Bản án số 51/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 51/2025/DS-PT ngày 03/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 51/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 16-7-2024, ông Lê Đình V có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nói trên và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm trên theo hướng không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị P, chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H. Ngày 23-7-2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kháng nghị tại Quyết định số 03/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng tuyên xử chấp nhận yêu cầu độc lập về “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của ông Lê Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 51/2025/DS-PT
Ngày 03 3 2025
V/v “Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
----------------------------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thanh Mai
Các Thẩm phán: Ông Cao Văn Hiếu
Bà Trần Thị Bé
Thư phiên tòa: Trần Ngô Khánh Loan - Thư Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Lương Thị
Chung - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 25-02-2025 03-3-2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng, xét xphúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số 73/2024/TBTL-TA
ngày 04-10-2024 về việc Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm s58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 của Tòa án
nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 192/2024/QĐ-PT ngày
14-11-2024; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Thị P, sinh năm 1963; địa chỉ: K đường H, tổ D,
phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Lê Thị P: Ông Đồng T,
Luật Văn phòng L1 đoàn Luật thành phố Đ; địa chỉ: F H, quận H, thành
phố Đà Nẵng; có mặt.
* Bị đơn: Phạm Thị H, sinh năm 1972 và ông Vương Chí T1, sinh năm
1969;
Người đại diện theo uquyền của Phạm Thị H ông Vương Chí T1;
cùng địa chỉ: D đường N, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy uỷ
quyền lập ngày 18-7-2023 tại Văn phòng C, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ông Đình
V; sinh năm 1972; có mặt và Phan Thị N, sinh năm 1965; vắng mặt; cùng địa
chỉ: Tổ C, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Đình V, Phan Thị
N: Ông Nguyễn Anh T2, Luật Công ty L2 thuộc đoàn Luật sư thành phố Đ;
địa chỉ: B H, quận L, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Vương Thị L, sinh năm 1965; địa chỉ: Số K đường N, phường A, quận
T, thành phố Đà Nẵng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Trần Thị H1, sinh năm 1969 ông Đình S, sinh năm 1970; Địa
chỉ: Tổ I, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo uỷ quyền của Trần Thị H1, ông Đình S Ông
Đình V, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ C, phường A, quận T, thành phố Đà
Nẵng; theo Giấy uỷ quyền lập ngày 27-6-2023 tại UBND phường M, quận N,
thành phố Đà Nẵng; có mặt.
- Ông Tấn T3, sinh năm 1964 Nguyễn Thị Xuân H2, sinh năm
1977;
Người đại diện theo uỷ quyền của Nguyễn Thị Xuân H2 ông Tấn
T3; cùng địa chỉ: K Đ, tổ A, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy
uỷ quyền lập ngày 20-11-2024 tại Phòng C1, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
- Đặng Thị N1. Sinh năm 1932. Địa chỉ: Tổ C A, quận T, thành phố Đà
Nẵng;
Người đại diện theo uỷ quyền của Đặng Thị N1 ông ơng Chí T1;
địa chỉ: D đường N, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; theo Giấy uỷ quyền
lập ngày 04-8-2022 tại Văn phòng C2, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
- Ông Vương Chí T4, sinh năm 1961. Trú tại: K N, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
- Ông Vương Chí T5, sinh năm 1973. Trú tại: K N, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
* Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đình
V.
* Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, tóm tắt như sau:
* Nguyên đơn - Thị P trình bày tại đơn khởi kiện quá trình tham
gia tố tụng tại Toà án:
Vào cuối năm 2017, do nhu cầu về nhà ở, qua người quen giới thiệu tôi
đồng ý mua diện tích đất 100m2 đất ở tại kiệt C, đường N, tổ B, phường A, quận
3
T, thành phố Đà Nẵng, thửa đất số 89+213 tờ bản đồ số 42, trên đất có ngôi nhà
cấp 4 từ vợ chồng ông Hà Tấn T3 và bà Nguyễn Thị Xuân H2 bằng giấy viết tay
với số tiền là 430.000.000đ, tôi đã giao đủ số tiền mua cho ông T3 và bà H2.
Nhà đất tôi mua lại của ông T3 H2 nguồn gốc của ông Vương
Chí S1 và bà Đặng Thị N1 chuyển nhượng cho con gái là bà Vương Thị L hồ
chuyển nhượng đơn xin xác nhận nhà được Ủy ban nhân dân phường A
xác nhận năm 1997.
Vương Thị L thỏa thuận cho ông Vương Chí T1 em L cùng vợ là
Phạm Thị H chuyển nhượng phần đất nhà của mình. Năm 2009 vợ chồng
ông T1, H đã chuyển nhượng phần nhà và đất của L cho Trần Thị H1
số tiền 125.000.000đ làm giấy cam kết viết tay xác nhận đồng ý của
Vương Thị L, sau khi nhận đ tiền ông T1 H đã làm thủ tục chuyển
nhượng và giao giấy tờ nhà đất đứng tên bà L cho bà H1.
Thời gian sau, H1 chuyển nhượng lại nhà đất cho vợ chồng ông Tấn
T3 Nguyễn Thị Xuân H2, vào tháng 12-2017 ông Tấn T3
Nguyễn Thị Xuân H2 chuyển nhượng lại cho tôi. Tôi đã mang hồ sơ nhà đất của
Vương Thị L đến phường A nhờ kiểm tra thì được trả lời hồ hợp pháp
nhưng đất nằm trong quy hoạch nên chưa giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Tôi thỏa thuận nhận chuyển nhượng lại nhà và đất từ vợ chồng ông
T3 H2 với số tiền 430.000.000đ bằng giấy viết tay thỏa thuận với vợ
chồng ông Vương Chí T1, Phạm Thị H sẽ giao đủ số tiền làm nghĩa vụ thuế
với nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến đầu tháng 09-2019, ông T1, H thông báo cho tôi giấy tờ đã làm
xong đnghị tôi giao đsố tiền để đóng thuế 604.000.000đ cam kết trong
02 tháng khi sổ đỏ ông Vương Chí T1 đi công chứng chuyển nhượng sang
tên cho tôi.
Tổng cộng số tiền tôi đã bỏ ra để mua ngôi nhà đất 1.034.000.000₫
trong đó giao cho ông T3, H2 430.000.000đ, giao cho ông T1, H
604.000.000đ.
Sau khi làm xong thủ tục nhà đất và vợ chồng ông T1 H được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mới, tôi nhiều lần yêu cầu vchồng ông Vương
Chí T1 Phạm Thị H thực hiện việc chuyển nhượng quyền sửdụng đất theo
thỏa thuận nhưng vợ chồng ông T1, bà H không có thiện chí thực hiện.
Nay tôi khởi kiện đề nghị Tòa án buộc vợ chồng ông Vương Chí T1
Phạm Thị H thực hiện việc lập thủ tục chuyển nhượng diện tích đất 100m2 thửa
số 89 + 213 tờ bản đồ số 42, địa chỉ kiệt C đường N, tổ B phường A, quận T
theo thoả thuận. Nếu không chuyển nhượng thì buộc H ông T1 trả tiền theo
giá trị thị trường đối với lô đất trên.
* Bị đơn - Phạm Thị H, ông Vương Chí T1 trình bày trong quá trình
tham gia tố tụng tại Toà án:
4
- Năm 1997 cha mẹ tôi: ông Vương Chí S1 Đặng Thị N1
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (100m tại UBND phường A) cho con gái
Vương Thị L.
- Ngày 01-02-2009 Vương Thị L chuyển nhượng lại đất nói trên cho
vợ chồng em trai tôi Vương Chí T1 v là Phạm Thị H (giấy chuyển
nhượng viết tay)
- Ngày 13-10-2009 v chồng tôi Vương Chí T1, Phạm Thị H chuyển
nhượng lại đất trên cho Trần Thị H1 (Giấy cam kết ngày 08-9-2009)
ông Đình V người đứng ra mua đất với Vương Thị L (bà H1 chị dâu
của ông V). Lô đất thuộc trong khu vực giải tỏa khu dân cư số B P giai đoạn 2.
Kể từ đó gia đình tôi đã nhiều lần làm kiến nghị đến UBND thành phố Đ
UBND quận T. Cho đến ngày 19-02-2019 được UBND quận T thông báo cho
chuyển mục đích sử dụng đất.
Đến ngày 06-9-2019, Thị P đem toàn bộ sơ liên quan đất nói
trên đến gặp vợ chồng tôi và nói là mình là chủ sở hữu của lô đất đó.
Trong khi gia đình mẹ tôi Đặng Thị N1 đang làm thủ tục chuyển mục
đích sử dụng đất nông nghiệp lên đất nên P nhờ vợ chồng tôi chuyển
giúp 80m đất nông nghiệp lên thành đất theo bộ hồ Vương Thị L
đứng tên.
Vợ chồng tôi đã nhận 604 triệu đồng của bà P đã nộp vào ngân sách nhà
nước để chuyển mục đích sử dụng đất (có hóa đơn và biên lai).
Nay Thị P yêu cầu vchồng tôi thực hiện việc lập thủ tục chuyển
nhượng đất theo thửa đất 89 + 213 tờ bản đồ số 42, địa chỉ kiệt C N, phường A,
T, thành phố Đà Nẵng chưa đủ svì giữa vợ chồng tôi Thị P
không thực hiện mua bán đất với nhau. Chúng tôi stiếp tục thực hiện thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 89 + 213, tờ bản đồ số 42,
diện tích đất 100m
2
tại địa chỉ kiệt C đường N, tổ B phường A, quận T, Đà Nẵng
cho người được Tòa án xác định đứng tên mua lô đất này.
Hin nay, thửa đt này nm trong giy chng nhn quyn s dụng đất
quyn s hu nhà tài sn khác gn lin với đất s DN 404140 do Văn
phòng đăng đất đai thành ph Đ cp ngày 06-11-2023, chnh biến động
sang tên ngày 25-4-2024 tại địa ch t C phường A, qun T, thành ph Đà Nẵng
đứng tên ông ơng Chí T1.
* Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Đình V, Phan Th N
trình bày tại đơn yêu cầu độc lp và trong quá trình tham gia t tng ti Toà án:
Năm 2009, tôi nhận chuyển nhượng một đất diện tích 100m
2
, trên đất
một ngôi nhà khoảng 90m
2
, bị hỏng một phần còn tầm 30m
2
vẫn sử dụng
được tại Tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chúng tôi nhờ
chị gái Trần Thị H1 đứng tên hộ giấy xác nhận của H1 về việc đứng
tên hộ trong giấy đặt cọc và mua bán.
Người bán đất này cho vợ chồng tôi Vương Thị L, người nhận tiền
là ông Vương Chí T1 và bà Phạm Thị H.
5
Tại thời điểm đặt cọc, ngày 08-9-2009, bên bán cung cấp cho chúng tôi một
số hồ sơ gồm:
+ Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Vương Chí S1
Đặng Thị N1; cùng trú tại tổ 6b Phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng cho
Vương Thị L xác nhận của UBND phường A dấu treo của Sở Địa chính
Nhà đất thành phố Đà Nẵng. Thửa đất có tứ cận phía Đông giáp ruộng, phía Tây
giáp nhà ông T1, phía Bắc giáp đất ông S1, phía Nam giáp đất ông S1. Diện tích
của thửa đất chuyển nhượng 100m
2
, loại đất Thổ cư; mục đích sử dụng làm
nhà ở; thời hạn sử dụng đất lâu dài.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương Chí S1,
Đặng Thị N1 với bà Vương Thị L đối với thửa đất nêu trên có xác nhận của Chủ
tịch UBND phường A Đào Ngọc S2 với nội dung: “Vợ chồng ông Vương Chí
S1 và bà Vương Thị L, hai bên đã thoả thuận ký tên trên là đúng”.
+ Sơ đồ vị trí khu đất xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
+ Đơn xin xác nhận nhà của Vương Thị L (có xác nhận của UBND
phường A với nội dung: “Bà Vương Thị L hiện nhà tại A, Đà Nẵng. Nhà
không có tranh chấp, quy hoạch”.
Để đảm bảo việc chuyển nhượng, ngày 08-9-2009, giữa bà Vương Thị L và
vợ chồng em trai Vương Chí T1, Phạm Thị H đã lập “Giấy cam kết về việc
Đặt cọc”. Nội dung giấy này thể hiện Bên bán ông Vương Chí T1, Phạm
Thị H Bên mua Trần Thị H1. Tại thời điểm đặt cọc hai bên hẹn nhau
không quá 15 kể từ ngày 25-9-2009 ra công chứng ký giấy tờ và bên bán sẽ giao
toàn bộ giấy tờ nhà đất.
Do nhà, đất này đang nằm trong vùng quy hoạch nên ngày 13-10-2009,
giữa Vương Thị L (Bên A) Trần Thị H1 (Bên B) tiếp tục làm “Giấy
cam kết vviệc mua bán ngiao quyền đứng tên sử dụng đất” đối với nhà
và đất đã đặt cọc trước đó.
Sau đó chúng tôi đã thanh toán toàn btiền, L, ông T1 H đã giao
toàn bộ giấy tnhà đất cho tôi giữ đồng thời bàn giao căn nhà nói trên cho tôi
quản lý, sử dụng. Tôi cho người khác thuê và nhận tiền đều đặn hàng tháng, đến
khoảng năm 2012 do nhà xuống cấp quá, không thể thuê được nữa nên người ta
trả nhà cho tôi. Tôi không sử dụng và để vậy cho đến nay.
Trong khoảng thời gian mua nhà và đất, do nhà đất nêu trên chưa đứng
tên tôi nên từ năm 2009 đến 2013, ông Vương Chí T1 là người đi nộp thuế đất,
sau đó tôi trả lại tiền và nhận lại các biên lai thuế. Số biên lai này tôi đã đưa cho
ông Trấn T6 Nguyễn Thị Xuân H2 giữ khi vay tiền. Riêng năm 2023,
Tổ dân P1 gọi tôi trực tiếp đến nhận giấy thuế tôi người trực tiếp đi nộp
thuế.
Như vậy, việc chúng tôi nhận đặt cọc để mua nhà và đất tại tổ B, phường A
của Vương Thị L (do ông Vương Văn T7 đứng tên) đã thực hiện gần như
hoàn thành: Bên mua giao đủ tiền, Bên bán giao nhà đất. Việc mua bán chỉ
trừ việc ra công chứng sang tên quyền sử dụng đất vướng quy hoạch. Nay
6
việc quy hoạch này đã được thành phố Đà Nẵng xoá bỏ nên tôi yêu cầu
Vương Thị L trách nhiệm cùng với ông Vương Chí T1 tiến hành công chứng
sang tên thửa đất nêu trên cho chúng tôi theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối vi khon tin vay ca ông Trn T6 Nguyn Th Xuân H2:
Do nhu cu cn vay tin x lý công việc nên chúng tôi có tìm đến ông T6, bà H2
để vay tin, vàng, tng cng 3 ln gm:
- Lần 1: Khoảng tháng 9-2010 tôi vay 70.000.000 đồng.
- Lần 2: Ngày 21-12-2010: tôi vay 30.000.000 đồng.
- Lần 3: ngày 29-8-2011: tôi vay 5,5 chvàng 98% của hiệu vàng Ngọc
Mai;
Sau khi vay số tiền, vàng này, ban đầu vợ chồng tôi trả lãi đầy đtheo
thoả thuận, nhưng sau đó do làm ăn thua lỗ, không còn khả năng thanh toán nên
đến ngày 10-6-2014, giữa vợ chồng tôi và vợ chồng ông T6, H2 thoả
thuận chốt gốc, lãi đến thời điểm đó là 255.000.000đ.
Để đảm bảo trả nợ: chúng tôi đã đưa cho vợ chồng ông T6, bà H2 một phần
bộ hồ nhà đất đã nhận chuyển nhượng của L (ông T1 bà H) gồm: 01
bản chính Đơn xin chuyển nhượng đất của ông Vương Chí S1 Đặng Thị N1
cho bà Vương Thị L; 01 bản chính Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Vương Chí S1, Đặng Thị N1Vương Thị L, có sơ đồ vị trí khu
đất xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo; 01 bản chính Đơn xin xác
nhận nhà nhà của Vương Thị L (diện tích căn nhà là 91,8m
2
, nhà cấp 4,
chiều rộng 5,1m, chiều dài 18m) một số biên lai đóng thuế đất hàng năm (t
năm 2009 đến năm 2013); 01 bản chính Giấy cam kết về việc đặt cọc ngày 08-9-
2009 giữa bên bán ông Vương Chí T1- Phạm Thị H bên mua là Trần
Thị H1;
Vài năm sau, chúng tôi liên lạc với ông T6, H2 để trả nợ số tiền
255.000.000đ đã mượn nhưng ông T6, H2 nói đã bán số giấy tờ trên cho
Thị P. Nhiều lần sau đó chúng tôi yêu cầu ông T6, H2 trả lại giấy tờ cho
tôi, tôi trả lại tiền đã vay mượn nhưng họ không thực hiện.
Chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng tôi đưa giấy tờ để làm tin đối với khoản
tiền vay nhưng ông T6, H2 đưa giấy tờ đó bán cho Thị P trái pháp
luật. Do đó, việc mua bán này hiệu nên đề nghị Toà án bác yêu cầu khởi
kiện của bà Lê Thị P.
Từ những nội dung trình bày nêu trên, ngoài việc chúng tôi đã nêu quan
điểm không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Thị P, nay chúng tôi xin
được đưa ra yêu cầu độc lập, cụ thể:
- Buc ông Hà Tn T3 và bà Nguyn Th Xuân H2 tr li cho v chng ông
Lê Đình V, bà Phan Th Nam B h sơ nhà đất ti t B, phường A, qun T, thành
ph Đà Nẵng đã đưa để đảm bo khon tin n 255.000.000đ gồm:
Vợ chồng ông Đình V, Phan Thị N nghĩa vụ trả lại toàn bộ tiền
gốc, lãi phát sinh của số tiền 255.000.000đ theo quy định của pháp luật.
7
- Buc ông Vương Chí T1, bà Vương Thị L nghĩa v tiếp tc thc hin
Hợp đồng đặt cc ngày 08-9-2009 v vic chuyển nhượng Quyn s dụng đất
100m
2
đt ti t B, phường A, qun T, thành ph Đà Nẵng tiến hành chuyn
nhưng sang tên cho v chng ông Lê Đình V, bà Phan Th N đối với nhà và đất
ti t B, phưng A, qun T, thành ph Đà Nẵng.
Trong trường hợp ông T1, bà L không sang tên lô đất trên cho ông Lê Đình
V, bà Phan Thị N thì phải bồi thường một khoản tiền đương gtrị đất nêu
trên theo giá thị trường hiện nay hoặc kết quả của đơn vị định giá độc lập do Toà
án trưng cầu.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Vương Thị L trình bày trong
quá trình tham gia tố tụng tại Toà án:
Năm 1997, cha mẹ tôi cho hai ch em một lô đất din tích 100m ti t F
phưng A, qun T. Đến năm 2009, tôi chuyển nhượng cho hai v chng ông
Vương Chí T1 Phm Th H, giy viết tay. Sau đó, ông T1 H li
chuyển nhượng cho Trn Th H1, trú ti t E phường M, qun N, thành ph
Đà Nẵng. Ông T1 và H nh v chng tôi ra Phòng C1 giy cam kết
giao đt gia tôi và H1 mt giy cam kết đặt cc gia ông T1 H vi
H1.
Đến năm 2015, ông Tn T3 Nguyn Th Xuân H2 tìm đến nhà
gp tôi phân trn vic tranh chấp đất gia ông Đình V, thì tôi kim tra li
hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất chính ch b tht lc, tôi lp tc
xung Phòng công chng kiểm tra nhưng không đúng tên tuổi như hợp đồng.
Tôi đã đề ngh hy h sơ, t đó đến nay i không giao dch bt c ai v hp
đồng trên.
Đến tháng 6 năm 2021, bà H2 và bà P yêu cầu giao đất, tôi không đồng ý vì
mỗi bên đu gi mt hợp đng chuyển nhượng trong khi tôi ch một đt.
Tôi đã yêu cầu hai bên cung cp giy t hợp đồng mua bán nhưng phía H2
không có hợp đng mua bán vi bà H1.
Đến ngày 04-4-2022, tôi nhn mt b h khởi kiện qua bưu đin ca
P vi nội dung “việc chuyển nhượng tH1 sang v chng ông Tn T3
Nguyn Th Xuân H2 sang đến tôi đều được s đồng ý ca Vương Thị
L” là hoàn toàn bịa đặt và tôi không h biết.
Đề ngh Tòa án xem xét làm ông T3 và H2 chng minh vic hp
đồng mua bán. Th P bịa đặt việc mua bán đt gia các bên s đồng ý
của tôi, đề ngh ông Đình V tr li b hợp đồng chuyển nhượng cho chính
ch (ba m). Sau khi Tòa án gii quyết đt thuc v ai thì tôi s phi hp vi v
chng em trai tôi là ông T1 và bà H giao lại cho người đó.
* Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Tn T3 Nguyn
Th Xuân H2 trình bày trong quá trình tham gia t tng ti Toà án:
Trước đây vợ chồng tôi căn nhà đất đối diện nhà hàng m ông
Đình V thuộc địa phận T, phường A, quận T. Năm 2010, ông V ý mua lại
căn nvợ chồng tôi bán để lấy tiền làm ntại số E Đ, phường T. Trong
thời gian này, ông V N (vợ ông V) mượn vợ chồng tôi 355.000.000đ tiền
mặt 05 chỉ vàng 98% hứa trong 02 đến 03 tháng sẽ hoàn trả để vợ chồng
8
tôi tiền làm nhà. Trong lúc này, vợ chồng tôi thi công nhà tại đường Đ thì
đòi lại số tiền ông V bà N đã mượn nhưng ông V N không trả. Vợ
chồng tôi có đòi nhiều lần thì ông V bàn giao lại toàn bộ hồ sơ nhà đất đứng tên
Vương Thị L cho vợ chồng tôi để cấn qua số tiền đã mượn. Lúc này vợ chồng
tôi miễn cưỡng không nhận. Cuối cùng vợ chồng tôi đành phải chấp nhận bộ hồ
đất này. Trong thời gian này, vợ chồng tôi vẫn đi nộp thuế hàng năm đều đặn
đứng tên Vương Thị L. Đến lúc làm nhà, vchồng tôi không tiền nên
mượn số tiền của chị tôi ThP số tiền 430.000.000đ để làm nhà. Đến
lúc chị P đòi số tiền trên thì tôi thỏa thuận với chị P bàn giao hồ sơ đất đứng tên
Vương Thị L cho chị và cấn lại số tiền trên. Bộ hồ sơ đất này ông V đứng tên
mua, trả tiền cho bà Vương Thị L, người đứng tên mua Trần Thị H1. Theo
tôi được biết thì bà H1 là chị của ông V.
Tôi đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Thị P, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Vương Chí T4 trình bày ti
đơn yêu cầu đc lp và trong quá trình tham gia t tng ti Toà án:
Nguyên thửa đất tại tổ B phường A, quận T, thành phố Đà nẵng do mẹ tôi
Đặng Thị N1 đứng tên đến ngày 19-8-2023 đã được tặng cho cho 03
anh em Vương Chí T4, sinh năm 1961; Vương Chí T1, sinh năm 1969;
Vương Chí T5, sinh năm 1972. Trong tổng số diện tích đất tặng cho 03 anh em
thì có phần diện tích đất đã bán cho người khác.
Đối với yêu cầu khởi kiện, tôi đồng ý xác nhận chuyển nhượng phần
diện tích đã bán cho người khác bàn giao cho người được xác định đứng tên
mua lô đất này.
* Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Vương Chí T5 trình bày ti
đơn yêu cầu đc lp và trong quá trình tham gia t tng ti Toà án:
Trước đây thửa đất tại tổ B phường A, quận T, thành phố Đà nẵng do
Đặng Thị N1 đứng tên chủ shữu. Đặng Thị N1 đã tặng cho cho 03 anh em
Vương Chí T4, Vương Chí T5, Vương Chí T1. Anh T1 bán một bộ hồ
ba giấy tcho anh V. Anh T1 trách nhiệm bàn giao như thế nào tôi không
ý kiến nhưng không được ảnh hưởng đến phần đất của N1 tặng cho tôi.
Tuy nhiên hiện nay phần đất này chồng một phần lên phần đất tôi nhận
chuyển nhượng của ba mẹ tôi, tôi đề nghị Tòa án xem xét
* Bản án dân sự thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 Quyết
định sửa chữa, bổ sung bản án số 58/2024/QĐ-SCBSBA ngày 10-9-2024 của
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ Điều 697, 698, 121, 122, khoản 2 Điều 124 137 của Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 117, 122, 129, 131, 500, 501 502 Bộ luật dân sự 2015;
Điều 166, 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013; Điều 227, 228 của Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
9
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Thị P đối với ông
Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập về việc Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcủa ông Đình V, Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
3. Tuyên bố giao dịch dân svề việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 với bà Lê Thị P; giữa bà Lê Thị P
với ông Vương Chí T1, Phạm Thị H; giữa Trần Thị H1 với Vương Thị
L vô hiệu và xử lý hậu quả của các giao dịch dân sự như sau:
- Ông Vương Chí T1 được quyền sử dụng 100m2 đất trong tổng số
352,4m2 đất tại thửa số 662, tờ bản đồ 24 tại địa chỉ tổ C phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất số DN 404140 do Văn phòng đăng đất đai
thành phố Đ cấp ngày 06-11-2023, chỉnh biến động sang tên ngày 25-4-2024
đứng tên ông Vương Chí T1;
- Ông Vương Chí T1 nghĩa vụ trả cho Thị P 604 triệu tiền thuế
chuyển mục đích sử dụng đất 529.380.000đ tiền bồi thường, tổng cộng
1.133.380.000 đồng.
- Ông Vương Chí T1 nghĩa vụ trả cho ông Đình V, Phan Thị N
125 triệu tiền chuyển nhượng 352.920.000đ tiền bồi thường, tổng cộng
477.920.000đ;
- Ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P
430 triệu đồng;
2. Án phí dân sự sơ thẩm các đương sự chịu như sau: Bà Lê Thị P phải chịu
300.000đ. Ông Đình V, Phan Thị N phải chịu 300.000đ. Ông Vương Chí
T1 phải chịu 60.339.000đ.
3. Về các chi phí tố tụng: Ông Đình V, Phan Thị N trả lại cho
Thị P số tiền 6.578.600đ; Ông Vương Chí T1 trả lại cho Thị P số tiền
6.578.600đ.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương
ứng thời gian và số tiền phải thi hành án.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo nghĩa vụ thi
hành án của các đương sự.
* Kháng cáo, kháng nghị:
Ngày 16-7-2024, ông Đình V đơn kháng cáo bản án thẩm nói trên
đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm trên theo hướng không
chấp nhận đơn khởi kiện của Thị P, chấp nhận yêu cầu độc lập vYêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcủa ông
Đình V, bà Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, Phạm Thị H.
10
Ngày 23-7-2024, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng kháng nghị tại Quyết định s03/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng tuyên xử chấp nhận yêu cầu
độc lập về Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đấtcủa ông Đình V, Phan Thị N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm
Thị H.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết ván giai đoạn
phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đnghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của ông Đình V kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng do căn cứ; đề nghị áp dụng Khoản
2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự để sửa một phần bản án thẩm theo hướng
tuyên xử chấp nhận yêu cầu độc lập về Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcủa ông Đình V, Phan Thị N đối với
ông Vương Chí T1, Phạm Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm:
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Thị N, ông Tấn T3,
Nguyễn Thị Xuân H2, ông Vương Chí T4, ông Vương Chí T5 đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng đến lần thứ
hai vẫn không có mặt. Bà Vương Thị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy,
Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng
mặt các đương sự này.
[2] Xét kháng cáo ca ông Đình V kháng ngh ca Vin kim sát
nhân dân qun Thanh Khê, thành ph Đà Nẵng:
[2.1] Căn c các tài liu ti h vụ án gm Đơn xin chuyển nhượng
quyn s dụng đt ngày 15-01-1997 Hợp đồng chuyển nhượng quyn s
dụng đt ngày 15-01-1997 đu ca ông Vương Chí S1, bà Đặng Th N1 chuyn
nhưng cho Vương Thị L 100m
2
đất th tại phưng A, qun T; Đơn xin
xác nhn nhà không ghi ngày tháng năm ca Vương Thị L gi UBND
phưng A, qun T Giy cam kết v/v đt cc ngày 08-9-2009 gia bên bán
ông Vương Chí T1, Phm Th H; bên mua Trn Th H1 đối với nhà đất
ti t B kiệt 1m2 đường N, phường A, qun T, din tích 100m
2
do bà Vương Thị
L đứng tên với giá 125.000.000đ.
11
Đồng thi, ông Đình V trình bày ti Giy cam kết v/v đt cc ngày 08-
9-2009 v chng ông Đình V, Phan Th N mua nhưng đ cho ch
Trn Th H1 đứng tên trên giy t mua bán. Phn trình bày này ca ông V đưc
ông Vương Chí T1, Phm Th H cũng như bà Trn Th H1 xác nhận là đúng.
Như vậy, sở để xác định s vic v chng ông Đình V,
Phan Th N nhn chuyển nhượng 100m
2
đất th ti t B, phường A, qun T,
thành ph Đà Nẵng ca v chng ông Vương Chí T1, Phm Th H vào ngày
08-9-2009.
Theo Giy chng nhn quyn s dng đất s DN 404140 ngày 06-11-2023
thì 100m
2
đất th tại địa ch kiệt C, đường N, t B, phường A, qun T, thành
ph Đà Nẵng mà các bên đang tranh chp hin nay nm trong thửa đất s 662, t
bản đ s 24, din tích 352,4m
2
, đã được cp, chnh biến động sang tên ông
Vương Chí T1 ngày 25-4-2024.
[2.2] Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất này thì thấy:
Giấy cam kết v/v đặt cọc ngày 08-9-2009 do các các chủ thể mua bán
không trực tiếp tham gia: ông Đình V, Phan Thị N nhận chuyển nhượng
nhưng để cho Trần Thị H1 đứng tên bên mua; ông Vương Chí T1, Phạm
Thị H chuyển nhượng nhưng đứng tên Vương Thị L đứng tên bên bán. Sau
khi ký giấy đặt cọc và giao nhận tiền, các bên không thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quy định. Tại thời điểm chuyển nhượng, 100m
2
đất thổ tại tổ B, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng vẫn đang nằm trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha mẹ ông T1, bà L là ông Vương Chí
S1, Đặng Thị N1, chưa được sang tên cho bên bán ghi tại Giấy cam kết v/v
đặt cọc ngày 08-9-2009. Đồng thời, tại Giấy đặt cọc ngày 08-9-2009 này chỉ ghi
chung chung 100m
2
đất thổ cư tại phường A, quận T mà không thể hiện vị trí cụ
thể của 100m
2
đất trong cả thửa đất lớn của ông Vương Chí S1, Đặng Thị
N1; kèm theo hình vẽ tay chừa lối đi vào rộng 1,2m cho diện ch đất này
nhưng không thể hiện chiều dài lối đi.
Tại thời điểm Toà án cấp phúc thẩm xem xét, thẩm định tại chỗ các thửa
đất thì không còn tồn tại lối đi nào để đi vào 100m
2
đất đang tranh chấp để có cơ
sở đối chứng. Từ vị tđất tranh chấp ra mặt tiền kiệt bị gián đoạn bởi thửa đất
khác mới tiếp đến là thửa đất 662 của ông T1 (thửa đất này gãy khúc, không liên
tục) để thông ra mặt tiền kiệt đường N. Như vậy, diện tích đất tranh chấp 100m
2
nằm phía sau thửa đất 662 của ông T1, không lối đi vào từ mặt tiền kiệt
đường N, còn phía sau diện tích đất này là một khoảnh đất trong thửa đất 662
của ông T1, không thông ra được đường quy hoạch nhà nước mới làm. Hơn nữa,
tại đồ đo vẽ của Trung tâm K thhiện các đương sự không xác định thống
nhất vị trí của diện tích 100m
2
đất đang tranh chấp mà chênh lệch cách nhau 5m.
Tại phiên toà phúc thẩm tạm ngừng ngày 10-01-2025, ông Đình V trình
bày sau khi nhận chuyển nhượng 100m
2
đất thổ tại tổ B, phường A, quận T,
thành phố Đà Nẵng thì ông V cho người khác thuê làm đậu khuôn trong
khoảng 2-3 năm nhưng sau đó không có điện nước nên không ai thuê nữa; phần
ông V rời khỏi địa phương đi làm ăn xa; diện tích đất tranh chấp bị bỏ hoang,
12
ông V không quản lý, sử dụng từ năm 2012 cho đến nay ông V cũng không
thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế gì đối với nhà nước.
Từ những tình tiết trên thì sở để Hội đồng xét xử xác định giao dịch
đặt cọc, chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 100m
2
đất thổ tại
phường A, quận T của ông Vương Chí T1, Phạm Thị H cho ông Đình V,
Phan Thị N là vô hiệu do vi phạm về cả nội dung lẫn hình thức theo quy định
tại các điều 166, 167 Luật Đất đai năm 2013 và các Điều 122, 124, 697, 698 của
Bộ luật dân sự 2005.
[2.3] Ông Đình V sau khi nhận chuyển nhượng 100m
2
đất này thì được
ông Vương Chí T1 giao cho 02 bộ hồ gốc. Ông V đã cầm cố 01 bộ giấy tờ
nhà đất cho ông Tấn T3, Nguyễn Thị Xuân H2 để vay tiền đi nơi khác
làm ăn vào khoảng năm 2011. Từ đó đến nay ông V chưa trả tiền gốc lãi cho
ông T3, bà H2 đồng nào.
Tại hồ sơ không có tài liệu thể hiện việc đặt cọc hoặc chuyển nhượng diện
tích 100m
2
đất thổ tại phường A, quận T tông Đình V, bà Phan Thị N
qua cho ông Tấn T3, Nguyễn Thị Xuân H2 ông T3, H2 đã Hợp
đồng nhận cọc v/v mua bán nhà đất cho Thị P vào ngày 18-12-2017. Sau
đó, ngày 06-9-2019, Giấy nhận tiền thể hiện P giao tiền cho ông Vương
Chí T1, Phạm Thị H để nộp thuế. Đây số tiền để ông T1 thực hiện chuyển
đổi mục đích sử dụng của đất không phải việc mua bán chuyển nhượng
cũng không phải thanh toán tiền chuyển nhượng đất giữa ông T1 với P
không bất thỏa thuận nào về việc chuyển nhượng phấn đất nói trên.
vậy, Toà án cấp thẩm tuyên các giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Tấn T3, Nguyễn Thị Xuân H2 với Thị
P; giữa Thị P với ông Vương Chí T1, Phạm Thị H; giữa Trần Thị
H1 với Vương Thị L (bản chất là giao dịch giữa ông Đình V, Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, Phạm Thị H) hiệu với những nhận định
được nêu tại bản án thẩm căn cứ pháp luật tình hình thực tế của vụ
án.
[3] Xét v x hu qu ca các giao dch dân s nói trên thì Toà án cấp sơ
thm tuyên ông Vương Chí T1 đưc quyn s dng din tích 100m
2
đất th
ti phưng A, qun T trong tng s 352,4m2 đất ti tha s 662, t bản đồ 24
Giy chng nhn quyn s dụng đất đứng tên ông T1 và ông T1 phi hoàn tr li
tiền đã nhận t ông Đình V, Lê Th P tính đến tin bồi thường thit hi
ông Tn T3, Nguyn Th Xuân H2 phi hoàn tr li tiền đã nhận t
Th P là phù hp với các quy đnh tại Điều 137 B lut dân s 2005 và Điều
129 B lut dân s 2015. Các đương s nghĩa vụ quyn li trong vic
hoàn tr tin này gm ông T1, bà P, ông T3, bà N đều không có kháng cáo, đồng
tình vi bản án sơ thẩm.
Riêng ông Đình V kháng cáo yêu cu tiếp tc thc hin hợp đồng
chuyển nhượng quyn s dụng đất ca v chng ông vi v chng ông Vương
Chí T1 nhưng như nhận định trên thì giao dch dân s này hiu nên Toà án
cấp thẩm buc ông T1 nghĩa vụ tr cho ông V, N 125.000.000đ tin
chuyển nhượng 352.920.000đ tiền bồi thường (bng 20% giá tr thẩm định
13
giá ca diện tích đất tranh chp), tng cộng 477.920.000đ phù hợp. Do đến
thời điểm hin nay, khi Th P np tin chuyn mục đích sử dụng đất thì
mới làm tăng giá trị quyn s dụng đất ca diện tích đất đang tranh chp, công
sức làm tăng giá tr tài sn phn nhiu thuc v bà P.
Đồng thời, cân đối giá tr thẩm định giá ca din tích 100m
2
đất đang tranh
chp tại địa ch kiệt C, đường N, t B, phường A, qun T, thành ph Đà Nẵng
1.764.600.00vi tng s tin ông Vương Chí T1 phi hoàn tr và bồi thường
cho ông V, N P 1.611.300.000đ, gần bng giá tr đất hp tình
hp nên Hội đồng xét x không chp nhn kháng cáo ca ông V, không chp
nhn kháng ngh ca Vin kim sát, gi nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Ông Đình V phải chịu án phí chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
tại giai đoạn xét xử phúc thẩm do không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
[5] Đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại
phiên tòa phúc thẩm là chưa phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Điều 148, Điều 293, Khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 697, 698, 121, 122, khoản 2 Điều 124 và 137 của Bộ luật dân sự
năm 2005; Các Điều 117, 122, 129, 131, 500, 501 502 Bộ luật dân s2015;
Điều 166, 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013;
- Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
I. Không chấp nhận Đơn kháng cáo của ông Lê Đình V;
Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 03/QĐKNPT-VKS-DS ngày
23-7-2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 10-7-2024 của
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Thị P đối với ông
Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập về việc Yêu cầu tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcủa ông Đình V, Phan Thị
N đối với ông Vương Chí T1, bà Phạm Thị H.
3. Tuyên bố giao dịch dân svề việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 với bà Lê Thị P; giữa bà Thị P
14
với ông Vương Chí T1, Phạm Thị H; giữa Trần Thị H1 với bà Vương Thị
L vô hiệu và xử lý hậu quả của các giao dịch dân sự như sau:
- Ồng Vương Chí Toàn được quyền sử dụng 100m
2
đất trong tổng số
352,4m
2
đất tại thửa số 662, tbản đồ 24 tại địa chỉ tổ C phường A, quận T,
thành phố Đà nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất số DN 404140 do Văn phòng đăng đất đai
thành phố Đ cấp ngày 06-11-2023, chỉnh biến động sang tên ngày 25-4-2024
đứng tên ông Vương Chí T1;
- Ông Vương Chí T1 nghĩa vụ trả cho Thị P 604.000.000đ tiền
thuế chuyển mục đích sử dụng đất 529.380.00tiền bồi thường, tổng cộng
là 1.133.380.000đ.
- Ông Vương Chí T1 nghĩa vụ trả cho ông Đình V, Phan Thị N
125.000.000đ tiền chuyển nhượng 352.920.000đ tiền bồi thường, tổng cộng
là 477.920.000đ;
- Ông Hà Tấn T3, bà Nguyễn Thị Xuân H2 có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P
430.000.000đ;
2. Án phí dân sự sơ thẩm các đương sự chịu như sau:
- Thị P phải chịu 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí
thẩm đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0002613 ngày 30-3-2022 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Đình V, bà Phan Thị N phải chịu 300.000đ, được trừ vào tiền tạm
ứng án pthẩm đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0000055 ngày 29-5-
2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Vương Chí T1 phải chịu 60.339.000đ.
3. Về các chi phí tố tụng:
- Ông Lê Đình V, bà Phan Thị N trả lại cho bà Lê Thị P số tiền 6.578.600đ;
- Ông Vương Chí T1 trả lại cho bà Lê Thị P số tiền 6.578.600đ.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương
ứng thời gian và số tiền phải thi hành án.
II. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đình V phải chịu 300.000đ nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số
0001389 ngày 19-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng, đã nộp đủ.
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Ông
Đình V phải chịu 2.000.000đ nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng chi phí
tố tụng đã nộp 2.000.000đ tại Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng, đã nộp đủ.
III. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
15
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Thành phố Đà Nẵng;
- TAND Q. Thanh Khê, TPĐN;
- Chi cục THADS Q. Thanh Khê, TPĐN;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Trần Thị Thanh Mai
Tải về
Bản án số 51/2025/DS-PT Bản án số 51/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 51/2025/DS-PT Bản án số 51/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất