Bản án số 51/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 51/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 51/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 51/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 51/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 51/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 16-7-2024, ông Lê Đình V có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nói trên và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm trên theo hướng không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị P, chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H. Ngày 23-7-2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kháng nghị tại Quyết định số 03/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng tuyên xử chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 51/2025/DS-PT
Ngày 03 – 3 – 2025
V/v “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
----------------------------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thanh Mai
Các Thẩm phán: Ông Cao Văn Hiếu
Bà Trần Thị Bé
Thư ký phiên tòa: Bà Trần Ngô Khánh Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Bà Lương Thị
Chung - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 25-02-2025 và 03-3-2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 73/2024/TBTL-TA
ngày 04-10-2024 về việc “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 của Tòa án
nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 192/2024/QĐ-PT ngày
14-11-2024; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Lê Thị P, sinh năm 1963; địa chỉ: K đường H, tổ D,
phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị P: Ông Hà Đồng T,
Luật sư Văn phòng L1 đoàn Luật sư thành phố Đ; địa chỉ: F H, quận H, thành
phố Đà Nẵng; có mặt.
* Bị đơn: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1972 và ông Vương Chí T1, sinh năm
1969;
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Phạm Thị H là ông Vương Chí T1;
cùng địa chỉ: D đường N, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy uỷ
quyền lập ngày 18-7-2023 tại Văn phòng C, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ông Lê Đình
V; sinh năm 1972; có mặt và bà Phan Thị N, sinh năm 1965; vắng mặt; cùng địa
chỉ: Tổ C, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lê Đình V, bà Phan Thị
N: Ông Nguyễn Anh T2, Luật sư Công ty L2 thuộc đoàn Luật sư thành phố Đ;
địa chỉ: B H, quận L, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Vương Thị L, sinh năm 1965; địa chỉ: Số K đường N, phường A, quận
T, thành phố Đà Nẵng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bà Trần Thị H1, sinh năm 1969 và ông Lê Đình S, sinh năm 1970; Địa
chỉ: Tổ I, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Trần Thị H1, ông Lê Đình S là Ông
Lê Đình V, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ C, phường A, quận T, thành phố Đà
Nẵng; theo Giấy uỷ quyền lập ngày 27-6-2023 tại UBND phường M, quận N,
thành phố Đà Nẵng; có mặt.
- Ông Hà Tấn T3, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Xuân H2, sinh năm
1977;
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị Xuân H2 là ông Hà Tấn
T3; cùng địa chỉ: K Đ, tổ A, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy
uỷ quyền lập ngày 20-11-2024 tại Phòng C1, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
- Bà Đặng Thị N1. Sinh năm 1932. Địa chỉ: Tổ C A, quận T, thành phố Đà
Nẵng;
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Đặng Thị N1 là ông Vương Chí T1;
địa chỉ: D đường N, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy uỷ quyền
lập ngày 04-8-2022 tại Văn phòng C2, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
- Ông Vương Chí T4, sinh năm 1961. Trú tại: K N, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
- Ông Vương Chí T5, sinh năm 1973. Trú tại: K N, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
* Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Lê Đình
V.
* Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, tóm tắt như sau:
* Nguyên đơn - bà Lê Thị P trình bày tại đơn khởi kiện và quá trình tham
gia tố tụng tại Toà án:
Vào cuối năm 2017, do có nhu cầu về nhà ở, qua người quen giới thiệu tôi
đồng ý mua diện tích đất 100m2 đất ở tại kiệt C, đường N, tổ B, phường A, quận
3
T, thành phố Đà Nẵng, thửa đất số 89+213 tờ bản đồ số 42, trên đất có ngôi nhà
cấp 4 từ vợ chồng ông Hà Tấn T3 và bà Nguyễn Thị Xuân H2 bằng giấy viết tay
với số tiền là 430.000.000đ, tôi đã giao đủ số tiền mua cho ông T3 và bà H2.
Nhà và đất tôi mua lại của ông T3 và bà H2 có nguồn gốc của ông Vương
Chí S1 và bà Đặng Thị N1 chuyển nhượng cho con gái là bà Vương Thị L có hồ
sơ chuyển nhượng và đơn xin xác nhận nhà ở được Ủy ban nhân dân phường A
xác nhận năm 1997.
Bà Vương Thị L thỏa thuận cho ông Vương Chí T1 là em bà L cùng vợ là
bà Phạm Thị H chuyển nhượng phần đất và nhà của mình. Năm 2009 vợ chồng
ông T1, bà H đã chuyển nhượng phần nhà và đất của bà L cho bà Trần Thị H1
số tiền là 125.000.000đ làm giấy cam kết viết tay có xác nhận đồng ý của bà
Vương Thị L, sau khi nhận đủ tiền ông T1 và bà H đã làm thủ tục chuyển
nhượng và giao giấy tờ nhà đất đứng tên bà L cho bà H1.
Thời gian sau, bà H1 chuyển nhượng lại nhà đất cho vợ chồng ông Hà Tấn
T3 và bà Nguyễn Thị Xuân H2, vào tháng 12-2017 ông Hà Tấn T3 và bà
Nguyễn Thị Xuân H2 chuyển nhượng lại cho tôi. Tôi đã mang hồ sơ nhà đất của
bà Vương Thị L đến phường A nhờ kiểm tra thì được trả lời là hồ sơ hợp pháp
nhưng đất nằm trong quy hoạch nên chưa giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Tôi thỏa thuận nhận chuyển nhượng lại nhà và đất từ vợ chồng ông
T3 bà H2 với số tiền là 430.000.000đ bằng giấy viết tay và thỏa thuận với vợ
chồng ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H sẽ giao đủ số tiền làm nghĩa vụ thuế
với nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến đầu tháng 09-2019, ông T1, bà H thông báo cho tôi là giấy tờ đã làm
xong đề nghị tôi giao đủ số tiền để đóng thuế là 604.000.000đ và cam kết trong
02 tháng khi có sổ đỏ ông Vương Chí T1 đi công chứng chuyển nhượng sang
tên cho tôi.
Tổng cộng số tiền tôi đã bỏ ra để mua ngôi nhà và đất là 1.034.000.000₫
trong đó giao cho ông T3, bà H2 là 430.000.000đ, giao cho ông T1, bà H là
604.000.000đ.
Sau khi làm xong thủ tục nhà đất và vợ chồng ông T1 bà H được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mới, tôi nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Vương
Chí T1 và bà Phạm Thị H thực hiện việc chuyển nhượng quyền sửdụng đất theo
thỏa thuận nhưng vợ chồng ông T1, bà H không có thiện chí thực hiện.
Nay tôi khởi kiện đề nghị Tòa án buộc vợ chồng ông Vương Chí T1 và bà
Phạm Thị H thực hiện việc lập thủ tục chuyển nhượng diện tích đất 100m2 thửa
số 89 + 213 tờ bản đồ số 42, địa chỉ kiệt C đường N, tổ B phường A, quận T
theo thoả thuận. Nếu không chuyển nhượng thì buộc bà H ông T1 trả tiền theo
giá trị thị trường đối với lô đất trên.
* Bị đơn - bà Phạm Thị H, ông Vương Chí T1 trình bày trong quá trình
tham gia tố tụng tại Toà án:
4
- Năm 1997 cha và mẹ tôi: ông Vương Chí S1 và bà Đặng Thị N1 ký
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (100m tại UBND phường A) cho con gái là
bà Vương Thị L.
- Ngày 01-02-2009 bà Vương Thị L chuyển nhượng lại lô đất nói trên cho
vợ chồng em trai là tôi Vương Chí T1 và vợ là Phạm Thị H (giấy chuyển
nhượng viết tay)
- Ngày 13-10-2009 vợ chồng tôi Vương Chí T1, Phạm Thị H chuyển
nhượng lại lô đất trên cho bà Trần Thị H1 (Giấy cam kết ngày 08-9-2009) và
ông Lê Đình V là người đứng ra mua đất với bà Vương Thị L (bà H1 là chị dâu
của ông V). Lô đất thuộc trong khu vực giải tỏa khu dân cư số B P – giai đoạn 2.
Kể từ đó gia đình tôi đã nhiều lần làm kiến nghị đến UBND thành phố Đ và
UBND quận T. Cho đến ngày 19-02-2019 được UBND quận T thông báo cho
chuyển mục đích sử dụng đất.
Đến ngày 06-9-2019, bà Lê Thị P đem toàn bộ hô sơ liên quan lô đất nói
trên đến gặp vợ chồng tôi và nói là mình là chủ sở hữu của lô đất đó.
Trong khi gia đình mẹ tôi là bà Đặng Thị N1 đang làm thủ tục chuyển mục
đích sử dụng đất nông nghiệp lên đất ở nên bà P có nhờ vợ chồng tôi chuyển
giúp bà 80m đất nông nghiệp lên thành đất ở theo bộ hồ sơ mà bà Vương Thị L
đứng tên.
Vợ chồng tôi đã nhận 604 triệu đồng của bà P và đã nộp vào ngân sách nhà
nước để chuyển mục đích sử dụng đất (có hóa đơn và biên lai).
Nay bà Lê Thị P yêu cầu vợ chồng tôi thực hiện việc lập thủ tục chuyển
nhượng đất theo thửa đất 89 + 213 tờ bản đồ số 42, địa chỉ kiệt C N, phường A,
T, thành phố Đà Nẵng là chưa đủ cơ sở vì giữa vợ chồng tôi và bà Lê Thị P
không thực hiện mua bán đất với nhau. Chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 89 + 213, tờ bản đồ số 42,
diện tích đất 100m
2
tại địa chỉ kiệt C đường N, tổ B phường A, quận T, Đà Nẵng
cho người được Tòa án xác định đứng tên mua lô đất này.
Hiện nay, thửa đất này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DN 404140 do Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Đ cấp ngày 06-11-2023, chỉnh lý biến động
sang tên ngày 25-4-2024 tại địa chỉ tổ C phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng
đứng tên ông Vương Chí T1.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Lê Đình V, bà Phan Thị N
trình bày tại đơn yêu cầu độc lập và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Năm 2009, tôi nhận chuyển nhượng một lô đất có diện tích 100m
2
, trên đất
có một ngôi nhà khoảng 90m
2
, bị hư hỏng một phần còn tầm 30m
2
vẫn sử dụng
được tại Tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chúng tôi nhờ
chị gái là bà Trần Thị H1 đứng tên hộ có giấy xác nhận của bà H1 về việc đứng
tên hộ trong giấy đặt cọc và mua bán.
Người bán lô đất này cho vợ chồng tôi là bà Vương Thị L, người nhận tiền
là ông Vương Chí T1 và bà Phạm Thị H.
5
Tại thời điểm đặt cọc, ngày 08-9-2009, bên bán cung cấp cho chúng tôi một
số hồ sơ gồm:
+ Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Vương Chí S1 và bà
Đặng Thị N1; cùng trú tại tổ 6b Phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng cho bà
Vương Thị L có xác nhận của UBND phường A và dấu treo của Sở Địa chính –
Nhà đất thành phố Đà Nẵng. Thửa đất có tứ cận phía Đông giáp ruộng, phía Tây
giáp nhà ông T1, phía Bắc giáp đất ông S1, phía Nam giáp đất ông S1. Diện tích
của thửa đất chuyển nhượng là 100m
2
, loại đất Thổ cư; mục đích sử dụng làm
nhà ở; thời hạn sử dụng đất lâu dài.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương Chí S1, bà
Đặng Thị N1 với bà Vương Thị L đối với thửa đất nêu trên có xác nhận của Chủ
tịch UBND phường A – Đào Ngọc S2 với nội dung: “Vợ chồng ông Vương Chí
S1 và bà Vương Thị L, hai bên đã thoả thuận ký tên trên là đúng”.
+ Sơ đồ vị trí khu đất xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
+ Đơn xin xác nhận nhà ở của bà Vương Thị L (có xác nhận của UBND
phường A với nội dung: “Bà Vương Thị L hiện có nhà ở tại A, Đà Nẵng. Nhà ở
không có tranh chấp, quy hoạch”.
Để đảm bảo việc chuyển nhượng, ngày 08-9-2009, giữa bà Vương Thị L và
vợ chồng em trai là Vương Chí T1, Phạm Thị H đã lập “Giấy cam kết về việc
Đặt cọc”. Nội dung giấy này thể hiện Bên bán là ông Vương Chí T1, bà Phạm
Thị H và Bên mua là bà Trần Thị H1. Tại thời điểm đặt cọc hai bên hẹn nhau
không quá 15 kể từ ngày 25-9-2009 ra công chứng ký giấy tờ và bên bán sẽ giao
toàn bộ giấy tờ nhà đất.
Do nhà, đất này đang nằm trong vùng quy hoạch nên ngày 13-10-2009,
giữa bà Vương Thị L (Bên A) và bà Trần Thị H1 (Bên B) tiếp tục làm “Giấy
cam kết về việc mua bán nhà và giao quyền đứng tên sử dụng đất” đối với nhà
và đất đã đặt cọc trước đó.
Sau đó chúng tôi đã thanh toán toàn bộ tiền, bà L, ông T1 và bà H đã giao
toàn bộ giấy tờ nhà đất cho tôi giữ đồng thời bàn giao căn nhà nói trên cho tôi
quản lý, sử dụng. Tôi cho người khác thuê và nhận tiền đều đặn hàng tháng, đến
khoảng năm 2012 do nhà xuống cấp quá, không thể thuê được nữa nên người ta
trả nhà cho tôi. Tôi không sử dụng và để vậy cho đến nay.
Trong khoảng thời gian mua nhà và đất, do nhà và đất nêu trên chưa đứng
tên tôi nên từ năm 2009 đến 2013, ông Vương Chí T1 là người đi nộp thuế đất,
sau đó tôi trả lại tiền và nhận lại các biên lai thuế. Số biên lai này tôi đã đưa cho
ông Hà Trấn T6 và bà Nguyễn Thị Xuân H2 giữ khi vay tiền. Riêng năm 2023,
Tổ dân P1 gọi tôi trực tiếp đến nhận giấy thuế và tôi là người trực tiếp đi nộp
thuế.
Như vậy, việc chúng tôi nhận đặt cọc để mua nhà và đất tại tổ B, phường A
của bà Vương Thị L (do ông Vương Văn T7 đứng tên) đã thực hiện gần như
hoàn thành: Bên mua giao đủ tiền, Bên bán giao nhà và đất. Việc mua bán chỉ
trừ việc ra công chứng sang tên quyền sử dụng đất vì vướng quy hoạch. Nay
6
việc quy hoạch này đã được thành phố Đà Nẵng xoá bỏ nên tôi yêu cầu bà
Vương Thị L có trách nhiệm cùng với ông Vương Chí T1 tiến hành công chứng
sang tên thửa đất nêu trên cho chúng tôi theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với khoản tiền vay của ông Hà Trấn T6 và bà Nguyễn Thị Xuân H2:
Do nhu cầu cần vay tiền xử lý công việc nên chúng tôi có tìm đến ông T6, bà H2
để vay tiền, vàng, tổng cộng 3 lần gồm:
- Lần 1: Khoảng tháng 9-2010 tôi vay 70.000.000 đồng.
- Lần 2: Ngày 21-12-2010: tôi vay 30.000.000 đồng.
- Lần 3: ngày 29-8-2011: tôi vay 5,5 chỉ vàng 98% của hiệu vàng Ngọc
Mai;
Sau khi vay số tiền, vàng này, ban đầu vợ chồng tôi có trả lãi đầy đủ theo
thoả thuận, nhưng sau đó do làm ăn thua lỗ, không còn khả năng thanh toán nên
đến ngày 10-6-2014, giữa vợ chồng tôi và vợ chồng ông T6, bà H2 có thoả
thuận chốt gốc, lãi đến thời điểm đó là 255.000.000đ.
Để đảm bảo trả nợ: chúng tôi đã đưa cho vợ chồng ông T6, bà H2 một phần
bộ hồ sơ nhà đất đã nhận chuyển nhượng của bà L (ông T1 và bà H) gồm: 01
bản chính Đơn xin chuyển nhượng đất của ông Vương Chí S1 bà Đặng Thị N1
cho bà Vương Thị L; 01 bản chính Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Vương Chí S1, bà Đặng Thị N1 và bà Vương Thị L, có sơ đồ vị trí khu
đất xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo; 01 bản chính Đơn xin xác
nhận nhà có nhà ở của bà Vương Thị L (diện tích căn nhà là 91,8m
2
, nhà cấp 4,
chiều rộng 5,1m, chiều dài 18m) và một số biên lai đóng thuế đất hàng năm (từ
năm 2009 đến năm 2013); 01 bản chính Giấy cam kết về việc đặt cọc ngày 08-9-
2009 giữa bên bán ông Vương Chí T1- bà Phạm Thị H và bên mua là bà Trần
Thị H1;
Vài năm sau, chúng tôi có liên lạc với ông T6, bà H2 để trả nợ số tiền
255.000.000đ đã mượn nhưng ông T6, bà H2 nói đã bán số giấy tờ trên cho bà
Lê Thị P. Nhiều lần sau đó chúng tôi yêu cầu ông T6, bà H2 trả lại giấy tờ cho
tôi, tôi trả lại tiền đã vay mượn nhưng họ không thực hiện.
Chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng tôi đưa giấy tờ để làm tin đối với khoản
tiền vay nhưng ông T6, bà H2 đưa giấy tờ đó bán cho bà Lê Thị P là trái pháp
luật. Do đó, việc mua bán này là vô hiệu nên đề nghị Toà án bác yêu cầu khởi
kiện của bà Lê Thị P.
Từ những nội dung trình bày nêu trên, ngoài việc chúng tôi đã nêu quan
điểm không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị P, nay chúng tôi xin
được đưa ra yêu cầu độc lập, cụ thể:
- Buộc ông Hà Tấn T3 và bà Nguyễn Thị Xuân H2 trả lại cho vợ chồng ông
Lê Đình V, bà Phan Thị Nam B hồ sơ nhà đất tại tổ B, phường A, quận T, thành
phố Đà Nẵng đã đưa để đảm bảo khoản tiền nợ 255.000.000đ gồm:
Vợ chồng ông Lê Đình V, bà Phan Thị N có nghĩa vụ trả lại toàn bộ tiền
gốc, lãi phát sinh của số tiền 255.000.000đ theo quy định của pháp luật.
7
- Buộc ông Vương Chí T1, bà Vương Thị L có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
Hợp đồng đặt cọc ngày 08-9-2009 về việc chuyển nhượng Quyền sử dụng đất
100m
2
đất tại tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng và tiến hành chuyển
nhượng sang tên cho vợ chồng ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với nhà và đất
tại tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Trong trường hợp ông T1, bà L không sang tên lô đất trên cho ông Lê Đình
V, bà Phan Thị N thì phải bồi thường một khoản tiền đương giá trị lô đất nêu
trên theo giá thị trường hiện nay hoặc kết quả của đơn vị định giá độc lập do Toà
án trưng cầu.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Vương Thị L trình bày trong
quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Năm 1997, cha mẹ tôi có cho hai chị em một lô đất diện tích 100m tại tổ F
phường A, quận T. Đến năm 2009, tôi chuyển nhượng cho hai vợ chồng ông
Vương Chí T1 và bà Phạm Thị H, có giấy viết tay. Sau đó, ông T1 và bà H lại
chuyển nhượng cho bà Trần Thị H1, trú tại tổ E phường M, quận N, thành phố
Đà Nẵng. Ông T1 và bà H có nhờ vợ chồng tôi ra Phòng C1 ký giấy cam kết
giao đất giữa tôi và bà H1 và một giấy cam kết đặt cọc giữa ông T1 và bà H với
bà H1.
Đến năm 2015, ông Hà Tấn T3 và Nguyễn Thị Xuân H2 có tìm đến nhà
gặp tôi phân trần việc tranh chấp đất giữa ông Lê Đình V, thì tôi có kiểm tra lại
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính chủ bị thất lạc, tôi lập tức
xuống Phòng công chứng kiểm tra nhưng không đúng tên tuổi như hợp đồng.
Tôi đã đề nghị hủy hồ sơ, từ đó đến nay tôi không giao dịch bất cứ ai về hợp
đồng trên.
Đến tháng 6 năm 2021, bà H2 và bà P yêu cầu giao đất, tôi không đồng ý vì
mỗi bên đều giữ một hợp đồng chuyển nhượng trong khi tôi chỉ có một lô đất.
Tôi đã yêu cầu hai bên cung cấp giấy tờ hợp đồng mua bán nhưng phía bà H2
không có hợp đồng mua bán với bà H1.
Đến ngày 04-4-2022, tôi có nhận một bộ hồ sơ khởi kiện qua bưu điện của
bà P với nội dung “việc chuyển nhượng từ bà H1 sang vợ chồng ông Hà Tấn T3
và bà Nguyễn Thị Xuân H2 sang đến tôi đều được sự đồng ý của bà Vương Thị
L” là hoàn toàn bịa đặt và tôi không hề biết.
Đề nghị Tòa án xem xét làm rõ ông T3 và bà H2 chứng minh việc hợp
đồng mua bán. Bà Lê Thị P bịa đặt việc mua bán đất giữa các bên có sự đồng ý
của tôi, đề nghị ông Lê Đình V trả lại bộ hợp đồng chuyển nhượng cho chính
chủ (ba mẹ). Sau khi Tòa án giải quyết đất thuộc về ai thì tôi sẽ phối hợp với vợ
chồng em trai tôi là ông T1 và bà H giao lại cho người đó.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Hà Tấn T3 và bà Nguyễn
Thị Xuân H2 trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Trước đây vợ chồng tôi có căn nhà và đất ở đối diện nhà hàng xóm là ông
Lê Đình V thuộc địa phận T, phường A, quận T. Năm 2010, ông V có ý mua lại
căn nhà và vợ chồng tôi bán để lấy tiền làm nhà tại số E Đ, phường T. Trong
thời gian này, ông V và bà N (vợ ông V) mượn vợ chồng tôi 355.000.000đ tiền
mặt và 05 chỉ vàng 98% và hứa trong 02 đến 03 tháng sẽ hoàn trả để vợ chồng
8
tôi có tiền làm nhà. Trong lúc này, vợ chồng tôi thi công nhà tại đường Đ thì có
đòi lại số tiền mà ông V và bà N đã mượn nhưng ông V và bà N không trả. Vợ
chồng tôi có đòi nhiều lần thì ông V bàn giao lại toàn bộ hồ sơ nhà đất đứng tên
bà Vương Thị L cho vợ chồng tôi để cấn qua số tiền đã mượn. Lúc này vợ chồng
tôi miễn cưỡng không nhận. Cuối cùng vợ chồng tôi đành phải chấp nhận bộ hồ
sơ đất này. Trong thời gian này, vợ chồng tôi vẫn đi nộp thuế hàng năm đều đặn
đứng tên bà Vương Thị L. Đến lúc làm nhà, vợ chồng tôi không có tiền nên
mượn số tiền của chị tôi là bà Lê Thị P số tiền 430.000.000đ để làm nhà. Đến
lúc chị P đòi số tiền trên thì tôi thỏa thuận với chị P bàn giao hồ sơ đất đứng tên
bà Vương Thị L cho chị và cấn lại số tiền trên. Bộ hồ sơ đất này ông V đứng tên
mua, trả tiền cho bà Vương Thị L, người đứng tên mua là bà Trần Thị H1. Theo
tôi được biết thì bà H1 là chị của ông V.
Tôi đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Lê Thị P, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Vương Chí T4 trình bày tại
đơn yêu cầu độc lập và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Nguyên thửa đất tại tổ B phường A, quận T, thành phố Đà nẵng do mẹ tôi
là bà Đặng Thị N1 đứng tên và đến ngày 19-8-2023 đã được tặng cho cho 03
anh em là Vương Chí T4, sinh năm 1961; Vương Chí T1, sinh năm 1969;
Vương Chí T5, sinh năm 1972. Trong tổng số diện tích đất tặng cho 03 anh em
thì có phần diện tích đất đã bán cho người khác.
Đối với yêu cầu khởi kiện, tôi đồng ý ký xác nhận chuyển nhượng phần
diện tích đã bán cho người khác và bàn giao cho người được xác định đứng tên
mua lô đất này.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Vương Chí T5 trình bày tại
đơn yêu cầu độc lập và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Trước đây thửa đất tại tổ B phường A, quận T, thành phố Đà nẵng do bà
Đặng Thị N1 đứng tên chủ sỡ hữu. Bà Đặng Thị N1 đã tặng cho cho 03 anh em
là Vương Chí T4, Vương Chí T5, Vương Chí T1. Anh T1 có bán một bộ hồ sơ
ba lá giấy tờ cho anh V. Anh T1 có trách nhiệm bàn giao như thế nào tôi không
có ý kiến nhưng không được ảnh hưởng đến phần đất của bà N1 tặng cho tôi.
Tuy nhiên hiện nay phần đất này chồng một phần lên phần đất mà tôi nhận
chuyển nhượng của ba mẹ tôi, tôi đề nghị Tòa án xem xét
* Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 và Quyết
định sửa chữa, bổ sung bản án số 58/2024/QĐ-SCBSBA ngày 10-9-2024 của
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ Điều 697, 698, 121, 122, khoản 2 Điều 124 và 137 của Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 117, 122, 129, 131, 500, 501 và 502 Bộ luật dân sự 2015;
Điều 166, 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013; Điều 227, 228 của Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
9
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của bà Lê Thị P đối với ông
Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập về việc “Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
3. Tuyên bố giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 với bà Lê Thị P; giữa bà Lê Thị P
với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H; giữa bà Trần Thị H1 với bà Vương Thị
L vô hiệu và xử lý hậu quả của các giao dịch dân sự như sau:
- Ông Vương Chí T1 được quyền sử dụng 100m2 đất trong tổng số
352,4m2 đất tại thửa số 662, tờ bản đồ 24 tại địa chỉ tổ C phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số DN 404140 do Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố Đ cấp ngày 06-11-2023, chỉnh lý biến động sang tên ngày 25-4-2024
đứng tên ông Vương Chí T1;
- Ông Vương Chí T1 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P 604 triệu tiền thuế
chuyển mục đích sử dụng đất và 529.380.000đ tiền bồi thường, tổng cộng là
1.133.380.000 đồng.
- Ông Vương Chí T1 có nghĩa vụ trả cho ông Lê Đình V, bà Phan Thị N
125 triệu tiền chuyển nhượng và 352.920.000đ tiền bồi thường, tổng cộng là
477.920.000đ;
- Ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P
430 triệu đồng;
2. Án phí dân sự sơ thẩm các đương sự chịu như sau: Bà Lê Thị P phải chịu
300.000đ. Ông Lê Đình V, bà Phan Thị N phải chịu 300.000đ. Ông Vương Chí
T1 phải chịu 60.339.000đ.
3. Về các chi phí tố tụng: Ông Lê Đình V, bà Phan Thị N trả lại cho bà Lê
Thị P số tiền 6.578.600đ; Ông Vương Chí T1 trả lại cho bà Lê Thị P số tiền
6.578.600đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương
ứng thời gian và số tiền phải thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi
hành án của các đương sự.
* Kháng cáo, kháng nghị:
Ngày 16-7-2024, ông Lê Đình V có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nói trên
và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm trên theo hướng không
chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị P, chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê
Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
10
Ngày 23-7-2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng kháng nghị tại Quyết định số 03/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng tuyên xử chấp nhận yêu cầu
độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm
Thị H.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn
phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của ông Lê Đình V và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng do có căn cứ; đề nghị áp dụng Khoản
2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự để sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng
tuyên xử chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với
ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị N, ông Hà Tấn T3,
bà Nguyễn Thị Xuân H2, ông Vương Chí T4, ông Vương Chí T5 đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng đến lần thứ
hai vẫn không có mặt. Bà Vương Thị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy,
Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng
mặt các đương sự này.
[2] Xét kháng cáo của ông Lê Đình V và kháng nghị của Viện kiểm sát
nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng:
[2.1] Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án gồm Đơn xin chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 15-01-1997 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 15-01-1997 đều của ông Vương Chí S1, bà Đặng Thị N1 chuyển
nhượng cho bà Vương Thị L 100m
2
đất thổ cư tại phường A, quận T; Đơn xin
xác nhận có nhà ở không ghi ngày tháng năm của bà Vương Thị L gửi UBND
phường A, quận T và Giấy cam kết v/v đặt cọc ngày 08-9-2009 giữa bên bán
ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H; bên mua bà Trần Thị H1 đối với nhà và đất
tại tổ B kiệt 1m2 đường N, phường A, quận T, diện tích 100m
2
do bà Vương Thị
L đứng tên với giá 125.000.000đ.
11
Đồng thời, ông Lê Đình V trình bày tại Giấy cam kết v/v đặt cọc ngày 08-
9-2009 vợ chồng ông Lê Đình V, bà Phan Thị N mua nhưng để cho chị là bà
Trần Thị H1 đứng tên trên giấy tờ mua bán. Phần trình bày này của ông V được
ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H cũng như bà Trần Thị H1 xác nhận là đúng.
Như vậy, có cơ sở để xác định có sự việc vợ chồng ông Lê Đình V, bà
Phan Thị N nhận chuyển nhượng 100m
2
đất thổ cư tại tổ B, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng của vợ chồng ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H vào ngày
08-9-2009.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DN 404140 ngày 06-11-2023
thì 100m
2
đất thổ cư tại địa chỉ kiệt C, đường N, tổ B, phường A, quận T, thành
phố Đà Nẵng mà các bên đang tranh chấp hiện nay nằm trong thửa đất số 662, tờ
bản đồ số 24, diện tích 352,4m
2
, đã được cấp, chỉnh lý biến động sang tên ông
Vương Chí T1 ngày 25-4-2024.
[2.2] Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất này thì thấy:
Giấy cam kết v/v đặt cọc ngày 08-9-2009 do các các chủ thể mua bán
không trực tiếp tham gia: ông Lê Đình V, bà Phan Thị N nhận chuyển nhượng
nhưng để cho bà Trần Thị H1 đứng tên bên mua; ông Vương Chí T1, bà Phạm
Thị H chuyển nhượng nhưng đứng tên bà Vương Thị L đứng tên bên bán. Sau
khi ký giấy đặt cọc và giao nhận tiền, các bên không thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quy định. Tại thời điểm chuyển nhượng, 100m
2
đất thổ cư tại tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng vẫn đang nằm trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha mẹ ông T1, bà L là ông Vương Chí
S1, bà Đặng Thị N1, chưa được sang tên cho bên bán ghi tại Giấy cam kết v/v
đặt cọc ngày 08-9-2009. Đồng thời, tại Giấy đặt cọc ngày 08-9-2009 này chỉ ghi
chung chung 100m
2
đất thổ cư tại phường A, quận T mà không thể hiện vị trí cụ
thể của 100m
2
đất trong cả thửa đất lớn của ông Vương Chí S1, bà Đặng Thị
N1; có kèm theo hình vẽ tay chừa lối đi vào rộng 1,2m cho diện tích đất này
nhưng không thể hiện chiều dài lối đi.
Tại thời điểm Toà án cấp phúc thẩm xem xét, thẩm định tại chỗ các thửa
đất thì không còn tồn tại lối đi nào để đi vào 100m
2
đất đang tranh chấp để có cơ
sở đối chứng. Từ vị trí đất tranh chấp ra mặt tiền kiệt bị gián đoạn bởi thửa đất
khác mới tiếp đến là thửa đất 662 của ông T1 (thửa đất này gãy khúc, không liên
tục) để thông ra mặt tiền kiệt đường N. Như vậy, diện tích đất tranh chấp 100m
2
nằm phía sau thửa đất 662 của ông T1, không có lối đi vào từ mặt tiền kiệt
đường N, còn phía sau diện tích đất này là một khoảnh đất trong thửa đất 662
của ông T1, không thông ra được đường quy hoạch nhà nước mới làm. Hơn nữa,
tại sơ đồ đo vẽ của Trung tâm K thể hiện các đương sự không xác định thống
nhất vị trí của diện tích 100m
2
đất đang tranh chấp mà chênh lệch cách nhau 5m.
Tại phiên toà phúc thẩm tạm ngừng ngày 10-01-2025, ông Lê Đình V trình
bày sau khi nhận chuyển nhượng 100m
2
đất thổ cư tại tổ B, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng thì ông V có cho người khác thuê làm đậu khuôn trong
khoảng 2-3 năm nhưng sau đó không có điện nước nên không ai thuê nữa; phần
ông V rời khỏi địa phương đi làm ăn xa; diện tích đất tranh chấp bị bỏ hoang,
12
ông V không quản lý, sử dụng từ năm 2012 cho đến nay và ông V cũng không
thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế gì đối với nhà nước.
Từ những tình tiết trên thì có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giao dịch
đặt cọc, chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 100m
2
đất thổ cư tại
phường A, quận T của ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H cho ông Lê Đình V,
bà Phan Thị N là vô hiệu do vi phạm về cả nội dung lẫn hình thức theo quy định
tại các điều 166, 167 Luật Đất đai năm 2013 và các Điều 122, 124, 697, 698 của
Bộ luật dân sự 2005.
[2.3] Ông Lê Đình V sau khi nhận chuyển nhượng 100m
2
đất này thì được
ông Vương Chí T1 giao cho 02 bộ hồ sơ gốc. Ông V đã cầm cố 01 bộ giấy tờ
nhà đất cho ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 để vay tiền đi nơi khác
làm ăn vào khoảng năm 2011. Từ đó đến nay ông V chưa trả tiền gốc và lãi cho
ông T3, bà H2 đồng nào.
Tại hồ sơ không có tài liệu thể hiện việc đặt cọc hoặc chuyển nhượng diện
tích 100m
2
đất thổ cư tại phường A, quận T từ ông Lê Đình V, bà Phan Thị N
qua cho ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 mà ông T3, bà H2 đã ký Hợp
đồng nhận cọc v/v mua bán nhà đất cho bà Lê Thị P vào ngày 18-12-2017. Sau
đó, ngày 06-9-2019, có Giấy nhận tiền thể hiện bà P giao tiền cho ông Vương
Chí T1, bà Phạm Thị H để nộp thuế. Đây là số tiền để ông T1 thực hiện chuyển
đổi mục đích sử dụng của đất không phải là việc mua bán chuyển nhượng và
cũng không phải là thanh toán tiền chuyển nhượng đất vì giữa ông T1 với bà P
không có bất ký thỏa thuận nào về việc chuyển nhượng phấn đất nói trên. Vì
vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên các giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 với bà Lê Thị
P; giữa bà Lê Thị P với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H; giữa bà Trần Thị
H1 với bà Vương Thị L (bản chất là giao dịch giữa ông Lê Đình V, bà Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H) là vô hiệu với những nhận định
được nêu tại bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật và tình hình thực tế của vụ
án.
[3] Xét về xử lý hậu quả của các giao dịch dân sự nói trên thì Toà án cấp sơ
thẩm tuyên ông Vương Chí T1 được quyền sử dụng diện tích 100m
2
đất thổ cư
tại phường A, quận T trong tổng số 352,4m2 đất tại thửa số 662, tờ bản đồ 24 có
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông T1 và ông T1 phải hoàn trả lại
tiền đã nhận từ ông Lê Đình V, bà Lê Thị P có tính đến tiền bồi thường thiệt hại
và ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 phải hoàn trả lại tiền đã nhận từ bà
Lê Thị P là phù hợp với các quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 và Điều
129 Bộ luật dân sự 2015. Các đương sự có nghĩa vụ và quyền lợi trong việc
hoàn trả tiền này gồm ông T1, bà P, ông T3, bà N đều không có kháng cáo, đồng
tình với bản án sơ thẩm.
Riêng ông Lê Đình V kháng cáo yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông với vợ chồng ông Vương
Chí T1 nhưng như nhận định ở trên thì giao dịch dân sự này vô hiệu nên Toà án
cấp sơ thẩm buộc ông T1 có nghĩa vụ trả cho ông V, bà N 125.000.000đ tiền
chuyển nhượng và 352.920.000đ tiền bồi thường (bằng 20% giá trị thẩm định
13
giá của diện tích đất tranh chấp), tổng cộng 477.920.000đ là phù hợp. Do đến
thời điểm hiện nay, khi bà Lê Thị P nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất thì
mới làm tăng giá trị quyền sử dụng đất của diện tích đất đang tranh chấp, công
sức làm tăng giá trị tài sản phần nhiều thuộc về bà P.
Đồng thời, cân đối giá trị thẩm định giá của diện tích 100m
2
đất đang tranh
chấp tại địa chỉ kiệt C, đường N, tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng là
1.764.600.000đ với tổng số tiền ông Vương Chí T1 phải hoàn trả và bồi thường
cho ông V, bà N và bà P là 1.611.300.000đ, gần bằng giá trị lô đất là hợp tình
hợp lý nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông V, không chấp
nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Ông Lê Đình V phải chịu án phí và chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
tại giai đoạn xét xử phúc thẩm do không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
[5] Đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại
phiên tòa phúc thẩm là chưa phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án và quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Điều 148, Điều 293, Khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 697, 698, 121, 122, khoản 2 Điều 124 và 137 của Bộ luật dân sự
năm 2005; Các Điều 117, 122, 129, 131, 500, 501 và 502 Bộ luật dân sự 2015;
Điều 166, 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013;
- Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
I. Không chấp nhận Đơn kháng cáo của ông Lê Đình V;
Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 03/QĐKNPT-VKS-DS ngày
23-7-2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 của
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của bà Lê Thị P đối với ông
Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập về việc “Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
3. Tuyên bố giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 với bà Lê Thị P; giữa bà Lê Thị P
14
với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H; giữa bà Trần Thị H1 với bà Vương Thị
L vô hiệu và xử lý hậu quả của các giao dịch dân sự như sau:
- Ồng Vương Chí Toàn được quyền sử dụng 100m
2
đất trong tổng số
352,4m
2
đất tại thửa số 662, tờ bản đồ 24 tại địa chỉ tổ C phường A, quận T,
thành phố Đà nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số DN 404140 do Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố Đ cấp ngày 06-11-2023, chỉnh lý biến động sang tên ngày 25-4-2024
đứng tên ông Vương Chí T1;
- Ông Vương Chí T1 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P 604.000.000đ tiền
thuế chuyển mục đích sử dụng đất và 529.380.000đ tiền bồi thường, tổng cộng
là 1.133.380.000đ.
- Ông Vương Chí T1 có nghĩa vụ trả cho ông Lê Đình V, bà Phan Thị N
125.000.000đ tiền chuyển nhượng và 352.920.000đ tiền bồi thường, tổng cộng
là 477.920.000đ;
- Ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P
430.000.000đ;
2. Án phí dân sự sơ thẩm các đương sự chịu như sau:
- Bà Lê Thị P phải chịu 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí sơ
thẩm đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0002613 ngày 30-3-2022 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Lê Đình V, bà Phan Thị N phải chịu 300.000đ, được trừ vào tiền tạm
ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0000055 ngày 29-5-
2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Vương Chí T1 phải chịu 60.339.000đ.
3. Về các chi phí tố tụng:
- Ông Lê Đình V, bà Phan Thị N trả lại cho bà Lê Thị P số tiền 6.578.600đ;
- Ông Vương Chí T1 trả lại cho bà Lê Thị P số tiền 6.578.600đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương
ứng thời gian và số tiền phải thi hành án.
II. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Đình V phải chịu 300.000đ nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số
0001389 ngày 19-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng, đã nộp đủ.
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Ông Lê
Đình V phải chịu 2.000.000đ nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng chi phí
tố tụng đã nộp 2.000.000đ tại Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng, đã nộp đủ.
III. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
15
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Thành phố Đà Nẵng;
- TAND Q. Thanh Khê, TPĐN;
- Chi cục THADS Q. Thanh Khê, TPĐN;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Trần Thị Thanh Mai
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm