 đồng trừ vào số tiền đã vay. Ông C, bà L sẽ trả lại cho ông V số tiền
77.310.000 đồng, ông đồng ý.
Ông V đồng ý kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DK
733968 từ ông Phạm Thanh H sang cho ông C, bà L.
Tại “Đơn yêu cầu phản tố” ngày 10/6/2024, ông V có yêu cầu ông C và bà L
trả cho ông số tiền vay là 100.000.000 đồng và yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất
1,66%/tháng, thời gian tính lãi từ tháng 7/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm, tạm tính
đến tháng 6/2024 là 11 tháng, thành tiền là 18.260.000 đồng. Tổng cộng số tiền
ông V yêu cầu ông C, bà L pH trả cho ông theo yêu cầu phản tố là 118.260.000
đồng. Tuy nhiên, nay ông V yêu cầu ông C, bà L trả cho ông số tiền 77.310.000
đồng, không yêu cầu tính lãi như đã nêu trên.
Tại “Biên bản lấy lời khai của đương sự” ngày 07/6/2024 của Tòa án nhân
dân huyện B, ông V có trình bày nguồn gốc của số tiền 100.000.000 đồng mà ông
cho ông C, bà L vay là của chị Ngô Thanh T; chị T nhờ ông đứng tên hợp đồng ủy
quyền dùm cho chị Tuyền nhưng không có chứng cứ gì. Số tiền 100.000.000 đồng
này ông V là người giao cho ông C, bà L vay. Việc cho vay tiền nêu trên là việc
vay mượn giữa ông với ông C, bà L, không có liên quan gì đến chị T. Đối với số
tiền 100.000.000 đồng mà ông nhận của chị T để cho ông C, bà L vay ông sẽ tự
5
giải quyết với chị T, chị T không có liên quan gì trong vụ kiện này.
* Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 25/6/2024 và các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Phạm Thanh H trình bày:
Ngày 22/11/2022, ông có nhận chuyển nhượng thửa đất số 25 (13), tọa lạc
tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre do ông V đại diện cho ông C, bà L ký hợp
đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho ông với số tiền là 700.000.000 đồng. Ông
đã giao số tiền cho ông Nguyễn Hoàng P. Ông P đã giao số tiền này cho ông V.
Trước khi mua phần đất này, ông H có đến đất đang tranh chấp để coi đất nhưng
không có ai ở nhà. Ông P và ông V cho rằng chủ đất đi làm ăn xa không đến Văn
phòng Công chứng ký chuyển nhượng nên ủy quyền cho người ủy quyền ký
chuyển nhượng cho ông. Hiện nay, ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng thửa đất 25 (13) vào ngày 14/4/2023. Đất này ông chưa vào canh tác, quản lý
ngày nào do có thỏa thuận cho lưu cư. Sau đó, do có giấy tờ giả của thửa đất khác
ông đứng tên nên ông đến thửa đất đang tranh chấp hỏi sự việc, bà L xác nhận bà L
cầm đất thửa 25 (13) cho ông V chứ không sang nhượng.
Nay ông H yêu cầu Tòa án giải quyết ông C, bà L và ông V có trách nhiệm
liên đới trả cho ông số tiền 700.000.000 đồng tiền chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thửa đất số 25 (13) ông H đã giao cho ông V. Ngoài ra, ông V, ông C, bà L có
trách nhiệm liên đới trả cho ông tiền phí lưu cư trên đất là 28.000.000 đồng/tháng,
thời gian tính phí lưu cư từ ngày ký hợp đồng là ngày 22/11/2022 đến ngày
22/6/2024 là 18 tháng x 28.000.000 đồng = 404.000.000 đồng. Ông yêu cầu trả số
tiền lưu cư nêu trên từ ngày 22/11/2022 đến ngày 22/6/2024, sau ngày 22/6/2024
không yêu cầu giải quyết.
Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông V, ông C, bà L tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất thửa 25 (13), không yêu cầu giao
thửa đất số 25 (13) cho ông.
Ông C, bà L không có nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất nêu
trên của ông.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Lữ Phan Thanh T là chị Huỳnh Thị D trình bày:
Từ tháng 12/2022 đến tháng 5/2023, anh T là con của ông C, bà L có trả cho
ông V 24.500.000 đồng tiền lãi thông qua việc chuyển khoản vào tài khoản số
7409205164108 mang tên Nguyễn Văn V mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam. Số tiền này là tiền của ông C, bà L đóng lãi cho ông V,
anh Tâm đóng thay. Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết ông C, bà L phải trả
lại cho anh số tiền lãi anh Tâm đã đóng cho ông V.
6
Do hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre đưa vụ
án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L.
2. Chấp nhận nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn V.
- Tuyên bố: hợp đồng ủy quyền giữa ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L
với ông Nguyễn Văn V được công chứng ngày 17/11/2022 và văn bản thòa thuận
ngày 17/11/2022 về việc lưu cư sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng
L ủy quyền cho ông Nguyễn Văn V chuyển nhượng thửa đất số 25 (13), tọa lạc tại
ấp Tích Đức, xã Khánh Thạnh Tân, huyện B, tỉnh Bến Tre cho ông Phạm Thanh H
được công chứng ngày 22/11/2022 và văn bản thoả thuận ngày 22/11/2022 bị vô
hiệu.
- Ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L có trách nhiệm liên đới trả cho ông
Nguyễn Văn V số tiền vay là 77.310.000 đồng.
Ghi nhận ông Nguyễn Văn V không yêu cầu tính lãi cho đến khi ông Lữ
Văn C và bà Phan Thị Hồng L trả xong nợ.
Ghi nhận ông Nguyễn Văn V không yêu cầu ông Lữ Văn C, bà Phan Thị
Hồng L phải trả cho ông Nguyễn Văn V số tiển 118.260.000 đồng theo yêu cầu
phản tố.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu ông
Nguyễn Văn V trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tiền phí lưu cư trên
thửa đất số 25(13), tọa lạc tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre; không chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu ông Lữ Văn C và bà Phan
Thị Hồng L có trách nhiệm liên đới cùng với ông Nguyễn Văn V trả tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tiền phí lưu cư trên thửa đất số 25 (13), tọa lạc tại ấp
Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm trả cho ông Phạm Thanh H tổng số tiền
1.104.000.000 đồng; trong đó: 700.000.000 đồng là tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 25 (13); 404.000.000 đồng là tiền phí lưu cư trên đất.
Ghi nhận ông Phạm Thanh H không yêu cầu ông Nguyễn Văn V, ông Lữ
Văn C và bà Phan Thị Hồng L giao thửa đất số 25 (13) cho ông Phạm Thanh H.
- Kiến nghị điều chỉnh quyền sử dụng thửa đất số 25 (13), tọa lạc tại ấp Đ,
xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre từ ông Phạm Thanh H sang ông Lữ Văn C và bà Phan
Thị Hồng L.
4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án
7
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của
pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền yêu cầu
thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11/9/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh H
có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của
Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu độc lập của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chị Lê Thị Cẩm T trình bày:
Ông H kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông H,
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của ông là buộc
ông C, bà L và ông V có trách nhiệm liên đới trả cho ông số tiền 700.000.000 đồng
là tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13 và tiền
phí lưu cư trên đất với số tiền là 404.000.000 đồng từ ngày 22/11/2022 đến ngày
22/6/2024.
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (anh Lữ Phan Thanh T) chị Huỳnh Thị D trình bày:
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông H, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn V trình bày:
Ông đồng ý trả cho ông H tổng cộng số tiền 1.104.000.000 đồng gồm
700.000.000 đồng là tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 25, tờ bản
đồ số 13 và phí lưu cư trên đất với số tiền là 404.000.000 đồng.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh H, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
68/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Phạm Thanh H và đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát
8
nhân dân tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng ủy quyền giữa ông C, bà L với ông V lập ngày
17/11/2022; văn bản thỏa thuận lập ngày 17/11/2022 giữa ông C, bà L với ông V;
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 25, tờ bản đồ số
13, tọa lạc tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre lập ngày 22/11/2022 giữa ông V
(đại diện cho ông C, bà L) với H và văn bản thỏa thuận lập ngày 22/11/2022 giữa
ông V với ông H là vô hiệu; đồng thời, ông C, bà L yêu cầu chấm dứt hợp đồng
vay giữa ông, bà với ông V và ông, bà đồng ý trả lại cho ông V số tiền 77.310.000
đồng sau khi tính lại tiền lãi mà ông, bà đã trả dư cho ông V là 22.690.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông V đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc ông C, bà L và ông V có trách nhiệm liên đới trả cho ông số tiền
700.000.000 đồng là tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 25, tờ bản
đồ số 13 mà ông H đã giao cho ông V và tiền phí lưu cư trên đất với tổng số tiền là
404.000.000 đồng tính từ ngày 22/11/2022 đến ngày 22/6/2024. Sau khi xét xử sơ
thẩm, nguyên đơn và bị đơn không có kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông H kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu
độc lập của ông.
[2] Xét thấy, ngày 17/11/2022, nguyên đơn ông C, bà L lập “Hợp đồng ủy
quyền” cho ông V, trong đó có nội dung: ông V được quyền ký tên trên các hợp
đồng đặt cọc, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ...
thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13, diện tích 3066,7m
2
, tọa lạc tại ấp Đ, xã T, huyện B,
tỉnh Bến Tre. Cùng ngày 17/11/2022, giữa ông C, bà L với ông V có lập “Văn bản
thỏa thuận” về việc ông V đã nhận chuyển nhượng đất của ông C, bà L bằng hình
thức ủy quyền toàn quyền đối với thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13 với giá chuyển
nhượng là 100.000.000 đồng và cho ông C, bà L được lưu trú, cư ngụ trên đất thời
gian là 01 năm tính từ ngày 17/11/2022 và nếu ông C, bà L không trả phí lưu trú,
cư ngụ liên tiếp 03 tháng thì ông V được quyền thực hiện thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nêu trên.
Ông C, bà L cho rằng việc ông, bà cùng với ông V lập “Hợp đồng ủy quyền”
và “Văn bản thỏa thuận” cùng ngày 17/11/2022 là để đảm bảo khoản tiền vay
100.000.000 đồng mà ông, bà đã vay của ông V. Phía nguyên đơn có cung cấp
Giấy nộp tiền và Sao kê tài khoản của anh Lữ Phan Thanh T (là con của ông C, bà
L) để chứng minh giữa phía nguyên đơn và ông V có quan hệ vay mượn tiền và
thực tế phía nguyên đơn đã đóng tiền lãi cho ông V kể từ khi các bên ký kết “Hợp

9
đồng ủy quyền” và “Văn bản thỏa thuận” cùng ngày 17/11/2022 đến ngày
18/5/2023. Quá trình giải quyết vụ án, ông V cũng thừa nhận những lời trình bày
của phía nguyên đơn và đồng ý với yêu cầu cấn trừ tiền lãi mà nguyên đơn đã trả
vượt cho ông vào tiền nợ gốc 100.000.000 đồng. Do đó, có cở sở xác định “Hợp
đồng ủy quyền” và “Văn bản thỏa thuận” giữa ông C, bà L với ông V lập cùng
ngày 17/11/2022 tuy được đảm bảo về hình thức theo quy định pháp luật nhưng
các giao dịch dân sự này là giả tạo nhằm che đậy việc vay mượn tiền giữa ông C,
bà L với ông V nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên “Hợp đồng ủy quyền”và “Văn bản
thoả thuận” lập ngày 17/11/2022 giữa ông C và bà L với ông V vô hiệu là có căn
cứ.
[3] Ngày 22/11/2022, ông V đại diện ông C, bà L ký “Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” với ông H. Ngày 14/4/2023, ông H được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa
đất 25, tờ bản đồ số 13. Trên thửa đất này có tồn tại căn nhà tọa lạc trên đất và
công trình kiến trúc, cây trồng trên đất của ông C, bà L nhưng trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/11/2022 thì ông V và ông H không có
ghi nhận việc các bên có thỏa thuận chuyển nhượng các tài sản này, trong khi đó
ông C, bà L là người đang quản lý, sử dụng đất cùng các tài sản trên đất và ông, bà
cũng không đồng ý di dời nhà, công trình kiến trúc trên đất để giao đất cho ông H
nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/11/2022 giữa ông V (đại
diện cho ông C, bà L) với H vô hiệu do có đối tượng không thực hiện được. Quá
trình giải quyết vụ án, ông H không yêu cầu ông V, ông C và bà L giao thửa đất số
25, tờ bản đồ số 13 cho ông H, tuy nhiên ông H yêu cầu ông C, bà L và ông V có
trách nhiệm liên đới trả cho ông số tiền 700.000.000 đồng là tiền chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13 và phí lưu cư trên đất từ ngày
22/11/2022 đến ngày 22/6/2024 số tiền 404.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét
thấy, mặc dù ông C, bà L không biết ông V đã chuyển nhượng đất cho ông H và
ông C, bà L cũng không tham gia vào việc nhận số tiền chuyển nhượng đất giữa
ông V với ông H nhưng việc ông V chuyển nhượng đất cho ông H là trên cơ sở ủy
quyền của ông C, bà L; ông H cũng không biết việc vay mượn tiền giữa ông C, bà
L với ông V nên ông C, bà L vẫn pH chịu trách nhiệm đối với việc ký kết hợp
đồng ủy quyền với ông V. Ông V thừa nhận đã nhận số tiền chuyển nhượng
700.000.000 đồng của ông H, vì vậy ông C, bà L phải có trách nhiệm liên đới cùng
ông V trả cho ông H số tiền này. Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông C, bà L, ông
V cùng liên đới trả cho ông H số tiền 700.000.000 đồng là chưa phù hợp. Do đó,
kháng cáo của ông H đối với nội dung này là có căn cứ nên được chấp nhận.
[4] Đối với việc ông H yêu cầu ông C, bà L có trách nhiệm liên đới cùng

10
ông V trả số tiền 404.000.000 đồng là phí lưu cư từ ngày 22/11/2022 đến ngày
22/6/2024 (18 tháng x 28.000.0000 đồng/tháng). Xét thấy, theo nội dung thỏa
thuận giữa ông C, bà L với ông V tại “Hợp đồng ủy quyền” và “Văn bản thỏa
thuận” cùng ngày 17/11/2022 thì không có nội dung ông C, bà L ủy quyền cho ông
V được quyền thỏa thuận về việc lưu cư và phí lưu cư trên đất với người khác, do
đó khi ông V ký với ông H “Văn bản thỏa thuận” ngày 22/11/2022 là vượt quá
phạm vi ủy quyền. Ông C, bà L không biết thỏa thuận giữa ông V với ông H và
cũng không đồng ý với thỏa thuận này, đồng thời do ông V đồng ý trả số tiền
404.000.000 đồng cho ông H nên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc ông V có trách
nhiệm trả lại cho ông H với số tiền là 404.000.000 đồng là có căn cứ. Ông H kháng
cáo nội dung này nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không
được chấp nhận.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre có một
phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
[6] Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông H, sửa một phần Bản
án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
B, tỉnh Bến Tre.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần
nên ông H không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuyên xử:
- Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Phạm Thanh H.
- Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 29/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre. Cụ thể:
Áp dụng Điều 124, 500, 569 Bộ luật Dân sự; Điều 167 Luật Đất đai; Điều
26 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L.
2. Chấp nhận nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn V.
- Tuyên bố: hợp đồng ủy quyền giữa ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L
với ông Nguyễn Văn V được công chứng ngày 17/11/2022 và văn bản thoả thuận

11
ngày 17/11/2022 về việc lưu cư sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng
L ủy quyền cho ông Nguyễn Văn V chuyển nhượng thửa đất số 25, tờ bản đồ số
13, tọa lạc tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre cho ông Phạm Thanh H được
công chứng ngày 22/11/2022 và văn bản thoả thuận ngày 22/11/2022 bị vô hiệu.
- Ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L có trách nhiệm liên đới trả cho ông
Nguyễn Văn V số tiền vay là 77.310.000đ (Bảy mươi bảy triệu ba trăm mười nghìn
đồng).
Ghi nhận ông Nguyễn Văn V không yêu cầu tính lãi cho đến khi ông Lữ Văn
C và bà Phan Thị Hồng L trả xong nợ.
Ghi nhận ông Nguyễn Văn V không yêu cầu ông Lữ Văn C, bà Phan Thị
Hồng L pH trả cho ông Nguyễn Văn V số tiển 118.260.000đ (Một trăm mười tám
triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng) theo yêu cầu phản tố.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu ông
Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L có trách nhiệm liên đới cùng với ông Nguyễn
Văn V trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13,
tọa lạc tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre với số tiền là 700.000.000đ (Bảy trăm
triệu đồng).
Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu ông
Nguyễn Văn V trả tiền phí lưu cư trên thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp
Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre với số tiền 404.000.000đ (Bốn trăm lẻ bốn triệu
đồng). Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu
ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L có trách nhiệm liên đới cùng với ông
Nguyễn Văn V trả tiền tiền phí lưu cư trên thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13, tọa lạc
tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ghi nhận ông Phạm Thanh H không yêu cầu ông Nguyễn Văn V, ông Lữ
Văn C và bà Phan Thị Hồng L giao thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13 cho ông Phạm
Thanh H.
Kiến nghị điều chỉnh quyền sử dụng thửa đất số 25, tờ bản đồ số 13, tọa lạc
tại ấp Đ, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre từ ông Phạm Thanh H sang ông Lữ Văn C và
bà Phan Thị Hồng L sau khi đương sự thực hiện xong nghĩa vụ theo bản án đã tuyên
theo quy định của pháp luật.
4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của
pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

12
5. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn V phải chịu chi phí tố tụng số tiền là
10.693.000đ (Mười triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn đồng). Ông C, bà L đã nộp
đủ toàn bộ số tiền trên nên ông V phải hoàn trả lại cho ông C, bà L số tiền là
10.693.000đ (Mười triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn đồng).
6. Về án phí:
6.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Phạm Thanh H phải chịu án phí không có giá ngạch số tiền là
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí theo biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002917 ngày 05/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre. Hoàn trả cho ông Phạm Thanh H số tiền tạm
ứng án phí là 15.700.000đ (Mười lăm triệu bảy trăm nghìn đồng) theo biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004405 ngày 29/8/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Ông Lữ Văn C và bà Phan Thị Hồng L phải có trách nhiệm liên đới chịu án
phí số tiền là 4.156.000đ (Bốn triệu một trăm năm mươi sáu nghìn đồng) nhưng
được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng) theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005389, 0005390 ngày 10/10/2023 và
0002947 ngày 22/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ông C, bà L còn phải có trách nhiệm liên đới nộp số tiền 3.256.000đ (Ba triệu hai
trăm năm mươi sáu nghìn đồng).
- Ông Nguyễn Văn V phải chịu án phí không có giá ngạch là 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng) và án phí có giá ngạch số tiền là 20.160.000đ (Hai mươi triệu một
trăm sáu mươi nghìn đồng). Tổng số tiền án phí ông V phải chịu là 20.460.000đ
(Hai mươi triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng
án phí là 2.957.000đ (Hai triệu chín trăm năm mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004685 ngày 10/6/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre. Ông V còn phải nộp 17.503.000đ (Mười bảy triệu
năm trăm lẻ ba nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Ông Lữ Văn C, bà Phan Thị Hồng L và ông Nguyễn Văn V phải có trách
nhiệm liên đới chịu án phí có giá ngạch số tiền là 32.000.000đ (Ba mươi hai triệu
đồng) nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre.
6.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Phạm Thanh H không phải chịu. Hoàn trả cho ông Phạm Thanh H số
tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số 0004415 ngày 11/9/2024 của Chi cục Thi hành án huyện B, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
13
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bến Tre (1b); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện B (1b);
- Chi cục THADS huyện B (1b);
- Phòng KTNV và THA; VP (3b);
- Các đương sự (3b);
- Lưu hồ sơ (1b).
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm