Bản án số 33/2025/DS-PT ngày 21/02/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 33/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 33/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 33/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 33/2025/DS-PT ngày 21/02/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Thuận |
Số hiệu: | 33/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 33/2025/DS-PT
Ngày: 21/02/2025
V/v: “Yêu cầu tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất vô hiệu”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Hòa
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thanh Thái
Ông Đặng Văn Cường
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Lài - Tòa án nhân dân tnh Bnh Thun.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tnh Bnh Thun tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Linh- Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13, 14 và 21 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tnh Bnh Thun xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
235/2024/TLPT-DS ngày 13 tháng 11 năm 2024 về việc: “Yêu cầu tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số
93/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phan
Thiết bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
288/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng 12 năm 2024 và Thông báo hoãn phiên tòa số
01/2025/QĐ-PT ngày 08/01/2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đu Thị H– sinh năm 1947;
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh L ;
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh ThunTheo hợp đồng ủy
quyền chứng thực ngày 03/01/2024.
Bị đơn: Ông Phạm Trần Anh V– sinh năm 1984;
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thiên H1; Địa ch: E N, phường P,
thành phố P, tnh Bnh Thun
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Phan Thị Mai Kăm 1973
Địa ch: Khu phố C, phường H, qun I, thành phố Hồ Chí Minh
2/ Ông Phan Thanh É– sinh năm 1974
Địa ch: Khu phố H, phường B, thành phố P, tnh Bnh Thun
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh L, sinh năm 1976; Địa ch:
Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh ThunTheo hợp đồng ủy quyền
chứng thực ngày 03/01/2024.
3/ Ông Phan Thanh L – sinh năm 1976
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun
4/ Ông Phan Thanh K – sinh năm 1979
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun
5/ Bà Phan Thị Thanh H2– sinh năm 1981
Địa ch: Thôn T, xã H, huyện H, tnh Bnh Thun
6/ Bà Trần Huỳnh Mộng T– sinh năm 1986
Địa ch: Khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Huỳnh Mộng T: Bà Trần Thị
Thiên H1- sinh năm 1966; Địa ch: E N, phường P, thành phố P, tnh Bnh Thun
Người kháng cáo: Ông Phạm Trần Anh V - là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm th nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong hồ sơ và tại phiên tòa người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trnh bày:
Bà Đu Thị H được quyền thừa kế theo quy định của pháp lut từ chồng bà là
ông Phan Thanh C(chết năm 2010), thửa đất có tổng diện tích: 1.670m
2
và 1.430m
2
đất rừng dương mục đích sử dụng đất cây công nghiệp và lâm nghiệp tại khu phố
C, phường T, thành phố P thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân phường
Tthành phố P(được cấp theo Quyết định số 31/QĐ-UB-90 ngày 01/3/1990 của Ủy
ban nhân dân thị xã P
Vào năm 2013, bà H cùng các con gồm: Bà Phan Thị Mai K ông Phan
Thanh É ông Phan Thanh L ông Phan Thanh K1 bà Phan Thị Thanh H2 có lp biên
bản phân chia tài sản thừa kế phần diện tích đất theo Quyết định số 31/QĐ-UB-90
ngày 01/3/1990 của Ủy ban nhân dân thị xã Pmục đích phân chia là để cho bà
Hđứng tên trên giấy chứng nhn quyền sử dụng đất, sau đó phân chia lại cho các
con của bà H
Vào ngày 10 tháng 3 năm 1994, bà H có xin phép chính quyền địa phượng
để xây cất trại nuôi tôm và được sự đồng ý của chính quyền địa phương nên trên
diện tích đất này gia đnh bà H có sử dụng làm hồ nuôi tôm để cải thiện kinh tế gia
đnh. Sau này do sức khỏe yếu không nuôi tôm nữa nên gia đnh bà H cho thuê lại
để duy tr tài sản trên đất.
Trong diện tích đất nói trên, có phần đất diện tích khoảng 197,4m
2
, vào
ngày 24 tháng 9 năm 1998, ông Phan Thanh C cho vợ chồng bà Nông Thị M ông
Đặng Văn D thuê để xây dựng trại nuôi tôm giống, thời hạn 5 năm (từ năm 1998 –
2003) với giá thuê là 5.500.0000/năm. Đến năm 2016 bà Mông D không thuê nữa,
đất th trả lại cho bà H còn vỏ trại bán lại cho ông Phạm Trần Anh V thời điểm đó
ông V là người làm công cho bà M. Ông V tiếp tục trả tiền thuê đất cho bà H theo
giá thỏa thun với bà M từ 2003 là 3.500.000đồng/năm.
Đối với phần đất diện tích khoảng 275m
2
vào ngày 10 tháng 3 năm 1994,
gia đnh bà H có làm đơn xin chính quyền cấp giấy phép xây trại tôm giống, bà H
là người trực tiếp xây dựng nên lán trại này, còn có xây dựng một căn nhà nhỏ cấp
4 để ở. Bà H nuôi tôm 1 thời gian th ngh, đến ngày 17 tháng 4 năm 2018 bà H có
lp hợp đồng cho thuê trại và mặt bằng đất với Phạm Trần Anh V Phương thức
thanh toán là mỗi năm một lần, thời hạn là 3 năm từ ngày 17 tháng 4 năm 2018 đến
hết ngày 17 tháng 4 năm 2021 là hết hợp đồng.
Ngày 17 tháng 4 năm 2021 khi hết hạn hợp đồng nhưng tại thời điểm này
đang xảy ra dịch covid 19 nên hai bên chưa kịp ký thêm hợp đồng mới, th đến
ngày 14 tháng 12 năm 2021 gia đnh bà H đã nhn được Giấy mời của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường T thành phố Pvề việc kiểm tra việc sử dụng đất liên quan đến
đơn kiến nghị xem xét giải quyết của ông Phạm Trần Anh V th gia đnh bà H mới
biết đã bị ông Phạm Trần Anh V lừa dối bao nhiêu năm nay.
Ông Phạm Trần Anh V đã đưa ra chứng cứ là đã sang nhượng 2 diện tích
đất 275 m
2
và 194,7 m
2
nói trên và một giấy nhn tiền tổng cộng là 1,580 tỷ đồng.
Nhưng đây ch là lừa dối. Ông V tự dựng lên hợp đồng chuyển nhượng đất đối với
2 lô đất trên và giấy nhn tiền với mục đích chiếm đất của gia đnh bà H Hợp đồng
chuyển nhượng đất ngày 17 tháng 11 năm 2016, với diện tích chuyển nhượng
194,7m
2
, do Phạm Trần Anh Vbằng giấy viết tay, có chữ ký của bà Hvà người làm
chứng là ông Hoàng H3là trưởng khu phố C, cả ông H4cũng xác nhn đó ch là ký
vào tờ giấy trắng không có nội dung g, tại hợp đồng này có điều bất hợp lý, phần
mục 3 chữ viết 480.000.000 đồng có dấu hiệu chèn số 80 vào giữa và phần viết
bằng chữ không đúng theo theo quy định là được ghi bằng chữ mà có số 480, thấy
không đủ và đúng nên chèn thêm một hàng chữ vào giữa bởi khoảng cách giữa
mục 3 và mục 4 nhỏ hơn bnh thường, số tiền lớn ch nói sơ sài không rõ ràng. Tại
thời điểm chuyển nhượng không có giao tiền 480.000.000 đồng; Hợp đồng sang
nhượng đất và trại sản xuất tôm giống ngày 16 tháng 02 năm 2019 với diện tích
chuyển nhượng 275m
2
chính là diện tích đất mà bà Hđã lp hợp đồng cho thuê
ngày 17 tháng 4 năm 2018, diện tích đất này được cho thuê thời hạn là 3 năm, hợp
đồng thuê đất ngày 17 tháng 4 năm 2018 vẫn còn tồn tại không bị hủy bỏ, nghĩa là
việc thuê đất giữa bà Hvà ông Phạm Trần Anh Vvẫn còn hiệu lực. Thể thức văn
bản của hợp đồng chuyển nhượng ngày 16 tháng 02 năm 2019 giống 100% với hợp
đồng chuyển nhượng ngày 17 tháng 11 năm 2016, v vy cả hai tờ này được ghi
cùng một lúc chứ không phải là cách nhau những 3 năm; Giấy xác nhn, nhn tiền
bán đất và trại sản xuất tôm giống không ghi rõ ngày tháng nhn tiền vào thời gian
nào, ở đâu, bà Đu Thị Hnhn bao nhiêu tiền, không thấy chữ nhn rõ số tiền. Tất
cả nội dung trên ch do một mnh Phạm Trần Anh Vtự viết bằng chữ của mnh, với
một số tiền lớn 1.580.000.000 đồng khi đi nhn tiền tại trại tôm của ông Vkhông có
con cái đi theo, không có ai làm chứng cho việc nhn tiền này. Do vy việc viết
giấy nhn tiền này do Vlừa dối bà Hký vào giấy tờ, Hợp đồng chuyển nhượng đất
thứ nhất từ năm 2016 tại sao đến năm 2019 sau khi lp hợp đồng chuyển nhượng
thứ 2 vào năm 2019 mới giao tiền, ý chí của bà Hchưa bao giờ có ý định chuyển
nhượng 2 diện tích đất 194,7m
2
và diện tích 275m
2
cho ông Phạm Trần Việt A
Nay bà Đu Thị Hyêu cầu Tòa án giải quyết tuyên Hợp đồng chuyển nhượng
đất lp ngày 17 tháng 11 năm 2016 và Hợp đồng sang nhượng đất và trại sản xuất
tôm giống lp ngày 16 tháng 02 năm 2019 vô hiệu do bị lừa dối. Giải quyết hu
quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, buộc ông Phạm Trần Anh Vtrả lại cho bà Đu
Thị Hcác diện tích đất đã thuê. Trên phần phần diện tích 275m
2
đo thực tế là
371,4m
2
có căn nhà và trại nuôi tôm của bà Hbuộc ông Vphải trả lại cho bà HTrên
phần diện tích 197,4m
2
đo thực tế là 182,0m
2
có trại nuôi tôm do ông Vmua lại của
bà Mbuộc ông Vphải tháo dỡ. Khoản tiền chuyển nhượng bà Đu Thị Hkhông
nhn trên thực tế nên bà Đu Thị Hkhông có nghĩa vụ hoàn trả cho ông V
Đối với các chi phí tố tụng mà bà Hđã nộp gồm chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ là 3.000.000 đồng; Chi phí đo đạc là 1.721.000 đồng; Chi phí giám định
tuổi mực là 150.000.000 đồng; Chi phí định giá là 3.500.000 đồng. Bà Hyêu cầu
giải quyết theo quy định của pháp lut.
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong hồ sơ và tại phiên tòa bị đơn trnh bày:
Vào khoảng năm 2012, ông thuê diện tích đất 194,7m
2
tại khu phố C, phường T,
thành phố Pcủa bà Nông Thị Mchồng bà Mlà ông Đặng Văn DĐến năm 2013, mẹ
ông là bà Trần Thị Ngọc Ocó ký hợp đồng thuê trại sản xuất tôm giống với bà
MThời gian thuê từ 3- 5 năm (ông Vkhông nhớ rõ) có ghi trong hợp đồng; Giá tiền
thuê đất khoảng từ 14.000.000 đồng – 16.000.000 đồng. Đến năm 2016, ông Vmua
diện tích đất nói trên của bà Đu Thị Hhai bên có làm hợp đồng mua bán đất viết
tay, bà Hbán cho ông diện tích đất 194,7m
2
, giá là 480.000.000 đồng. Sau khi mua
đất, ông Vmua luôn công trnh trên phần đất do bà Mxây dựng (trại nuôi tôm), mua
với số tiền hai bên thỏa thun là 50.000.000 đồng và có lp giấy tờ mua bán. Chữ
viết của Bản gốc hợp đồng mua bán đất viết tay do ông Vviết. Thời điểm mua bán
đất bà Hcó nói là đất của bà, do bà quyết định nên bà không hỏi ý kiến các con của
bà HÔng H4ký trong giấy mua bán đất là do bà Hđưa ông H4ký, ông Vkhông biết.
Giấy viết tay năm 2016 đã thất lạc, sau này khoảng cuối năm 2018-2019, ông Vcó
viết lại giấy tay mua bán và đưa cho Hký lại, ông đã nộp cho Tòa án. Đến năm
2018 giữa ông Vvà bà Hcó làm hợp đồng thuê diện tích đất 275m
2
tại khu phố C,
phường T, thành phố Ptrên đất có trại nuôi tôm giống với giá thuê là 7.000.000
đồng. Sau đó đến năm 2019, ông mua diện tích đất 275m
2
nói trên với giá
1.100.000.000 đồng, hai bên làm giấy mua bán, bà Hmới đem giấy mua bán đất
năm 2016 cho khu phố trưởng là ông Nguyễn Công H4ký xác nhn luôn. Bản gốc
hợp đồng sang nhượng đất viết tay đến khoảng 1 tuần sau, th bà Hmới đem cho
khu phố trưởng là ông Nguyễn Công H4ký xác nhn, bà Hmang giấy mua bán lại
cho ông Vvà ông giao số tiền 1.100.000.000 đồng cho bà Htại trại nuôi tôm giống.
Hai bên làm Giấy xác nhn, nhn tiền bán đất và trại sản xuất tôm giống (viết tay),
không ghi ngày tháng năm, đây là giấy nhn tiền của cả hai lần mua đất nói trên.
Phần đất này bà Hcũng nói do bà tự quyết định nên ông Vcũng không hỏi ý kiến
các con của bà H
Nay bà Hkhởi kiện yêu cầu Toà án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng đất lp
ngày 17 tháng 11 năm 2016 và Hợp đồng sang nhượng đất và trại sản xuất tôm
giống lp ngày 16 tháng 02 năm 2019 vô hiệu do lừa dối và giải quyết hu quả
pháp lý của hợp đồng vô hiệu, ông Vkhông đồng ý, ông Vcó yêu cầu phản tố với
yêu cầu của bà Hông Vyêu cầu Toà án công nhn 02 hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nói trên có hiệu lực. Tại đơn phản tố ông Vyêu cầu Toà án công
nhn quyền sử dụng cho ông đối với 2 phần diện tích đất theo đo đạc của Chi
nhánh Văn phòng Đcó tổng diện tích là 553,4m
2
.
Nay tại phiên toà, ông Vyêu cầu Toà án công nhn quyền sử dụng diện tích đất
theo hiện trạng ông sử dụng các công trnh trên đất.
Hiện nay, ông VTrần Huỳnh Mộng TPhạm Trần Gia N
Ông không đồng ý với kết quả giám định tại Bản giám định số
07/2023/TTTVGĐDS ngày 07 tháng 11 năm 2023 của Trung tâm tư vấn, Giám
định dân sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trnh bày:
Bà Phan Thị Mai Kông Phan Thanh Éông Phan Thanh Lông Phan Thanh
K1bà Phan Thị Thanh H2thể hiện ý kiến: Diện tích đất hiện đang tranh chấp toạ lạc
tại khu phố C, phường T, thành phố Ptrên đất có các trại nuôi tôm, thời điểm ông
Phan Thanh Ccòn sống có cho thuê trại để nuôi tôm giống, sau này ông Cmất th
bà Hcho ông Phạm Trần Anh Vthuê trại để nuôi tôm, không có việc mua bán đất
giữa bà Hvà ôngViệt. Nếu bà Hcó bán đất phải được sự đồng ý của tất cả những
người con của ông Cvà bà HHợp đồng chuyển nhượng đất lp ngày 17 tháng 11
năm 2016 và Hợp đồng chuyển nhượng đất và trại sản xuất tôm giống lp ngày 16
tháng 02 năm 2019 giữa bà Hvới ông Vlà do ông Vdùng thủ đoạn gian dối, lợi
dụng trong lúc đưa tiền thuê trại tôm cho bà Hrồi đưa giấy tờ cho bà Hký, sau đó
ông Vtự lp thành giấy mua bán đất, cho nên việc mua bán này bà Hvà 5 người con
không hề hay biết. Nay các ông bà thống nhất với ý kiến của bà Hyêu cầu Tòa án
tuyên Hợp đồng chuyển nhượng đất lp ngày 17 tháng 11 năm 2016 và hợp đồng
chuyển nhượng đất và trại sản xuất tôm giống lp ngày 16 tháng 02 năm 2019 giữa
bà Hvới ông Vvô hiệu và yêu cầu ông Vtrả 02 phần diện tích đất, trên đất có trại
tôm giống cho gia đnh các ông, bà. Đối với phần công trnh ông Vmua của bà
Mth ông Vphải tự tháo dỡ.
Bà Trần Huỳnh Mộng Tthống nhất với lời trnh và ý kiến của ông Vyêu cầu
Toà án công nhn Hợp đồng chuyển nhượng đất lp ngày 17 tháng 11 năm 2016 và
Hợp đồng chuyển nhượng đất và trại sản xuất tôm giống lp ngày 16 tháng 02 năm
2019 giữa bà Hvới ông Vcó hiệu lực, công nhn quyền sử dụng diện tích đất theo
hiện trạng mà vợ chồng bà Tông Vsử dụng các công trnh trên đất.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 157, Điều 161; Điều 269, Điều 273 của Bộ lut Tố tụng dân sự ; Điều 117,
Điều 127, Điều 131của Bộ lut Dân sự ; Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu:
Chấp nhn yêu cầu khởi kiện của bà Đu Thị Hoài
Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng đất ghi ngày 17 tháng 11 năm 2016 giữa bà
Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng 194,7m
2
số liệu đo
thực tế là 182,0 m
2
với số tiền là 480.000.000 đồng và Hợp đồng sang nhượng đất
và trại sản xuất tôm giống ghi ngày 16 tháng 02 năm 2019 giữa bà Đu Thị Hvà
ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng 275m
2
số liệu đo thực tế là 371,4m
2
với số tiền 1.100.000.000 đồng vô hiệu do bị lừa dối.
Buộc ông Phạm Trần Anh Vvà bà Trần Huỳnh Mộng Tphải trả 02 phần diện
tích đất thực tế đang sử dụng toạ lạc tại khu phố C, phường T, thành phố P, tnh
Bnh Thuncho bà Đu Thị H. Trên đất có nhà ở dạng nhà trệt, tường gạch, mái
tole và công trnh hồ nuôi tôm. Vị trí, tọa độ của diện tích đất được xác định theo
bản trích đo bản đồ vị trí khu đất ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai thành phố Đ
Buộc ông Phạm Trần Anh Vvà bà Trần Huỳnh Mộng Tphải giao công trình
hồ nuôi tôm trên diện tích đất 182m
2
toạ lạc tại khu phố C, phường T, thành phố
Pgồm nhà tạm, vách che tạm và các bể nuôi gồm 16 lớn, 06 nhỏ, 02 bể chứa, 3 bể
lắng cho bà Đu Thị H
Buộc bà Đu Thị Hphải thanh toán tổng cộng số tiền 189.830.000 đồng cho
Phạm Trần Anh Vvà bà Trần Huỳnh Mộng T
• Về yêu cầu phản tố: Không chấp nhn yêu cầu phản tố của ông Phạm
Trần Anh Vvề việc yêu cầu công nhn quyền sử dụng đất theo hiện trạng ông sử
dụng các công trnh trên đất toạ lạc khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh
Thun
3. Về chi phí tố tụng: ông Phạm Trần Anh Vvà bà Trần Huỳnh Mộng Tphải
hoàn trả lại cho bà Đu Thị Hsố tiền chi phí tố tụng là 158.251.000 đồng cho bà
Đu Thị H
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468
của Bộ lut dân sự, trừ trường hợp pháp lut có quy định khác.
4. Về án phí: Ông Phạm Trần Anh Vphải nộp 600.000 đồng án phí dân sự sơ
thẩm.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án.
Ngày 19 tháng 8 năm 2024, bị đơn ông Phạm Trần Anh V kháng cáo yêu cầu
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn và công nhn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp
đồng sang nhượng đất và trại sản xuất tôm giống cho gia đnh ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện và đề nghị y án sơ thẩm.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trnh tự, thủ tục theo quy
định của pháp lut trong quá trnh giải quyết vụ án.
Về nội dung: Cấp sơ thẩm buộc ông Phạm Trần Anh Vphải giao trả lại toàn bộ
diện tích đất là chưa phù hợp trong khi chưa xem xét các hợp đồng thuê đất; các lời
khai về việc giao nhn tiền và lp các hợp đồng có mâu thuẫn nhưng cấp sơ thẩm
chưa đối chất để làm rõ mà ch dựa vào kết lun giám định để cho rằng nguyên đơn
khi ký kết các hợp đồng và biên bản giao nhn tiền là do bị lừa dối. Khi tuyên hợp
đồng vô hiệu cũng không giải thích hu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Mặt
khác, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý 02 yêu cầu phản tố và nhn định đối với 02 yêu
cầu nhưng ch xem xét đối với 01 yêu cầu. Do cấp sơ thẩm chưa thu thp đầy đủ
các tài liệu chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án mà cấp phúc thẩm không thể
khắc phục được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 và
Điều 310 Bộ lut tố tụng dân sự, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-ST
ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết. Giao cho
Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý
kiến trnh bày và tranh lun tại phiên tòa của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử nhn thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị đơn Phạm Trần Anh Vlàm
trong thời hạn lut định, nội dung kháng cáo nằm trong phạm vi bản án sơ thẩm,
nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về quan hệ pháp lut, người tham gia tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu; bị đơn có
địa ch cư trú tại khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh Thun. Căn cứ
khoản 2, khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ
lut tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết thụ lý, giải quyết là
đúng thẩm quyền. Việc xác định quan hệ tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng là
đúng quy định pháp lut.
[2] Về nội dung kháng cáo: Xét kháng cáo của bị đơn đề nghị sửa án sơ thẩm
theo hướng công nhn Hợp đồng chuyển nhượng đất ghi ngày 17 tháng 11 năm
2016 giữa bà Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng 194,7m
2
và Hợp đồng sang nhượng đất và trại sản xuất tôm giống ghi ngày 16 tháng 02
năm 2019 giữa bà Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng
275m
2
, Hội đồng xét xử xét thấy:
Đối với Hợp đồng chuyển nhượng đất ghi ngày 17 tháng 11 năm 2016 giữa
bà Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng 194,7m
2
và Hợp
đồng sang nhượng đất và trại sản xuất tôm giống ghi ngày 16 tháng 02 năm 2019
giữa bà Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vdiện tích chuyển nhượng 275m
2
.
[2.1] Về hnh thức: Giao dịch chuyển nhượng đất thể hiện qua “Hợp đồng
chuyển nhượng đất” đề ngày 17/11/2016 và “Hợp đồng sang nhượng đất và trại sản
xuất tôm giống” đề ngày 16/02/2019 do bị đơn cung cấp có chữ ký bên nhượng đất
là bà Đu Thị H và ông Phạm Trần Anh V không được công chứng hoặc chứng
thực là vi phạm về hnh thức theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Lut Đất
đai năm 2013. Điểm a khoản 3 Điều 167 Lut Đất đai năm 2013 quy định: “Việc
công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng
đất được thực hiện như sau:
a)Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng
đấ, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc
chứng thực, trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.
Từ quy định trên cho thấy, giao dịch chuyển nhượng đất giữa nguyên đơn và
bị đơn thể hiện qua các hợp đồng trên là vi phạm về hnh thức.
[2.2] Về điều kiện chuyển nhượng: Thửa đất có diện tích 194,7m
2
theo Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 17/11/2016 và thửa đất diện tích
275m
2
theo Hợp đồng sang nhượng đất và trại sản xuất tôm giống ghi ngày 16
tháng 02 năm 2019, tọa lạc tại khu phố C, phường T, thành phố P, tnh Bnh
Thuntheo nguyên đơn xác định nằm trong phần diện tích đất đã được UBND thị
xã Pgiao đất cho ông Phan Thanh Cvới mục đích là trồng cây công nghiệp và lâm
nghiệp theo Quyết định số 31/QĐ-UB-90 ngày 01/3/1990. Tuy nhiên, đây là chủ
trương về giao đất để quản lý và sử dụng vào mục đích trồng cây công nghiệp và
lâm nghiệp, ông Phan Thanh C chưa làm thủ tục để đăng ký cấp giấy chứng nhn
quyền sử dụng đất theo quy định. Đất chưa có giấy chứng nhn quyền sử dụng
nhưng các bên giao dịch chuyển nhượng là vi phạm điều kiện chuyển nhượng theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 188 Lut Đất đai năm 2013. Khoản 1 Điều 188
Lut Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho; góp vốn
bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau: a) Có giấy chứng nhận, …
Từ đó, có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên vị phạm về điều kiện chuyển nhượng.
[2.3] Tuy nhiên, cấp sơ thẩm căn cứ vào nội dung kết lun “...mực viết trên
hợp đồng không phải cùng một loại bút (mực), ít nhất là 2-3 loại bút khác nhau,
Chữ viết trong toàn bộ nội dung Hợp đồng chuyển nhượng đất đề ngày 16 tháng
02 năm 2019 không được viết cùng một thời điểm, đoạn dòng chữ d 30 A2 (một tỷ
một trăm triệu đồng chẵn) được viết vào khoảng tháng 8 năm 2021 (sai số + 3
tháng). Chữ viết trong nội dung giấy xác nhận, nhận tiền bán đất và trại sản xuất
tôm giống (A3, không ghi ngày tháng nặm) được viết vào khoảng tháng 08/2021
(sai số + 3 tháng). Phần viết đè lên số tiền 100.000.000 đồng trong giấy xác nhận,
nhận tiền bán đất và trại sản xuất tôm giống, có đoạn (A3, không ghi ngày tháng
năm) được viết cũ nhất, khoảng tháng 08/2019 (sai số + 3 tháng)… có đoạn được
viết trong tháng 08/2021 (sai số + 3 tháng) hoặc sau đó một thời gian….” tại Bản
giám định số 07/2023/TTTVGĐDS ngày 07 tháng 11 năm 2023 của Trung tâm
T2xác định để cho rằng: Mặc dù chữ ký trong 02 Hợp đồng chuyển nhượng và
giấy xác nhn nhn tiền nói trên giữa bà Đu Thị Hvà ông Phạm Trần Anh Vđúng
là chữ ký, chữ viết của bà Hnhưng bà Hkhông tự nguyện ký vào các văn bản này,
02 hợp đồng chuyển nhượng nói trên không phải là ý chí nguyện vọng của bà Hđã
vi phạm điểm b khoản 1 Điều 117 về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và
tuyên bố 02 hợp đồng chuyển nhượng nói trên vô hiệu do bị lừa dối là chưa đủ căn
cứ vững chắc. Bởi lẽ, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Lut Giám định tư
pháp quy định: “1. Văn phòng giám định tư pháp là tổ chức giám định tư pháp
ngoài công lập, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ
vật, di vật, bản quyền tác giả”, nhưng cấp sơ thẩm chưa xác định tính pháp lý của
Trung tâm Tư vấn, Giám định dân sự thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thut Việt Nam có chức năng giám định, chữ viết, chữ ký và tuổi mực hay không?
[3] Trong quá trnh giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhn hai
hợp đồng thuê đất và trại nuôi tôm giống giữa bà Đu Thị Hvới ông Phạm Trần
Anh Vkhi hết thời hạn thuê th 02 bên cũng chưa có văn bản nào thỏa thun về việc
chấm dứt hợp đồng thuê đất và trại nuôi tôm giống, như vy được hiểu là đương
nhiên gia hạn hợp đồng thuê đất. Do đó, giả sử Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
đất vô hiệu như nhn định của cấp sơ thẩm là đúng th việc giải quyết hu quả pháp
lý của hợp đồng vô hiệu như cấp sơ thẩm nhn định tại mục [11] của bản án sơ
thẩm là cũng chưa thỏa đáng v chưa xem xét đến các hợp đồng thuê đất nên gây
ảnh hưởng nghiệm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
[4] Phần diện tích 02 bên thỏa thun chuyển nhượng theo 02 hợp đồng có nằm
trong phần diện tích đất được Ủy ban nhân dân thị xã Pgiao cho ông Phan Thanh
Ctheo Quyết định số 31/QĐ-UB-90 ngày 01/3/1990 của Ủy ban nhân dân thị xã P
hay không và phần diện tích này có đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhn quyền sử
dụng đất hay không? Phần diện tích đo đạc theo hiện trạng tăng so với diện tích
thực tế hai bên thỏa thun trong hợp đồng chuyển nhượng, cấp sơ thẩm chưa làm
rõ nhưng tuyên buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn theo hiện trạng là chưa đảm bảo
theo quy định.
[5] Đối với chi phí giám định tuổi mực số tiền 150.000.000 đồng, nhưng ch
có 02 phiếu thu (trong đó có 01 phiếu thu tạm ứng) ch có đóng dấu treo của Trung
tâm tư vấn giám định dân sự để làm căn cứ buộc bị đơn phải chịu chi phí đối với số
150.000.000 đồng là chưa phù theo quy định. Bỡi lẽ, căn cứ khoản 7 Điều 6 Lut
Quản lý thuế 2019định các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế như sau:“ 7.
Bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ không xuất hóa đơn theo quy định của pháp luật,
sử dụng hóa đơn không hợp pháp và sử dụng không hợp pháp hóa đơn”; đồng thời
khoản 3 Điều 143 Lut Quản lý thuế 2019định hành vi trốn thuế như sau: “3.
Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp
lut hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của
hàng hóa, dịch vụ đã bán”.
Tại khoản 1 Điều 4 của Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của
Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ: “Nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa
đơn, chứng từ: 1. Khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập hóa đơn
để giao cho người mua (bao gồm cả các trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để
khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hóa, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao
đổi, trả thay lương cho người lao động và tiêu dùng nội bộ (trừ hàng hóa luân
chuyển nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất); xuất hàng hóa dưới các hình thức
cho vay, cho mượn hoặc hoàn trả hàng hóa) và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy
định tại Điều 10 Nghị định này, trường hợp sử dụng hóa đơn điện tử thì phải theo
định dạng chuẩn dữ liệu của cơ quan thuế theo quy định tại Điều 12 Nghị định
này”.
Từ những phân tích nhn định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc thu thp
chứng cứ theo quy định của Bộ lut tố tụng dân sự, chưa được thực hiện đầy đủ, có
nhiều tnh tiết cần làm rõ nhưng tại tòa án cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ
sung, khắc phục được. V vy, cần phải hủy bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-
ST ngày 07-8-2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, chuyển hồ sơ vụ án
cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
Đối với đơn kháng cáo của ông Phạm Trần Anh V có nội dung đề nghị công
nhn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng sang nhượng đất
và trại sản xuất tôm giống cho gia đnh ông, có hiệu lực pháp lut sẽ được Toà án
cấp sơ thẩm xem xét, giải quyết theo thủ tục chung.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Bnh Thun phù hợp
với nhn định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhn.
[7] Về án phí và chi phí tố tụng:
[7.1] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Do bản án dân sự sơ thẩm
bị hủy toàn bộ nên án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng sẽ được giải quyết lại
khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
[7.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Phạm Trần Anh Vkhông phải
chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bộ lut Tố tụng dân sự;
1. Chấp nhn một phần kháng cáo của bị đơn ông Phạm Trần Anh V:
- Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.
- Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên các đương sự không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
H5lại cho ông Phạm Trần Anh V 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002106 ngày
08/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp lut kể từ ngày tuyên án (21/02/2025)./.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Bình Thun;
- TAND thành phố Phan Thiết;
- VKSND thành phố Phan Thiết;
- Chi cục THADS thành phố Phan Thiết;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ, TDS;
THAY MẶT HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Vũ Thị Thanh Hòa

CÁC THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lê Thị Thanh Thái – Đặng Văn Cường
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Thanh Hòa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm