Bản án số 162/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 162/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 162/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 162/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 162/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 162/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Mai Thị M "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" Trần Thị L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 162/2025/DS-PT
Ngày 26-02-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Ông Huỳnh Hữu Nghĩa
Ông Đinh Tiền Phương
Bà Hoàng Thị Thúy Lành
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai Lan – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Long An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Ông Lê Ngọc Hiền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 21 và 26 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Long An tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 728/2024/TLPT-
DS ngày 05 tháng 12 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 121/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 613/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 12
năm 2024, giữa các đương sự:
- Bà Mai Thị M, sinh năm 1975. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã M,
huyện T, tỉnh Long An (có mặt).
M: Ông Nguyễn Phước Đ, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Tổ A, Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang (có mặt).
-
1. Bà Trần Thị L, sinh năm: 1944.
2. Ông Ngô Thanh L1, sinh năm: 1989.
Cùng địa chỉ cư trú: ấp B, xã M, huyện T, tỉnh Long An.
L và ông L1: ông Bùi Minh V, sinh
năm 1973. Địa chỉ cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An (có
mặt).
2
-
1. Bà Dương Ngọc B, sinh năm 1973. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã M, huyện T,
tỉnh Long An (có mặt).
2. Ông Bùi Văn Đ1, sinh năm 1971. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã M, huyện T,
tỉnh Long An (có mặt).
3. Văn phòng C2. Địa chỉ trụ sở: khu phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long
An.
- : bà Trần Thị L, ông Ngô Thanh L1, bà Dương Ngọc B,
ông Bùi Văn Đ1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
do ông
Ngày 25/4/2019 bà Trần Thị L và ông Ngô
Tấn C là vợ chồng chuyển nhượng cho bà M thửa đất số 772 có diện tích
2.267m
2
tờ bản đồ số 06 đất tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An. Hai bên có
ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C2 công chứng
ngày 25/4/2019, số công chứng 2812 quyển số 01/2019 TP/CC-SCC/HDGD, giá
ghi trên hợp đồng là 90.000.000 đồng, nhưng trên thực tế giá là 450.000.000
đồng để cấn trừ một phần nợ của bà B và ông Đ1. Bà B có nợ bà M cụ thể như
sau: Tổng số tiền của 08 dây hụi là 451.500.000 đồng, về số tiền vay là
90.000.000 đồng. Ngoài ra thời điểm năm 2019 bà L ông C vẫn đang thế chấp
thửa đất tại ngân hàng, bà M phải bỏ ra 106.000.000 đồng để trả ngân hàng lấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ra để tiến hành thủ tục công chứng chuyển
nhượng. Tổng cộng số tiền hụi, tiền vay, tiền trả nợ ngân hàng là 647.500.000
đồng. Đến ngày 23/5/2019 bà M được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR538552. Khi giao đất thì trên thực tế
chưa đủ diện tích 2.267m
2
thì đến ngày 26/10/2019 ông Ngô Tấn C chết bà M
nhiều lần yêu cầu bà L, ông L1 giao đủ diện tích theo giấy chứng nhận nhưng bà
L, ông L1 không thực hiện. Nay ông Đ đại diện bà M yêu cầu bà L, ông L1 có
trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng, giao đủ diện tích đất đã chuyển nhượng
là 2.267m
2
thuộc thửa đất số 772 tờ bản đồ số 06 đất tọa lạc tại xã M, huyện T,
tỉnh Long An theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng
C2 công chứng ngày 25/4/2019, số công chứng 2812 quyển số 01/2019 TP/CC-
SCC/HDGD.
Vào ngày 02/02/2024 bà Trần Thị L có yêu cầu phản tố tuyên vô hiệu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tắt QSDĐ) số công chứng 2812,
quyển số 01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/04/2019 do VPCC Thủ Thừa
chứng thực là giả tạo. Ông Đ cho rằng, việc bà Trần Thị L và ông Ngô Tấn C là
vợ chồng chuyển nhượng cho bà M để cấn trừ nợ cho bà B là hoàn toàn tự
nguyện, thể hiện đúng ý chí của các bên, phù hợp với nguyên tắc tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận. Chính vì vậy, việc cấn trừ không phải nhằm che
3
giấu một giao dịch khác mà ở đây các bên hoàn toàn thể hiện đúng ý chí tự
nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó ông Đ đại diện bà M
không đồng ý yêu cầu phản tố vô hiệu hợp đồng của bà L. Yêu cầu bà L, ông L1
có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng, giao đủ diện tích đất 2.267m
2
theo
hợp đồng số 2812, ngày 25/4/2019. Ông Đ thống nhất mảnh trích đo địa chính
số 1408-2024 được chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày
05/7/2024. Ông Đ thống nhất chứng thư thẩm định giá ngày 29/8/2024 của Công
ty Cổ phần T1.
Bùi Minh V trình bày: Vào
những năm 2018, con ruột của bà L là ông Bùi Văn Đ1, con dâu là bà Dương
Ngọc B có mượn giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt
GCNQSDĐ) của vợ chồng bà L là thửa đất số 772, diện tích 2.267 m
2
, tờ bản
đồ số 6, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An để
vay vốn ngân hàng làm ăn. Bà L già yếu lại không biết chữ, chồng bà L thì già
yếu, mỗi khi vay vốn hay làm thủ tục về đất đai thì ông Đ1 chở bà L và chồng
bà L là ông Ngô Tấn C đi ký tên theo sự hướng dẫn của ông Đ1; Tất cả các lần
từ trước đến nay, bà L và chồng bà L ký tên trên giấy tờ liên quan đến thửa đất
772, thì ông Đ1 bảo là ký để vay vốn ngân hàng, bà L và chồng bà L chỉ biết
vậy và ký tên, bà L và chồng bà L không hay biết việc ký tên bán đất thửa đất
cho bà Mai Thị M để cấn trừ nợ cho con bà L.
Nay bà Mai Thị M kiện bà L yêu cầu bà L và con bà L là ông Ngô Thanh
L1 phải giao cho bà Mai Thị M thửa đất số 772, diện tích 2.267 m
2
, tờ bản đồ
số 6, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An theo
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có số Công chứng 2812, quyển
01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng thực.
Yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị M thì bà L không đồng ý và ngày
31/01/2024 bà L có đơn phản tố yêu cầu:
- Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 2812, quyền
01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng thực do
giả tạo.
- Hủy chỉnh lý biến động trong GCNQSDĐ số X 770066, số vào sổ cấp
giấy 1168 QSDĐ/962 do UBND huyện T cấp ngày 10/6/2003 do Chi nhánh
VPĐK đất đai huyện T chỉnh lý biến động qua tên bà Mai Thị M.
Căn cứ để yêu cầu khởi kiện phản tố:
- Do bà L không biết chữ, già yếu, chồng bà L thì già yếu, tin lời con
ruột là ký tên để vay vốn ngân hàng (bà L và chồng bà L bị lừa dối) nên bà L
và chồng bà L ký;
- Giá chuyển nhượng trong hợp đồng mà bà L vừa được biết có 90 triệu
đồng (bằng 1/10 giá trị thửa đất) không đúng với giá thực tế của thửa đất;
- Bà L và chồng bà L không được nhận bất kỳ số tiền nào từ việc ký hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ với bà Mai Thị M; bà L không vay tiền ngân
4
hàng, số tiền vay là do ông Đ1 và bà B mượn giấy CNQSD đất của bà L để
vay, vì bà L và chồng bà L đều già yếu không thể vay vốn làm ăn.
- Ngày 09 tháng 01 năm 2024 (biên bản hòa giải) đại diện Ủy quyền của
bà Mai Thị M cũng thừa nhận rằng: Số tiền chuyển nhượng QSDĐ trong hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng thực là
để cấn trừ tiền nợ vay, nợ hụi của bà Dương Ngọc B thiếu bà M chứ không
phải thanh toán cho bà L; Hai bên không có nhu cầu chuyển nhượng và nhận
chuyển nhượng QSDĐ.
Như vậy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng
C2 chứng thực là hợp đồng giả tạo nhằm che đậy việc thu nợ vay và nợ tiền
hụi do bà Dương Ngọc B thiếu bà Mai Thị M.
- Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2
chứng thực, đến nay đã 06 năm lại đi đòi đất là sự vô lý;
- Bà L có hai dòng con, dòng lớn bà L đã chia đất, riêng Ngô Thanh L1 là
đứa con duy nhất dòng sau của bà L chưa có đất, bà L và chồng bà L già yếu
sống chung với L1, nên đã hứa sẽ cho L1 thửa đất số 772, diện tích 2.267 m
2
,
tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long
An. Vì vậy bà L và chồng bà L không thể chuyển nhượng cho bà M được.
- Ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B và bà Mai Thị M xác định: Lý do
có hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng
thực là để trừ nợ vay, nợ tiền hụi giữa bà Dương Ngọc B với bà Mai Thị M,
không liên đến bà L và chồng bà L.
Ông V thống nhất mảnh trích đo địa chính số 1408-2024 được chi nhánh
văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày 05/7/2024. Ông V thống
nhất chứng thư thẩm định giá ngày 29/8/2024 của Công ty Cổ phần T1. Đối
với yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà M thì ông V là người đại diện theo ủy
quyền của bà L và ông L1 không đồng ý. Ông V không thống nhất lời trình
bày của ông Đ1 theo biên bản hòa giải ngày 09/01/2024 vì bà L không có cho
đất ông Đ1 bán trả nợ.
Tại bản tự khai ngày 31/01/2024 ông Ngô Thanh L1 trình bày: vào những
năm 2018 anh một mẹ khác cha với ông L1 là ông Bùi Văn Đ1, chị dâu là bà
Dương Ngọc B có mượn GCNQSDĐ của cha mẹ ông L1 là ông Ngô Tấn C và
bà Trần Thị L tài sản là thửa đất 772 diện tích 2.267 m
2
tờ bản đồ số 6, loại đất
trồng cây lâu năm tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An để vay vốn ngân
hàng làm ăn. Bà L già yếu không biết chữ, ông C cũng già yếu, mỗi khi vay
vốn hay làm thủ tục về đất đai thì ông Đ1 chở bà L và ông C đi ký tên theo sự
hướng dẫn của ông Đ1. Tất cả các chữ ký của bà L và ông C trên các giấy tờ
có liên quan đến thửa đất 772 diện tích 2.267 m
2
tờ bản đồ số 6 là do ông Đ1
bảo là ký tên để vay vốn ngân hàng. Bà L và ông C chỉ biết vậy và ký tên, bà L
và ông C không hay biết việc ký tên bán thửa đất này cho bà M để cấn trừ nợ
cho ông Đ1 và bà B. Nay bà M khởi kiện yêu cầu bà L và ông L1 giao cho bà
5
M thửa đất 772 diện tích 2.267 m
2
tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây lâu năm
tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An theo hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất có số công chứng 2812 quyển số 01/2019 TP/CC-SCC/HĐGD
Ngày 25/4/2019 do Văn phòng C2 chứng thực. Yêu cầu khởi kiện của bà M
thì ông L1 không đồng ý. Là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông L1
có yêu cầu độc lập và yêu cầu Tòa tuyên xử:
- Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 2812, quyền
01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng thực do
giả tạo.
- Hủy chỉnh lý biến động trong GCNQSDĐ số X 770066, số vào sổ cấp
giấy 1168 QSDĐ/962 do UBND huyện T cấp ngày 10/6/2003 do Chi nhánh
VPĐK đất đai huyện T chỉnh lý biến động qua tên bà Mai Thị M.
Căn cứ để yêu cầu khởi kiện phản tố:
- Do bà L không biết chữ, già yếu, chồng bà L thì già yếu, tin lời con
ruột là ký tên để vay vốn ngân hàng (bà L và chồng bà L bị lừa dối) nên bà L
và chồng bà L ký;
- Giá chuyển nhượng trong hợp đồng mà bà L vừa được biết có 90 triệu
đồng (bằng 1/10 giá trị thửa đất) không đúng với giá thực tế của thửa đất;
- Bà L và chồng bà L không được nhận bất kỳ số tiền nào từ việc ký hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ với bà Mai Thị M; bà L không vay tiền ngân
hàng, số tiền vay là do ông Đ1 và bà B mượn giấy CNQSD đất của bà L để
vay, vì bà L và chồng bà L đều già yếu không thể vay vốn làm ăn.
- Ngày 09 tháng 01 năm 2024 (biên bản hòa giải) đại diện ủy quyền của
Mai Thị M cũng thừa nhận rằng: Số tiền chuyển nhượng QSDĐ trong hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2 chứng thực là
để cấn trừ tiền nợ vay, nợ hụi của bà Dương Ngọc B thiếu bà M chứ không
phải thanh toán cho bà L; Hai bên không có nhu cầu chuyển nhượng và nhận
chuyển nhượng QSDĐ.
Như vậy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng
C2 chứng thực là hợp đồng giả tạo nhằm che đậy việc thu nợ vay và nợ tiền
hụi do bà Dương Ngọc B thiếu bà Mai Thị M.
- Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2
chứng thực, đến nay đã 06 năm lại đi đòi đất là sự vô lý;
- Thửa đất 772 diện tích 2.267 m
2
tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây lâu
năm tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An là của ông L1 được bà L và ông
C tặng cho chưa sang tên. Do ông L1 sống chung, phụng dưỡng bà L, ông C
nhưng chưa được cho đất.
- Ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B và bà Mai Thị M xác định: Lý do có
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2
6
chứng thực là để trừ nợ vay, nợ tiền hụi giữa bà Dương Ngọc B với bà Mai Thị
M.
: bà B xác định
bà B nợ bà M tiền hụi và tiền vay tổng cộng là 220.000.000 đồng. Bà B đồng ý
yêu cầu khởi kiện phản tố của bà L, tiền bà B thiếu bà M thì bà B sẽ trả. Bà B
thống nhất mảnh trích đo địa chính số 1408-2024 được chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày 05/7/2024 và thống nhất chứng thư thẩm
định giá ngày 29/8/2024 của Công ty Cổ phần T1. Đối với yêu cầu khởi kiện bổ
sung của bà M thì bà B không đồng ý
trình bày: ông
Đ1 là con ruột của bà L, ông C là cha dượng đất là của mẹ ông Đ1, bà L thấy vợ
ông Đ1 đang thiếu nợ bà M nên mẹ ông Đ1 cho phần đất để bán trừ nợ, lúc đó
vợ ông Đ1 là bà Dương Ngọc B có nợ của bà M tiền hụi và tiền vay tổng cộng là
220.000.000 đồng và lúc đó đất ông Đ1 đang thế chấp vay ngân hàng
100.000.000 đồng nên bà L đưa 100.000.000 đồng để trả ngân hàng lấy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất về. Tiền nợ và tiền hụi mà vợ ông Đ1 nợ bà M
thì ông Đ1 nghe vợ ông Đ1 nói bao nhiêu thì ông Đ1 biết bấy nhiêu chứ vợ ông
Đ1 lén lút chơi hụi và mượn tiền bà M khi nào thì ông Đ1 hoàn toàn không biết,
khi bà M đến đòi nợ thì ông Đ1 hỏi vợ ông Đ1 mới nói. Đất phá bờ thửa nên
không biết vị trí thửa 772 đến đâu, khi đó bà M tự cấm cột, bây giờ đề nghị đo
đến chổ bà M cấm cột diện tích bao nhiêu thì gia đình giao bấy nhiêu. Lúc đó
bán phần đất do các bên xác định chứ không biết diện tích bao nhiêu giá
450.000.000 đồng, trừ tiền nợ và tiền ngân hàng 320.000.000 đồng nên ông Đ1
nhiều lần yêu cầu bà M trả phần tiền còn lại nhưng bà M nói chừng nào làm giấy
xong rồi đưa. Lúc giao đất ông Đ1 yêu cầu bà M kêu địa chính tới đo cho rõ
ràng nhưng bà M nói để làm giấy trước rồi đo sau, lúc đó ông Đ1 cũng hiểu do
vợ ông Đ1 đang mắc nợ nhiều người nên bà M cũng lo lắng sợ nhiều người đến
lấy đất nên bà M cũng nôn nóng sang tên. Ông Đ1 chỉ đồng ý giao đến vị trí mà
các bên tự thỏa thuận cấm trước đây, ông Đ1 không đồng ý giao hết thửa 772 vì
nếu giao hết thửa thì ảnh hưởng đến nhà của ông Đ1 vì nhà ông Đ1 xây dựng
trên một phần thửa 772. Ông Đ1 thống nhất mảnh trích đo địa chính số 1408-
2024 được chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T duyệt ngày
05/7/2024 và thống nhất chứng thư thẩm định giá ngày 29/8/2024 của Công ty
Cổ phần T1. Đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà M thì ông Đ1 không
đồng ý. Ông Đ1 thống nhất đất của bà L thì trả cho bà L, ông Đ1 nợ tiền của bà
M thì ông Đ1 trả tiền cho bà M.
trình bày: Ngày
25/4/2019 bà Mai Thị M, bà Trần Thị L, và ông Ngô Tấn C đến VPCC Thủ
Thừa yêu cầu chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, giấy tờ các bên nộp
gồm: 03 CMND, 01 giấy chứng nhận kết hôn, 03 sổ hộ khẩu, 01 Trích lục bản
đồ, 01 giấy CNQSDĐ do bà Trần Thị L đứng tên, 02 biên bản giám định chuyên
khoa tâm thần của bà Trần Thị L, và ông Ngô Tấn C. Qua kiểm tra các giấy tờ
đều hợp lệ, các bên đã tự nguyện thoả thuận giao kết hợp đồng; tại thời điểm
7
công chứng, các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo
quy định của pháp luật; Nội dung thoả thuận của các bên trong hợp đồng không
vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội; các bên cùng thỏa thuận về giá
chuyển nhượng, nghĩa vụ nộp thuế và các loại phí, lệ phí đối với hợp đồng
chuyển nhượng giữa 02 bên; VPCC tiến hành soạn thảo hợp đồng chuyển
nhượng và các bên giao kết đã đọc dự thảo hợp đồng này, đã đồng ý toàn bộ nội
dung ghi trong hợp đồng, cùng nghe công chứng viên giải thích rõ quyền, nghĩa
vụ, hậu quả pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, cả 02 bên đều công
nhận là đã hiểu rõ và nội dung của hợp đồng đúng với yêu cầu của 02 bên, và đã
ký, điểm chỉ vào Hợp đồng này trước sự có mặt của công chứng viên và hợp
đồng được công chứng viên ký chứng nhận và xuất ngay sau đó có số công
chứng 2812 quyển số 01/2019 TP/CC-SCC/HĐGD. Do đó việc Văn phòng C2
chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là phù hợp quy định của pháp
luật.
121/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa đã tuyên xử:
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị M đối với bà Trần Thị L và
ông Ngô Thanh L1 về yêu cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Công nhận phần đất thuộc Khu B, C, G, F theo mảnh trích đo địa chính số
1408-2024 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T ký duyệt
ngày 05/7/2024 cho bà Mai Thị M.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để làm thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp phù hợp với kết quả
giải quyết của Tòa án. Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi
trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến
động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải
quyết của Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị L đối với bà Mai Thị M.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng; án
phí; quyền kháng cáo; quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 11/10/2024, bà Trần Thị L, ông Ngô Thanh L1, ông Bùi Văn Đ1 và
bà Dương Ngọc B kháng cáo. Yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử hủy Bản án sơ
thẩm. Nếu không chấp nhận hủy thì yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn.
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
8
Phần tranh luận:
Ông Bùi Minh V , ông Ngô Thanh
L1 : Bà L, ông L1 kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy Bản
án sơ thẩm do cấp sơ thẩm đã vi phạm tố tụng cụ thể:
- Cấp sơ thẩm không đưa bà Bùi Thị T tham gia tố tụng vì thửa đất 772 có
03 mặt, một mặt tiếp giáp với thửa 773 của bà T. bà T mất 145m
2
đất thổ, mất
lối đi, vị trí thửa đất của bà T bị thay đổi so với hiện trạng, ông Ngô Thanh L1
mất hoàn toàn thửa đất số 772.
- Bản án sơ thẩm căn cứ mảnh trích đo địa chính mà không được văn phòng
đăng ký đất đai kiểm duyệt. Bản án chưa làm rõ, vì sao 3 đến 4 năm kể từ ngày
ký hợp đồng chuyển nhượng mới yêu cầu ông Đ1 giao đất mà không yêu cầu bà
L, ông Đ1 không phải là chủ đất. Bà M nói cho bà L mượn lại đất để trồng rau
muống trong khi đất do ông Ngô Thanh L1 quản lý sử dụng.
- Tòa án sơ thẩm xem xét đánh giá chứng cứ không khách quan, suy diễn
theo hướng có lợi cho nguyên đơn cụ thể bà L không biết chữ, lừa dối điểm chỉ
vào hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tại Điều 8, khoản 2 của hợp đồng công
chứng viên ghi từng bên đọc lại hợp đồng và ký trong khi đó bà L không biết
chữ chỉ biết điểm chỉ, công chứng viên không trung thực, bà L hoàn toàn không
biết chữ sao đọc được hợp đồng vậy sao bà L ký và ghi rõ họ tên. Có cơ sở xác
định bà L bị ông Đ1 và bà M lừa dối trong việc điểm chỉ hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ. Khi điểm chỉ bà L chỉ đinh ninh là hợp đồng vay vốn để trả tiền
cho bà M, trước đó đã trả nợ vay ngân hàng cho ông Đ1.
- Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ký giữa bà M và bà L ngày 25/4/2019 là
để cấn trừ tiền nợ hụi và tiền vay của bà B và ông Đ1 trước đó chứ không phải là
hai bên tự nguyện ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tại sao nhận đất của bà
L lại kêu ông Đ1 giao đất trong khi bà L, ông L1 sinh sống cách thửa đất 772 chỉ
20m không được gọi ra để chỉ ranh giới, mốc giới .
Bà và ông : Ông Đ1, bà B
thống nhất với ý kiến của ông V. Ông Đ1 xác nhận ngoài thửa đất số 772, bà L
còn nhiều thửa đất khác nhưng bà L đã ký hợp đồng tặng cho ông và bà T, các
hợp đồng này bà L là người ký tên tặng cho đất và cũng được công chứng chứng
thực. Thửa đất số 722 do ông L1 quản lý ông Đ1 không có quản lý.
Ông là nguyên
: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ông đề nghị ông L1, bà L giao cho bà M thửa đất
số 722 vị trí khu B và C theo mảnh trích đo địa chính đã được văn phòng đăng
ký đất đai ký duyệt; bà M không tranh chất đất tại vị trí G, F.
:
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ
9
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo: Đơn kháng cáo của Bà Trần Thị L, ông
Ngô Thanh L1, ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B đảm bảo các nội dung quy
định tại Điều 272, 273 BLTTDS. Do đó đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo
trình tự phúc thẩm.
Xét kháng cáo của bà Mai Thị M, ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B
thắng rằng:
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Mai Thị M, ông Bùi Văn Đ1, bà
Dương Ngọc B thừa nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa
số 772 nhằm cấn trừ nợ vay, nợ hụi của bà B thiếu bà M.
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2019 giữa bà
Trần Thị L và ông Ngô Tấn C với bà Mai Thị M được Văn phòng C2 công
chứng được thực hiện khi bà L và ông C đủ năng lực pháp luật, tại hợp đồng
chuyển nhượng bà L ký tên, lăn tay và ghi đầy đủ họ tên. Ngoài ra, tại bảng tự
trình bày nội dung vụ việc ngày 05/9/2024 của ông Nguyễn Xuân Q - Trưởng
Văn phòng C2 xác định: “…Ngày 25/4/2019 bà Mai Thị M, bà Trần Thị L, và
ông Ngô Tấn C đến VPCC Thủ Thừa yêu cầu chứng nhận hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ, giấy tờ các bên nộp gồm: 03 CMND, 01 giấy chứng nhận kết
hôn, 03 sổ hộ khẩu, 01 Trích lục bản đồ, 01 giấy CNQSDĐ do bà Trần Thị L
đứng tên, 02 biên bản giám định chuyên khoa tâm thần của bà Trần Thị L, và
ông Ngô Tấn C. Qua kiểm tra các giấy tờ đều hợp lệ, các bên đã tự nguyện thoả
thuận giao kết hợp đồng; tại thời điểm công chứng, các bên giao kết hợp đồng
có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật; Nội dung thoả
thuận của các bên trong hợp đồng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức
xã hội; các bên cùng thỏa thuận về giá chuyển nhượng, nghĩa vụ nộp thuế và các
loại phí, lệ phí đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa 02 bên; VPCC tiến hành
soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng và các bên giao kết đã đọc dự thảo hợp đồng
này, đã đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong hợp đồng, cùng nghe công chứng viên
giải thích rõ quyền, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ, cả 02 bên đều công nhận là đã hiểu rõ và nội dung của hợp đồng đúng
với yêu cầu của 02 bên, và đã ký, điểm chỉ vào Hợp đồng này trước sự có mặt
của công chứng viên và hợp đồng được công chứng viên ký chứng nhận và xuất
ngay sau đó …” nên việc bà L cho rằng bà không biết chữ là không phù hợp.
- Tại biên bản làm việc ngày 01/6/2022 tại UBND xã M (BL 120-121) thể
hiện nội dung ý kiến trình bày: “…bà L: trước đây gia đình bà có bán cho bà M
phần thửa đất 772, tờ bản đồ số 6, khi làm thủ tục thì chuyển trọn thửa 772…”
nên bà L cho rằng không đồng ý việc chuyển nhượng này là không có cơ sở.
Từ phân tích trên, có cơ sở xác định bà Trần Thị L, ông Ngô Văn C1 đồng
ý ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 772 cho bà
Mai Thị M để cấn trừ tiền nợ của bà Dương Ngọc B đối với bà Mai Thị M. Đây
là sự tự nguyện, tự định đoạt của bà L, ông C1. Hợp đồng chuyển nhượng được
10
công chứng đúng theo quy định của pháp luật, bà M đã được đứng tên trên
GCNQSDĐ nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở.
Ông Ngô Thanh L1 cho rằng thửa đất số 772 tờ bản đồ số 6 đất tọa lạc tại
ấp B, xã M, huyện T, tỉnh Long An ông L1 đã được bà L và ông C1 tặng cho
nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ đại diện bà M chỉ yêu cầu ông
L1, bà L giao cho bà M đất tại vị trí B ,C, không yêu cầu giao đất tại vị trí G, F
nên cần ghi nhận. Ngoài ra phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên:
“…Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị L đối với bà Mai Thị
M…” nhưng không tuyên không chấp nhận yêu cầu gì của bà L là thiếu sót do
đó đề nghị sửa án sơ thẩm về cách tuyên án.
Đề nghị Hội đồng xét xử: không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị L,
ông Ngô Thanh L1, ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B, Ghi nhận sự tự nguyện
của bà M. căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ
pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng và xét xử theo trình tự sơ thẩm là
phù hợp với quy định tại Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản
án sơ thẩm đảm bảo thủ tục tố tụng.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, những người
được Tòa án triệu tập có mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành
xét xử theo trình tự phúc thẩm là phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[3] Xét kháng cáo của bị đơn là bà Trần Thị L, ông Ngô Thanh L1 và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Dương Ngọc B, ông Bùi Văn Đ1 yêu cầu
cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do vi phạm tố tụng. Hội đồng xét xử thấy
rằng:
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Mai Thị M, ông Bùi Văn Đ1, bà
Dương Ngọc B thừa nhận việc chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa 772 nhằm
cấn trừ nợ vay, nợ hụi của bà B thiếu bà M. Bị đơn bà L cho rằng việc bà B và
ông Đ1 nợ tiền bà M như thế nào bà L không biết. Bà B và ông Đ1 hay mượn
GCNQSDĐ của bà L vay ngân hàng làm vốn làm ăn nên bà L và ông C1 thường
xuyên ký thế chấp cho bà B và ông Đ1 vay tiền. Lần này bà L và ông C1 cũng
tưởng đến văn phòng công chứng ký cho bà B và ông Đ1 đi vay tiền chứ không
biết ký chuyển nhượng vì bà L không biết chữ nên không đọc được nội dung của
11
văn bản và Văn phòng công chứng không có mời người làm chứng cho bà L.
Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4.1 ] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/4/2019 giữa bà
Trần Thị L và ông Ngô Tấn C với bà Mai Thị M được Văn phòng C2 công
chứng được thực hiện khi bà L và ông C đủ năng lực pháp luật, tại hợp đồng
chuyển nhượng bà L ký tên, lăn tay và ghi đầy đủ họ tên.
[4.2] Tại bảng tự trình bày nội dung vụ việc ngày 05/9/2024 của ông
Nguyễn Xuân Q - Trưởng Văn phòng C2 (BL162) thể hiện: “…Ngày 25/4/2019
bà , bà và ông
, và ông
…”.
Do đó có căn cứ xác định, Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày
25/4/2019 giữa bà Trần Thị L và ông Ngô Tấn C với bà Mai Thị M đảm bảo
theo các Điều 500,501,502 Bộ luật dân sự và được Văn phòng C2; không có
chứng cứ chứng minh tại thời điểm ký Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, bà L
và ông C không đủ năng lực pháp luật, và bị lừa dối hay bị ép buộc.
[4.3] Tại biên bản làm việc ngày 01/6/2022 tại UBND xã M (BL 120-121)
thể hiện nội dung ý kiến của bà L như sau: “…bà L
bán cho bà M
” và tại phiên tòa phúc thẩm chính ông Đ1 thừa nhận: Ngoài thửa đất
722 thì bà L còn có các thửa đất khác, bà L đã ký hợp đồng tặng cho, chuyển
nhượng lại cho ông Đ1 và bà T. Lời trình bày của ông Đ1 phù hợp với các
chứng cứ có trong hồ sơ (BL 173-175; 179;191-194) thể hiện bà L có viết tên và
ký tên vào các hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bà T, ông Đ1 và chính bà L
cũng là người ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ từ ông Dương Văn
N đối với thửa đất 722. Vì vậy, ông V cho rằng bà L không biết chữ, bị lừa dối
khi ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là không đúng với sự thật khách quan.
Có cơ sở xác định bà Trần Thị L, ông Ngô Văn C1 tự nguyện, đồng ý ký kết hợp
12
đồng chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa 772 cho bà Mai Thị M. Đây là sự tự
nguyện, tự định đoạt của bà L, ông C1. Hợp đồng chuyển nhượng được công
chứng đúng theo quy định của pháp luật, bà M đã được đứng tên trên
GCNQSDĐ.
[4.4] Ông Ngô Thanh L1 cho rằng thửa đất số 772 tờ bản đồ số 6 đất tọa lạc
tại ấp B, xã M, huyện T, tỉnh Long An, ông L1 đã được bà L và ông C1 tặng cho
nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Ông V cho rằng khi đo đất,
không có mặt bà T, chủ thửa đất 773 chứng kiến và ký giáp ranh. Tuy không có
mặt bà T chứng kiến nhưng ngày 04.4.2024, Ủy ban nhân dân xã M đã thông
báo niêm yết công khai kết quả đo đạc về việc niêm yết không ký giáp ranh thửa
đất, ngày 22/4/2024, Ủy ban nhân dân xã M biên bản kết thúc niêm yết công
khai không ký giáp ranh là đã thực hiện đúng theo quy định tại Thông tư số
25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 và Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày
29/9/2017 của Bộ T2. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà T vào tham gia tố tụng
là đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở.
[4.5] Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ đại diện theo ủy quyền của
bà M chỉ yêu cầu ông L1, bà L giao cho bà M đất tại vị trí B, C, không yêu cầu
giao đất tại vị trí G,F là có lợi cho bà L, ông L1 nên cần ghi nhận sự tự nguyện
của bà M. Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên: “… Công nhận
phần đất thuộc Khu B, C, G, F theo mảnh trích đo mà không nêu diện tích đất,
số thửa , tờ bản đồ; không tuyên buộc ông L1, bà L giao đất cho bà M và không
tuyên không chấp nhận yêu cầu gì của bà L là thiếu sót, không đảm bảo công tác
thi hành án do đó cần sửa án sơ thẩm về cách tuyên án.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của bà Trần Thị L, ông Ngô Thanh L1, ông Bùi Văn Đ1, bà Dương Ngọc B, ghi
nhận sự tự nguyện của bà M, sửa một phần bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị
của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực thi hành.
[7] Về án phí phúc thẩm: ông Ngô Thanh L1, ông Bùi Văn Đ1, bà Dương
Ngọc B phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận;
bà L không phải chịu án phí phúc thẩm do thuộc trường hợp được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị L, ông Ngô Thanh
L1, bà Dương Ngọc B, ông Bùi Văn Đ1.
13
Sửa Bản án sơ thẩm số: 121/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa.
Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 148, Điều 296 Bộ luật
tố tụng dân sự; Điều 500 Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về án phí, lệ phí Tòa án. Luật người cao tuổi.
Tuyên xử:
1. chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị M đối với bà Trần Thị L và
ông Ngô Thanh L1 về yêu cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Buộc bà L, ông L1 phải giao phần đất tại Khu: B diện tích thực tế là 1742,7
m
2
và khu C diện tích thực tế là 55 m
2
thuộc thửa đất số 722, tờ bản đồ số 6, đất
tọa lạc tại ấp B, xã M, huyện T theo mảnh trích đo địa chính số 1408-2024 được
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T ký duyệt ngày 05/7/2024 cho
bà Mai Thị M.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Mai Thị M về việc chỉ yêu cầu bà L, ông
L1 giao khu B, C thửa đất số 722, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc tại ấp B, xã M,
huyện T
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị L đối với bà Mai Thị
M về việc yêu cầu:
- Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
2812, quyền 01/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/4/2019, do Văn Phòng C2
chứng thực do giả tạo.
- Hủy chỉnh lý biến động trong Giấy chứng nhận quyền sử đất số X
770066, số vào sổ cấp giấy 1168 QSDĐ/962 do UBND huyện T cấp ngày
10/6/2003 do Chi nhánh VPĐK đất đai huyện T chỉnh lý biến động qua tên bà
Mai Thị M. .
4. Về lệ phí thẩm định giá: bà Mai Thị M ứng nộp 29.600.000 đồng chi phí
xem xét thẩm định tại chổ, đo đạc và thẩm định giá, bà M tự nguyện chịu và đã
nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc bà Trần Thị L và ông Ngô Thanh L1 phải liên đới chịu 300.000
đồng. Bà Trần Thị L là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên bà L được
miễn án phí.
Bà Mai Thị M không phải chịu án phí. Hoàn trả bà M 300.000 đồng theo
biên lai thu số 0008028 ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Thủ Thừa, tỉnh Long An.
6. Về án phí phúc thẩm:
ông Ngô Thanh L1, bà Dương Ngọc B, ông Bùi Văn Đ1 mỗi người phải
chịu 300.000 đồng (bà trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm. Khấu trừ mỗi
14
người 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí mà ông L1, bà B, ông
Đ1 đã nộp theo biên lai thu số 0009256, 0009257, 0009253 cùng ngày
04/11/2024 tại Chi cục thi hành án huyện Thủ Thừa, ông L1, bà B, ông Đ1 đã
nộp xong.
Bà Trần Thị L không phải chịu án phí phúc thẩm do thuộc trường hợp được
miễn tiền án phí phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quộc hội khóa 14.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Thủ Thừa;
- Chi cục THADS huyện Thủ Thừa;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Hữu Nghĩa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm