Bản án số 547/2024/DS-PT ngày 07/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 547/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 547/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 547/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 547/2024/DS-PT ngày 07/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 547/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất” giữa Nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 548/2024/DS-PT
Ngày: 07/10/2024
“Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu
cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Lê Thị Mai;
Ông Bùi Xuân Trọng;
Bà Vũ Thị Thu Hà.
Thư ký phiên tòa: Ông Phan Nhật Phong - Thư ký Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Minh Ngọc, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 07 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 209/TLPT-DS
ngày 09 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo
dỡ, di dời tài sản trên đất” do có kháng cáo của nguyên đơn đối với Bản án dân
sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân
tỉnh L.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10633/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
* Nguyên đơn: Ông Hồ Thuỷ G, sinh năm 1954; địa chỉ: Số nhà A, đường
B, khu A1, thị trấn H, huyện H, tỉnh L; Có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Chu Bích T- Trợ
giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L; Có mặt.
* Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1962; địa chỉ: Số nhà A2, đường B, khu
A1, thị trấn H, huyện H, tỉnh L; Có mặt.
2. Ông Vương Văn T2, sinh năm 1974; địa chỉ: Số nhà A3, đường B, khu A1,
thị trấn H, huyện H, tỉnh L; Vắng mặt.
2
Người đại diện theo uỷ quyền của ông T2: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1978; địa chỉ: Số nhà A3, đường B, khu A1, thị trấn H, huyện H, tỉnh L; Có mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Vy Thị N, sinh năm 1966; Vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Như N1, sinh năm 1987; Vắng mặt.
3. Chị Nguyễn Thuỳ L1, sinh năm 1990; Vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Vi L2, sinh năm 1998; Vắng mặt.
Đều có địa chỉ: Số nhà A2, đường B, khu A1, thị trấn H, huyện H, tỉnh L;
Người đại diện theo uỷ quyền của bà N, chị N1, chị L1, anh L2: Ông
Nguyễn Văn T1, sinh năm 1962; địa chỉ: Số nhà A2, đường B, khu A1, thị trấn
H, huyện H, tỉnh L; Có mặt.
5. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978; địa chỉ: Số nhà A3, đường B, khu A1,
thị trấn H, huyện H, tỉnh L; Có mặt.
6. UBND huyện H, tỉnh L;
Người đại diện hợp pháp: Ông Hoàng Trang V, Chuyên viên Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện H, tỉnh L; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, nguyên đơn
ông Hồ Thủy G trình bày:
Tại đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu được quyền quản lý, sử dụng
12,08m
2
đất ở tại đô thị thuộc một phần thửa đất số 64, có diện tích 174,0m2, tờ
bản đồ số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L (viết tắt là thửa đất số 64) đã được Ủy
ban nhân dân huyện H, tỉnh L (viết tắt là UBND huyện) cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (viết tắt là GCN) ngày 29/6/2009 cho nguyên đơn. Tại buổi
xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 09/3/2023, nguyên đơn xác định diện tích đất
tranh chấp là 12,55m
2
, trong đó tranh chấp với bị đơn ông Nguyễn Văn T1
10,78m
2
thể hiện tại S1: 8,62m
2
và S2: 2,16m
2
; tranh chấp với bị đơn ông Vương
Văn T2 thể hiện tại S3: 1,77m
2
.
Theo nguyên đơn ông Hồ Thủy G, thửa đất số 64 của ông có nguồn gốc
như sau: Năm 1990, nguyên đơn mua của ông Trần Ngọc M một mảnh đất tại khu
A1, thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Khi mua, hai bên có làm Giấy nhượng lại nhà đề
ngày 01/7/1990 có sơ đồ minh họa cụ thể kèm theo (viết tắt là Giấy nhượng lại
nhà). Tại thời điểm chuyển nhượng giáp ranh giữa đất nguyên đơn mua với ông
Vương Văn K và ông Quản Văn H1 ở phía sau chỉ là những hàng chè và cột mốc
bằng bê tông ở phần giáp suối, không có tường bao. Phần đất giáp với 70cm của
ông Vương Văn K cũng không có tường bao, phía trước giáp đường giao thông là
tường nhà của ông Vương Văn K. Sau đó, nguyên đơn chuyển đến ở tại mảnh đất
3
này và xây dựng tường bao bằng gạch cay toàn bộ phần đất của mình để chăn
nuôi. Khi xây tường bao, nguyên đơn có thông báo chính quyền thôn đến chứng
kiến để tránh tranh chấp. Đến năm 1991, nguyên đơn mới kết hôn với bà Nguyễn
Thị T3. Ngày 15/11/1993, Ủy ban nhân dân tỉnh L cấp GCN phần đất nguyên đơn
đã mua với tổng diện tích là 177,0m
2
đất ở thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ giải
thửa số 08 thị trấn H, huyện H, tỉnh L, đứng tên bà Hồ Thủy G (sai giới tính của
nguyên đơn). Năm 1998, nguyên đơn mua đất làm vườn ở xã Yên Sơn, huyện H,
tỉnh L và chuyển về đó sinh sống nên thửa đất này nguyên đơn không thường
xuyên ở đó mà chỉ qua lại.
Ngày 27/7/2007, căn cứ quyết định của Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L
về việc thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp đường 242, ông Hồ Thủy G bị thu hồi
và được đền bù 8,29m
2
, diện tích đất còn lại là 168,7m
2
. Do trong GCN ghi sai
giới tính nên năm 2009 nguyên đơn đi làm thủ tục cấp lại GCN. Ngày 29/6/2009,
nguyên đơn được cấp lại GCN với diện tích 174,0m
2
đất ở tại đô thị thuộc thửa
đất số 64. Khi làm thủ tục cấp lại GCN thì có việc đo đạc lại theo đúng diện tích
sử dụng thực tế của các gia đình.
Năm 2010, nhà ông Vương Văn T2 xây nhà đã đập tường bao của nhà
nguyên đơn và xây lấn sang đất của nguyên đơn khoảng 20cm ở phía cuối đất,
diện tích lấn chiếm là 1,77m
2
. Do lúc đó nguyên đơn đang đi viện điều trị nên
không giải quyết được tranh chấp. Khi nguyên đơn đi viện về thì ông Vương Văn
T2 đã xây dựng xong nhà. Nguyên đơn đã làm đơn đến chính quyền để giải quyết
tranh chấp. Ngày 21/01/2011, Uỷ ban nhân dân thị trấn H, huyện H, tỉnh L (viết
tắt là UBND thị trấn) đã hòa giải và hai bên đi đến thống nhất: Nguyên đơn để
cho nhà ông Vương Văn T2 sử dụng lâu dài và thừa kế cho con cháu diện tích đất
ông T2 đã lấn chiếm nhưng không được chuyển nhượng; phần không gian phía
trên từ mặt sàn tầng 1 trả lại cho nguyên đơn.
Năm 2014, nguyên đơn phá bỏ toàn bộ nhà cấp 4 của chủ đất cũ và các
tường bao xung quanh, san lấp mặt bằng, xây dựng công trình trên đất như hiện
trạng đã đi xem xét, thẩm định tại chỗ và không có tranh chấp với ai. Giáp ranh
còn có ông Nguyễn Văn T1, vào năm 2015 xây nhà cũng lấn sang đất của nguyên
đơn với diện tích 10,78m
2
. Khi phát hiện sự việc, nguyên đơn có nói chuyện nhưng
vì giáp Tết Nguyên đán nên nguyên đơn và ông Nguyễn Văn T1 chưa cùng nhau
làm rõ sự việc.
Năm 2019, chính quyền địa phương đo đạc lại Bản đồ địa chính thì các bị
đơn đều muốn đưa phần đất đã lấn chiếm của nguyên đơn vào GCN của họ nên
mới dẫn đến việc tranh chấp. Hiện phần diện tích đất còn lại của nguyên đơn
không đủ theo kích thước thể hiện trên GCN ngày 29/6/2009. Do đó, nguyên đơn
khởi kiện: Yêu cầu ông Nguyễn Văn T1 trả lại diện tích đất tranh chấp là 10,78m
2
thuộc thửa đất số 64 phải di dời, dỡ bỏ các công trình như mái chuồng lợn, 03 mi
cửa và một góc nhà tắm ra khỏi đất. Yêu cầu ông Vương Văn T2 trả lại diện tích
đất tranh chấp là 1,77m
2
thuộc thửa đất số 64 và yêu cầu phải di dời, dỡ bỏ tường
4
nhà ra khỏi đất. Đối với chi phí tố tụng 22.475.000 đồng đã nộp tạm ứng, nguyên
đơn đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn có đơn xin miễn
tiền án phí vì là người cao tuổi.
Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vy Thị N, chị Nguyễn Thùy L1, chị
Nguyễn Như N1, anh Nguyễn Vi L2 trình bày:
Năm 1999, ông Nguyễn Văn T1 có nhận chuyển nhượng đất từ ông Giáp Văn
H2. Việc chuyển nhượng có làm giấy tờ sau đó một thời gian. Trước khi chuyển
nhượng đất, ông Giáp Văn H2 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh L cấp GCN ngày
15/11/1993. Sau khi nhận chuyển nhượng ông, Nguyễn Văn T1 đã chuyển đến ở
luôn vì trên đất đã có sẵn nhà cấp 4 của chủ cũ để lại. Phần đất giáp ranh giữa nhà
ông Nguyễn Văn T1 và ông Hồ Thủy G ở đoạn sau nhà cấp 4 là tường bao do ông
Hồ Thủy G xây dựng trước đó, hiện nay một phần bức tường bao vẫn còn. Ngày
13/8/2003, UBND huyện cấp GCN tổng diện tích 450,0m
2
thuộc thửa đất số 65, tờ
bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L cho gia đình ông Nguyễn Văn T1.
Năm 2006, ông Nguyễn Văn T1 xây dựng dãy chuồng lợn phía sau nhà
giáp suối và không có tranh chấp với nguyên đơn. Ngày 27/7/2007, căn cứ quyết
định của Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc nâng cấp đường 242, nhà ông Nguyễn
Văn T1 bị thu hồi và được đền bù 18,48m
2
, diện tích đất còn lại sau đền bù là
431,52m
2
. Năm 2010, ông Nguyễn Văn T1 làm thủ tục và được cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (viết
tắt là GCNQSDĐ) ngày 02/12/2010, diện tích đất được cấp lại là 397,2m
2
, thuộc
thửa đất số 65 tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L (viết tắt là
thửa đất số 65) mang tên hộ ông Nguyễn Văn T1. Thực tế diện tích đất nhà ông
được cấp lại ít hơn so với diện tích đất còn lại sau đền bù. Tuy nhiên, đây là diện
tích đo đạc thực tế nên ông không có ý kiến gì.
Năm 2014, nguyên đơn đã xây nhà trên toàn bộ diện tích đất của mình.
Công trình xây dựng và tường bao nhà nguyên đơn xây chồng lên chính tường
bao cũ do nguyên đơn xác lập từ trước đó. Năm 2015, ông Nguyễn Văn T1 mới
xây nhà chính, tường nhà ông xây sát tường bao nhà nguyên đơn và vẫn trong
phạm vi đất ông được cấp GCNQSDĐ. Khi xây nhà, ông Nguyễn Văn T1 có mời
nguyên đơn sang để xác định ranh giới giữa hai bên; cả quá trình xây nhà, nguyên
đơn không có tranh chấp gì, thậm chí ông Nguyễn Văn T1 còn cho nguyên đơn
một phần diện tích khoảng 1,0m
2
do xây nhà cho vuông vắn bị chừa lại. Ông
Nguyễn Văn T1 xây nhà được vài năm thì nguyên đơn mới kiện cho rằng ông lấn
chiếm đất của nguyên đơn. Thực tế, nguyên đơn xây dựng các công trình trước,
gia đình ông xây dựng công trình sau nên đương nhiên không có việc ông lấn
chiếm đất của nguyên đơn. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn
T1 trả lại diện tích đất tranh chấp là 10,78m
2
thuộc thửa đất 64 và yêu cầu tháo
dỡ, di dời các công trình trên đất thì ông Nguyễn Văn T1 không chấp nhận. Đối
5
với chi phí tố tụng nguyên đơn đã nộp tạm ứng, ông Nguyễn Văn T1 đề nghị giải
quyết theo quy định.
Bị đơn ông Vương Văn T2 do bà Nguyễn Thị L đại diện theo ủy quyền đồng
thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Năm 2009, bà Nguyễn Thị L mới kết hôn với ông Vương Văn T2 nhưng bà
nắm rõ nguồn gốc và quá trình quản lý, sử dụng đất của mình trong đó có phần
đất đang tranh chấp với nguyên đơn hiện nay. Bố của ông Vương Văn T2 là ông
Vương Văn K (đã chết), bà Nguyễn Thị V1 (đã chết). Hai ông bà có một mảnh
đất tại khu A1, thị trấn H, tỉnh L giáp liền kề phần đất đang có tranh chấp với
nguyên đơn. Hai ông bà sinh sống trên mảnh đất này đã nhiều năm từ trước khi
nguyên đơn đến mua mảnh đất của ông Trần Ngọc M. Sau khi nguyên đơn nhận
chuyển nhượng đất xong đã đến ở và xây tường bao xung quanh xác lập ranh giới
phần đất của mình, không có tranh chấp với xung quanh.
Trong quá trình quản lý và sử dụng đất, nhà ông Vương Văn K đã được cấp
GCN phần đất đó nhiều lần, lần cuối cùng là vào ngày 28/4/2010, diện tích được
cấp là 354,0m
2
thuộc thửa đất 63, tờ bản đồ 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L (viết
tắt là thửa đất số 63). Sau đó, ông Vương Văn K có chia tách thửa đất và chia đất
cho các con, trong đó có chia cho vợ chồng bà Nguyễn Thị L 70,0m
2
. Ngày
08/7/2010, bà Nguyễn Thị L và ông Vương Văn T2 được cấp GCNQSDĐ đối với
diện tích 70,0m
2
thuộc thửa đất 551, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện
H, tỉnh L (viết tắt là thửa đất số 551). Cũng trong năm 2010, gia đình bà thực hiện
xây nhà trên phần đất được chia. Để đảm bảo xây dựng đúng diện tích, khi xây
dựng bà Nguyễn Thị L có gọi nguyên đơn ra để xác định ranh giới, khi xây xong
nguyên đơn mới có ý kiến là phần cuối đất gia đình bà lấn sang đất của nhà nguyên
đơn. Sự việc này nguyên đơn đã làm đơn đến UBND thị trấn để giải quyết. Vì
không muốn đôi co, cãi vã về diện tích không đáng kể nên ông Vương Văn T2 đã
nhất trí với ý kiến của nguyên đơn là cho nguyên đơn khoảng 15cm (chính là bức
tường nguyên đơn xây), nhà bà Nguyễn Thị L đã phải xây nhà đoạn cuối đất lùi
vào phía trong còn tường bao nguyên đơn xây giáp đất nhà bà Nguyễn Thị L hiện
nay vẫn còn. Gia đình bà Nguyễn Thị L xây nhà đúng trong diện tích đất của gia
đình có từ trước khi nguyên đơn đến mua đất. Nay nguyên đơn yêu cầu ông Vương
Văn T2 trả lại diện tích 1,77m
2
đất và yêu cầu di dời tường nhà nằm trên đất tranh
chấp là không có căn cứ nên ông Vương Văn T2 không chấp nhận. Đối với chi
phí tố tụng nguyên đơn đã nộp tạm ứng ông Vương Văn T2 đề nghị giải quyết
theo pháp luật.
Đại diện UBND huyện H, tỉnh L trình bày: Về ranh giới hiện trạng của các
hộ ông Hồ Thủy G, ông Vương Văn T2 và ông Nguyễn Văn T1 đang sử dụng
được giữ nguyên, không có căn cứ các bị đơn lấn chiếm đất của nguyên đơn.
Trong quá trình cấp GCN cho các hộ được đo đạc bằng phương pháp thủ công
nên có sự sai số do đo đạc và xác định trong vụ án này có việc cấp GCN trùng lấn
6
ranh giới với các chủ sử dụng đất liền kề. Trong trường hợp nếu phải hủy GCN
thì UBND huyện sẽ thực hiện theo Bản án.
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ nga
̀
y 09/3/2023 thể hiện: Tổng diện
tích đất tranh chấp là 12,55m
2
; trong đó tranh chấp với ông Nguyễn Văn T1 diện
tích 8,62m
2
ký hiệu S1 và diện tích 2,16m
2
ký hiệu S2; tranh chấp với ông Vương
Văn T2 diện tích 1,77m
2
ký hiệu S3. Tài sản trên đất tranh chấp với ông Nguyễn
Văn T1 có một phần tường nhà chính, một phần tường thuộc nhà bếp, một phần
tường thuộc bán mái nhà tắm, một phần tường chuồng lợn, 03 mi cửa sổ do ông
Nguyễn Văn T1 xây dựng năm 2015. Tài sản trên đất tranh chấp với ông Vương
Văn T2 là một phần tường thuộc nhà chính và bán mái trước nhà do ông Vương
Văn T2 xây dựng năm 2010, một phần tường xây gạch cay bê tông do ông Hồ
Thủy G xây dựng. Đất tranh chấp theo giá thị trường là 20.000.000 đồng/m
2
.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 27/6/2023 của Tòa án
nhân dân huyện H, tỉnh L đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Hồ Thủy G khởi kiện các ông Nguyễn
Văn T1, ông Vương Văn T2 đối với các diện tích đất 8,62m
2
, diện tích 2,16m
2
,
diện tích 1,77m
2
và yêu cầu buộc tháo dỡ, di dời tài sản trên diện tích đất tranh
chấp vì không có căn cứ.
Xác định quyền quản lý, sử dụng đất và sở hữu tài sản trên đất của các
đương sự theo hiện trạng thực tế, cụ thể như sau:
1.1. Hộ gia đình ông Nguyễn Văn T1 tiếp tục được quyền quản lý, sử dụng
diện tích đất 8,62m
2
cùng diện tích 2,16m
2
đều thuộc một phần thửa đất số 65, có
tổng diện tích 397,2m
2
đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ ngày 02/12/2010
cho hộ ông Nguyễn Văn T1. Hộ gia đình ông Nguyễn Văn T1 được quyền sở hữu
tài sản có trên đất tranh chấp, bao gồm: 01 tường thuộc nhà chính, 01 tường thuộc
nhà bếp, 01 tường bán mái, 01 phần chuồng lợn, các mi cửa sổ.
1.2. Ông Vương Văn T2, bà Nguyễn Thị L tiếp tục được quyền quản lý, sử
dụng diện tích đất 1,77m
2
thuộc một phần thửa đất số 551, có diện tích 70,0m
2
đã
được cấp GCNQSDĐ ngày 18/10/2010 đứng tên ông Vương Văn T2, bà Nguyễn
Thị L. Xác định diện tích đất hiện trạng đang sử dụng là 74,0m
2
, trong đó có 4,5m
2
sử dụng ngoài GCNQSDĐ. Ông Vương Văn T2, bà Nguyễn Thị L được quyền sở
hữu tài sản có trên đất là 01 bức tường thuộc một phần của ngôi nhà cấp 4 và bán
mái trước nhà.
1.3. Ông Hồ Thủy G tiếp tục được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất
174,0m
2
thuộc thửa đất số 64, đã được cấp GCN ngày 29/6/2009 đứng tên ông Hồ
Thủy G. Xác định diện tích hiện trạng đang sử dụng 186,5m
2
, trong đó có 8,0m
2
sử dụng ngoài GCN và sở hữu các tài sản có trên đất gồm 01 nhà chính cấp 4, 01
bán mái lợp tôn sóng, 01 bán mái lợp tôn thường, 01 sân nhà chính và 01 tường
xây cay bê tông.
7
Buộc ông Hồ Thủy G chấm dứt các hành vi tranh chấp liên quan đến phần
diện tích đất ranh giới tiếp giáp với đất bị đơn và các tài sản có trên đất.
Các đương sự có quyền, nghĩa vụ thực hiện việc đăng ký, kê khai, chỉnh lý
biến động quyền sử dụng đất tại cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật về đất đai, phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền yêu
cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị như sau:
Nguyên đơn ông Hồ Thủy G kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu
cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày
27/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh L.
Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 51/QĐ-VKS-DS ngày 24/7/2023 của
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh L: Đề nghị cấp phúc thẩm hủy Bản án
sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 27/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh L.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 68/2023/DS-PT ngày 19/12/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh L đã quyết định:
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 27/6/2023 của Tòa án
nhân dân huyện H, tỉnh L. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử
sơ thẩm lại theo quy định với các lý do:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ và các mảnh trích đo có trong hồ sơ vụ án thấy
diện tích đất của nguyên đơn đang quản lý sử dụng cao hơn là 8,0m
2
so với diện
tích được cấp trong GCN năm 2009 và đơn xin cấp đổi nên Tòa án cấp sơ thẩm
vẫn tiến hành xét xử sơ thẩm, không chuyển thẩm quyền xét xử là vi phạm về
thẩm quyền xét xử.
Hơn nữa, căn cứ với Mảnh trích đo khu đất tranh chấp ngày 20/3/2023 thì
bức tường nguyên đơn xây sau khi nhận chuyển nhượng, còn tường nhà ông
Nguyễn Văn T1 xây sau. Phía nhà ông Vương Văn T2 xây tường trên nền móng
cũ (năm 2010).
Mặt khác, bản án sơ thẩm tuyên vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của
đương sự. Tại phần quyết định của bản án đã tuyên theo mảnh sơ họa ngày
09/3/2023 là không chính xác, không đúng các điểm theo sơ họa trích đo đất tranh
chấp và sơ họa chồng ghép... ngày 20/3/2023 kèm theo Bản án.
Sau khi thụ lý giải quyết sơ thẩm lại vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh L đã tiến
hành thu thập tài liệu chứng cứ, cụ thể như sau:
Đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản bổ sung ngày
13/3/2024, qua đó xác định được một số vấn đề sau: Diện tích đất tranh chấp giữa
các đương sự không thay đổi, đất tranh chấp theo giá thị trường vẫn là 20.000.000
đồng/m
2
.
8
Tài sản trên đất tranh chấp với ông Nguyễn Văn T1 có một phần tường nhà
chính, một phần tường thuộc nhà bếp, một phần tường thuộc bán mái nhà tắm, một
phần tường chuồng lợn do ông Nguyễn Văn T1 xây dựng. Ngoài ra, còn có 02 mi
cửa sổ do hộ ông G xây dựng nằm trên khoảng không phần tường chuồng lợn nhà
ông T1. Đối với 03 mi cửa sổ của ông T1 xây dựng năm 2015 không nằm trên phần
đất đang có tranh chấp. Phần diện tích đang có tranh chấp trùng ranh giới giữa thửa
đất số 64 với thửa đất số 65.
Tài sản trên đất tranh chấp với ông Vương Văn T2 là một phần tường thuộc
nhà chính do ông Vương Văn T2 xây dựng năm 2010. Phần diện tích đất đang có
tranh chấp trùng ranh giới giữa thửa đất số 64 với thửa đất số 551.
Đơn vị đo đạc Công ty cổ phần Trắc địa bản đồ và Môi trường S, Chi nhánh
L đã thực hiện lồng ghép bản đồ Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung) với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (Bản trích đo địa chính dạng số, khuôn dạng *.dgn)
của các thửa đất trên và phục dựng phần diện tích đất nguyên đơn đã nhận chuyển
nhượng trước đó. Đồng thời, có văn bản làm rõ về việc kết quả lồng ghép này có
sự không thống nhất với kết quả lồng ghép trước đó tại Tòa án nhân dân huyện H,
tỉnh L. Và cung cấp Bản trích đo phục vụ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
các thửa đất số 64, 65, 551 (các Bản trích đo này in đồng tỷ lệ).
Ông Hồ Thủy G cho rằng mặc dù nguyên đơn xây dựng nhà năm 2014 trên
đúng tường cũ do nguyên đơn xác lập nhưng phần đất tranh chấp với ông Nguyễn
Văn T1 chính là phần đất thể hiện đường nước chảy giọt gianh của nguyên đơn.
Đối với phần đất của gia đình ông Vương Văn Q, tuy có xây dựng vào phần đất
của nguyên đơn nhưng nguyên đơn không có yêu cầu gì. Đối với 03 mi cửa của
ông Nguyễn Văn T1 không nằm trên đất tranh chấp nhưng nguyên đơn cũng yêu
cầu phải di dời. Đối với 02 mi cửa của nguyên đơn xây trên đất tranh chấp nếu
sau khi xét xử không phải đất của nguyên đơn thì nguyên đơn tự nguyện tháo dỡ
và tự chịu chi phí tháo dỡ. Nguyên đơn tiếp tục nộp tạm ứng chi phí tố tụng bổ
sung số tiền 14.540.000 đồng.
Ông Nguyễn Văn T1 thừa nhận 03 mi cửa sổ của nhà ông đúng là nằm trên
khoảng không phần đất của nhà nguyên đơn nhưng diện tích không đáng kể. Ông
sẽ tháo dỡ 03 mi cửa sổ này và tự chịu chi phí tháo dỡ. Ông và gia đình đã được
Tòa án giải thích về quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng liên quan đến yêu cầu phản
tố, yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, ông xác định không có yêu cầu phản tố và gia đình
ông không có yêu cầu độc lập. Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đối với diện tích đất đang có tranh chấp. Đối với 02 mi cửa sổ mà
nguyên đơn xây dựng đang nằm trên phần của gia đình ông. Tuy nhiên, ông không
yêu cầu Tòa án giải quyết mà để hai bên tự thỏa thuận với nhau. Nếu không thỏa
thuận được ông sẽ thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự.
Chị Nguyễn Thị L giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trước đó, chị không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vợ chồng chị đã được Tòa án giải
9
thích về quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng liên quan đến yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập. Tuy nhiên, chị không có yêu cầu độc lập và chồng chị không có yêu cầu
phản tố trong vụ án.
Đại diện Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình
bày trước đó. Ngoài ra, còn xác định nguyên đơn hiện sử dụng diện tích đất nhiều
hơn diện tích đất có trong GCN cấp ngày 29/6/2009 và nhiều hơn diện tích đất có
trong Giấy nhượng lại nhà năm 1990. Nguyên đơn, bị đơn cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nếu có sự trùng lấn ranh giới thì phải hủy GCN để cấp lại
cho đúng hiện trạng sử dụng và UBND huyện sẽ thực hiện theo bản án của Tòa
án. Đồng thời, người đại diện có đề nghị giải quyết vắng mặt.
Tại Kết luận giám định tư pháp ngày 15/5/2024 của Giám định viên ông
Đàm Văn T4 kết luận như sau:
1. Diện tích 174,0m
2
đất theo GCN được UBND huyện cấp cho ông Hồ
Thủy G ngày 29/6/2009 là loại đất ở tại đô thị; số thứ tự thửa đất số 64, tờ bản đồ
địa chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện trên GCN
cấp cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 không thể hiện các thửa đất tiếp giáp.
Căn cứ biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 22/5/2009 và hồ sơ
địa chính thì thửa số 64 có vị trí tiếp giáp sau: Phía Bắc giáp sông (suối); Phía
Nam giáp đường 242 (đường B); Phía Đông giáp đất ông Nguyễn Văn T1 (thửa
65); Phía Tây giáp đất ông Vương Văn K (thửa 63).
2. Diện tích 397,2m
2
đất theo GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T1
ngày 02/12/2010 có mục đích sử dụng đất ở tại đô thị là 181,52m
2
, đất trồng cây
lâu năm là 215,68m
2
; số thứ tự thửa đất số 65, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn
H, huyện H, tỉnh L. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện trên GCNQSDĐ cấp cho hộ ông
Nguyễn Văn T1 ngày 02/12/2010 không thể hiện các thửa đất tiếp giáp. Căn cứ
biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 10/11/2010 và hồ sơ địa chính
thì thửa số 65 có vị trí tiếp giáp sau: Phía Bắc giáp suối; Phía Nam giáp đường B;
Phía Đông giáp đất hộ ông Hoàng Văn Nhất; Phía Tây giáp hộ ông Hồ Thủy G
(thửa 64).
3. Diện tích 70,0m
2
đất theo GCNQSDĐ cấp cho ông Vương Văn T2 và bà
Nguyễn Thị L ngày 18/10/2010 là loại đất ở tại đô thị; số thứ tự thửa đất số 551,
tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện
trên GCNQSDĐ cấp cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày
18/10/2010 không thể hiện các thửa đất tiếp giáp. Thửa đất số 551 được tách một
phần từ thửa đất số 63. Do vậy căn cứ biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa
đất ngày 09/6/2010 và Trích đo bản đồ địa chính khu đất do Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất huyện lập ngày 09/6/2010 thì thửa đất số 551 có vị trí tiếp giáp
như sau: Phía Bắc giáp đường đi chung; Phía Nam giáp đường B; Phía Đông giáp
đất ông Hồ Thủy G (thửa 64); Phía Tây giáp đường đi chung.
10
4. Căn cứ nội dung tại Giấy nhượng lại nhà ngày 01/7/1990 giữa ông Trần
Ngọc M và ông Hồ Thủy G và hồ sơ địa chính thì diện tích đất ông Trần Ngọc M
nhượng lại cho ông Hồ Thủy G thuộc thửa đất số 64. Có các phía tiếp giáp theo
“Sơ đồ ngôi nhà và phần đất trống mà anh G sẽ được quyền sử dụng” kèm giấy
nhượng lại nhà như sau: Phía Bắc giáp bờ suối; Phía Nam giáp đường Quốc lộ đi
Fổng (Đường B); Phía Đông giáp đất nhà ông Quản Văn H1 (ông Quản Văn H1
chuyển nhượng cho ông Giáp Văn H2; ông Giáp Văn H2 chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn T1 hiện đang quản lý, sử dụng tại thửa đất số 65); Phía Tây giáp đất
nhà ông Vương Văn K (thửa 63).
5. Diện tích 10,78m
2
đất có vị trí đỉnh điểm A1, A2, A3, A4, C7, A5, A6,
C5, A7 theo Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh
bổ sung khu đất tranh chấp ngày 13/3/2024): Có 9,54m
2
đất trồng cây lâu năm và
1,24m
2
đất ở tại đô thị; nằm trong thửa đất số 65 đã được cấp GCNQSDĐ cấp cho
hộ ông Nguyễn Văn T1 ngày 02/12/2010. Có vị trí tiếp giáp: Phía Tây giáp thửa
đất số 64 đã cấp GCN cho ông Hồ Thủy G; các phía tiếp giáp còn lại nằm trong
thửa đất số 65, không nằm trong phần diện tích tại giấy nhượng lại nhà giữa ông
Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G.
6. Diện tích 1,77m
2
đất có vị trí đỉnh điểm A8, C2, A9, A10, A11, A12,
A13 theo Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh
bổ sung khu đất tranh chấp ngày 13/3/2024): Có mục đích sử dụng đất là đất ở tại
đô thị; Diện tích 1,77m
2
đất trên có 1,63m
2
đất nằm trong thửa đất số 64 đã được
cấp GCN cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 và 0,14m
2
nằm trong thửa số 551
đã được cấp GCNQSDĐ cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày
18/10/2010. Có vị trí tiếp giáp: Phía Tây giáp thửa đất số 551 đã cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày
18/10/2010; các phía tiếp giáp còn lại nằm trong thửa đất số 64; Nằm trong phần
diện tích tại giấy nhượng lại nhà giữa ông Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G.
7. Diện tích 2,97m
2
đất có vị trí đỉnh điểm B9, A13, A8, C3 theo Trích đo
khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh khu đất tranh chấp
ngày 13/3/2024): Có mục đích sử dụng đất là đất ở tại đô thị và một phần đất giao
thông (đường đi chung, sân chung); cơ bản diện tích 2,97m
2
đất trên nằm trong
thửa đất số 64 đã được cấp GCN cấp cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009; chỉ có
khoảng 0,3m
2
đất nằm trong phần đất giao thông (đường đi chung, sân chung) là
do đường ranh giới của thửa đất số 64 tiếp giáp với đường ranh giới phía Đông
(thửa đất số 550, 551 và đoạn đường đi chung, sân chung) không trùng khít nhau
nên diện tích 2,97m
2
đất có vị trí đỉnh điểm B9, A13, A8, C3 theo Trích đo khu
đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh khu đất tranh chấp ngày
13/3/2024) có một phần diện tích 0,3m
2
đất vừa nằm trong thửa đất số 64 và cũng
đồng thời nằm trong phần đất giao thông (đường đi chung, sân chung). Có vị trí
tiếp giáp: Phía Tây giáp thửa đất số 550 của hộ ông Vương Văn Q và phần đường
đi chung, sân chung; các phía tiếp giáp còn lại nằm trong thửa đất số 64. Diện tích
11
2,97m
2
trên chỉ có một phần diện tích nhỏ 0,66m
2
là nằm trong phần diện tích tại
giấy nhượng lại nhà giữa ông Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G.
8. Theo ranh giới vị trí đỉnh điểm C6, C1, A10, A11, A12, A13, B9, C3,
C4 tại Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh khu
đất tranh chấp ngày 13/3/2024) có diện tích 5,8m
2
: Có mục đích sử dụng đất là
đất ở tại đô thị và một phần đất giao thông (đường đi chung, sân chung); cơ bản
diện tích đất có vị trí đỉnh điểm C6, C1, A10, A11, A12, A13, B9, C3, C4 nằm
trong thửa đất số 64 đã được cấp GCN cấp cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009;
có một phần diện tích rất nhỏ khoảng 0,14m
2
nằm trong phần diện tích đất đã được
cấp GCNQSDĐ cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày 18/10/2010.
Có khoảng 0,3m
2
đất nằm trong phần đất giao thông (đường đi chung, sân chung)
là do đường ranh giới của thửa đất số 64 tiếp giáp với đường ranh giới phía Đông
(thửa đất số 550, 551 và đoạn đường đi chung, sân chung) không trùng khít nhau
nên diện tích 5,8m
2
đất có vị trí đỉnh điểm C6, C1, A10, A11, A12, A13, B9, C3,
C4 tại Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh khu
đất tranh chấp ngày 13/3/2024) có một phần diện tích 0,3m
2
đất vừa nằm trong
thửa đất số 64 và cũng đồng thời nằm trong phần đất giao thông (đường đi chung,
sân chung). Có vị trí tiếp giáp: Phía Tây giáp thửa đất số 550, 551 và một phần
đất giao thông (đường đi chung, sân chung); các phía tiếp giáp còn lại nằm trong
thửa đất số 64; trong phần diện tích 5,8m
2
đất có vị trí đỉnh điểm C6, C1, A10,
A11, A12, A13, B9, C3, C4 có một phần diện tích khoảng 2,9m
2
nằm trong phần
diện tích đất tại giấy nhượng lại nhà giữa ông Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G.
9. Kiểm tra vị trí, hình thể, kích thước cạnh, diện tích thửa đất theo các
Trích đo bản đồ địa chính khu đất để phục vụ cấp GCN gồm: Trích đo bản đồ địa
chính khu đất đối với thửa đất số 64, diện tích 174m
2
do Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất huyện lập ngày 22/6/2009; Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa
đất ngày 22/5/2009 cho hộ ông Hồ Thủy G; Trích đo bản đồ địa chính khu đất đối
với thửa đất số 65, diện tích 397,2m
2
do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
huyện H lập ngày 10/11/2010; Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất
ngày 10/11/2010 cho ông, bà Nguyễn Văn T1; Trích đo bản đồ địa chính khu đất
đối với thửa đất số 63, diện tích 354m
2
(trích đo tách thửa đất số 63 thành 04 thửa
đất số 63, 549, 550, 551 và một phần đường đi chung) do Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất huyện lập ngày 09/6/2010; Biên bản xác định ranh giới, mốc
giới thửa đất ngày 09/6/2010 cho hộ ông Vương Văn K. Nhận thấy, các bản Trích
đo bản đồ địa chính các thửa đất trên được thực hiện độc lập, theo hệ tọa độ tự do,
thời gian thực hiện khác nhau (không cùng một ngày), chưa cập nhật chỉnh lý biến
động đồng bộ trên Bản đồ địa chính thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Căn cứ vị trí,
khoảng cách, chiều dài cạnh và thực trạng sử dụng đất thì việc chồng, ghép hình
thể, vị trí các thửa đất theo GCN tại bản Trích đo khu đất tranh chấp (chồng ghép
thông tin dữ liệu theo yêu cầu tại Công văn số 122/TDS/TA ngày 01/4/2024) do
Công ty cổ phần Trắc địa bản đồ và Môi trường S, Chi nhánh L thực hiện ngày
14/4/2024 là phù hợp.
12
Theo Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất lập trong quá trình đo
đạc thực địa các thửa đất trên, chủ sử dụng đất các phía tiếp giáp đều thống nhất
ranh giới, xác nhận và ký giáp ranh. Tuy nhiên, có những đoạn đường ranh giới
giữa các thửa đất không trùng khớp nhau như đoạn có vị trí đỉnh điểm N7, N8,
N9, H2 hoặc đoạn có vị trí đỉnh điểm H3, H4, N5, N6 hoặc đoạn có vị trí đỉnh
điểm N3, N4, B3; một phần đoạn ranh giới của thửa 64 giáp về phía hướng Tây
không được trùng khớp nhau là chưa đảm bảo về đo đạc, biên tập bản trích đo địa
chính khu đất và hiện trạng thực tế đã được các chủ sử dụng đất thống nhất ranh
giới tại thời điểm đo vẽ.
Tại Văn bản ngày 13/6/2024 của Giám định viên ông Đàm Văn T4 về việc
cung cấp thông tin liên quan tại Kết luận giám định tư pháp ngày 15/5/2024 thể
hiện: Trong phần diện tích 1,77m
2
đất có diện tích 0,14m
2
cấp trùng tại GCN cấp
cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 và GCNQSDĐ cấp cho ông Vương Văn T2
và bà Nguyễn Thị L ngày 18/10/2010. Lý do cấp trùng do đường ranh giới giữa
thửa đất số 64 và thửa đất số 551 không trùng khớp nhau, lý do đường ranh giới
không trùng khớp nhau thì giám định viên tư pháp đã có ý kiến tại mục 7.9 Kết
luận giám định tư pháp ngày 15/5/2024. Về vị trí đỉnh điểm phần diện tích 0,14m
2
cấp trùng: Do diện tích cấp trùng rất nhỏ; phạm vi cấp trùng thể hiện tại bản chồng
ghép thông tin dữ liệu theo yêu cầu tại Công văn số 122/TDS/TA ngày 01/4/2024
do Công ty cổ phần Trắc địa bản đồ và Môi trường S, Chi nhánh L thực hiện ngày
14/4/2024, trong đó: Đường ranh giới màu xanh dương (xanh da trời) là đường
ranh giới thửa đất số 64; đường ranh giới màu xanh lá cây (xanh nõn chuối) là
đường ranh giới thửa đất số 551; đường ranh giới tranh chấp là đường màu đỏ.
Phần diện tích 0,14m
2
cấp trùng được tính trong phạm vi đường ranh giới tranh
chấp màu đỏ và đường ranh giới màu xanh lá cây (xanh nõn chuối) của thửa đất
số 551. Trong phần diện tích 5,8m
2
đã bao gồm diện tích 1,77m
2
đất. Như vậy,
phần diện tích 5,8m
2
cũng có diện tích 0,14m
2
cấp trùng tại GCN cấp cho ông Hồ
Thủy G ngày 29/6/2009 và GCNQSDĐ cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn
Thị L ngày 18/10/2010. Các nội dung về lý do cấp trùng và vị trí đỉnh điểm của
diện tích 0,14m
2
cấp trùng đã phân tích tại mục 1 văn bản này.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2024,
Tòa án nhân dân tỉnh L đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 1, 2, 3, 20, 73, 79 Luật Đất đai năm 1993; các Điều 4,
5, 6, 10, 46, 48, 49, 50, 105, 107 Luật Đất đai năm 2003; các Điều 26, 100, 104,
106, 166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 158, 160, 161, 163, 164, 169,
237, 274, 275 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 5, Điều 34, khoản 1 Điều
147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 161, khoản 1 Điều 165, các Điều 227, 228,
230, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 193 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15, Điều 24,
điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
13
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Thủy G yêu
cầu quản lý, sử dụng đối với 10,78m
2
đất tại thị trấn H, huyện H, tỉnh L, bao gồm:
Diện tích 8,62m
2
(ký hiệu S1) được xác định bởi các đỉnh thửa nối các điểm: A1,
A2, A6, C5, A7 và diện tích 2,16 m
2
(ký hiệu S2) được xác định bởi các đỉnh thửa
nối các điểm: A2, A3, A4, C7, A5, A6 thể hiện tại phụ lục kèm theo Bản án sơ
thẩm ngày 14/6/2024, thuộc một phần thửa đất số 65 tờ bản đồ địa chính số 20 thị
trấn H, huyện H, tỉnh L và yêu cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Thủy G yêu
cầu quản lý, sử dụng đối với 1,77m
2
đất tại thị trấn H, huyện H, tỉnh L (ký hiệu
S3) được xác định bởi các đỉnh thửa nối các điểm: A8, C2, A9, A10, A11, A12,
A13 thể hiện tại phụ lục kèm theo Bản án sơ thẩm ngày 14/6/2024, thuộc một
phần thửa đất số 64 và trùng giữa thửa đất số 64 với thửa đất số 551, tờ bản đồ địa
chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L và yêu cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Hồ Thủy G về việc tự tháo
dỡ đối với 02 mi cửa có ký hiệu Mi cửa 1, Mi cửa 2 thể hiện tại phụ lục kèm theo
Bản án sơ thẩm ngày 14/6/2024 (hai mi cửa này có độ dày bám tường ra khoảng
không 03cm, độ dài mỗi mi cửa 55cm) ra khỏi diện tích 8,62m
2
đất được xác định
bởi các đỉnh thửa nối các điểm: A1, A2, A6, C5, A7 thể hiện tại phụ lục kèm theo
Bản án sơ thẩm ngày 14/6/2024. Ông Hồ Thủy G phải tự chịu chi phí tháo dỡ.
4. Buộc ông Hồ Thủy G chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực
hiện quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nêu tại mục 1 với
hộ ông Nguyễn Văn T1.
5. Buộc ông Hồ Thủy G chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực
hiện quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nêu tại mục 2 với
ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L.
6. Về việc hủy quyết định cá biệt:
6.1. Hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AM
802830, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H03592 của Ủy ban
nhân dân huyện H, tỉnh L cấp ngày 29/6/2009 cho ông Hồ Thủy G đối với thửa
đất số 64 diện tích 174,0m
2
đất ở tại đô thị, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H,
huyện H, tỉnh L.
6.2. Hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành BC 238540, số vào sổ cấp GCN:
CH00256 của Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L cấp ngày 18/10/2010 cho ông
Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L đối với thửa đất số 551 diện tích 70,0m
2
đất
ở tại đô thị, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L.
14
6.3. Hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất cấp số phát hành BC 238489, số vào sổ cấp GCN:
CH00317 của Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L cấp ngày 02/12/2010 cho hộ ông
Nguyễn Văn T1 đối với thửa đất số 65 diện tích 397,2m
2
(đất ở tại đô thị 181,52m
2
,
đất trồng cây lâu năm 215,68m
2
), tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H, huyện H,
tỉnh L.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi
phí tố tụng và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 25/6/2023, nguyên đơn ông Hồ Thủy G có đơn kháng cáo với nội
dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
- Nguyên đơn là ông Hồ Thủy G giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung
kháng cáo cho rằng:
Giấy chứng nhận QSDĐ của Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L cấp ngày
29/6/2009 đối với thửa đất số 64 diện tích 174,0m
2
đất ở cho hộ gia đình ông thể
hiện ranh giới giữa thửa đất của ông với thửa đất của hộ ông Vương Văn T2 là
một đường thẳng. Tòa án sơ thẩm không công nhận diện tích 1,77m
2
(Ký hiệu S3)
cho gia đình ông đã làm cho ranh giới giữa hai hộ gia đình thành đường gấp khúc
là không đúng với ranh giới được thể hiện tại GCNQSDĐ đã cấp cho 02 hộ và
thỏa thuận tại Biên bản làm việc ngày 21/01/2011 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn H
giữa ông Hồ Thủy G và ông Vương Văn T2.
Năm 2014, ông G xây dựng nhà trên đúng tường cũ do nguyên đơn xác lập
nhưng phần đất diện tích 10,78m
2
tranh chấp với ông Nguyễn Văn T1 chính là
phần đất thể hiện đường nước chảy giọt gianh của nhà ông G trước đây. Năm
2015, ông T1 xây nhà lấn sang phần đất này của nguyên đơn. Tòa án sơ thẩm
không công nhận 10,78m
2
đất bao gồm: Diện tích 8,62m
2
(ký hiệu S1) và diện
tích 2,16 m
2
(ký hiệu S2) tại Phụ lục kèm theo Bản án sơ thẩm ngày 14/6/2024
thuộc một phần thửa đất số 65 của hộ ông T1 cho gia đình ông khiến phần diện
tích đất còn lại của gia đình ông không đủ theo kích thước thể hiện trên GCN ngày
29/6/2009.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm; giao hồ sơ
về Tòa án nhân dân tỉnh L để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị L - đại diện cho ông Vương
Văn T2 không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn vì cho rằng thửa đất của hộ
ông G nằm giữa hai thửa đất của ông T1 và thửa đất của ông T2 (bà L). Ông G đã
xây tường bao bằng gạch cay từ năm 1990, trước khi hộ ông T1 và hộ ông T2 về
mua đất ở kế bên. Quá trình sử dụng đất của hai hộ đều nằm ngoài tường bao của
hộ ông G và nằm trong giấy CNQSDĐ đã được cấp cho mỗi hộ. Hiện tại chiều
ngang và diện tích của hộ ông G tại thửa đất số 64 đều tăng trong khi diện tích đất
15
thực tế của hộ ông T1 và ông T2 đều thiếu so với diện tích đã được công nhận tại
giấy CNQSDĐ.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Sau
khi phân tích tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy:
Đối với diện tích đất 10,78m
2
không nằm trong Giấy CNQSDĐ của nguyên
đơn, không thuộc quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn nên việc nguyên đơn
tranh chấp và yêu cầu ông Nguyễn Văn T1 di dời tài sản trên đất để trả lại 10,78m
2
đất là không có căn cứ.
Đối với diện tích đất 1,77m
2
tranh chấp với ông Vương Văn T2 thì thấy:
Do nguyên đơn là người đầu tiên xác lập ranh giới, trong phần đất tranh chấp có
1,63m
2
nằm trong Giấy CNQSDĐ của nguyên đơn, còn lại cấp trùng với thửa đất
số 551 của ông Vương Văn T2; ranh giới giữa hai nhà không đúng hiện trạng công
trình xác lập trước đó; nguyên đơn đang sử dụng đất nhiều hơn cả về chiều rộng
và diện tích đất được ghi trong Giấy nhượng đất nhà nên việc nguyên đơn tranh
chấp và yêu cầu ông Vương Văn T2 trả lại diện tích 1,77m
2
và di dời tài sản trên
đất là không có căn cứ.
Việc cấp Giấy CNQSDĐ cho nguyên đơn, các bị đơn đối với các thửa đất
số 64, số 65 và số 551 không đúng với hiện trạng, thực tế sử dụng đất của các bên;
cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Nguyễn Văn T1 khi trên đất có tài sản của nguyên
đơn (phần có đoạn tường nhà cấp 4 cũ do nguyên đơn xây dựng trước đó) là không
đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật đất đai. Việc cấp
Giấy CNQSDĐ cho nguyên đơn, cho vợ chồng ông Vương Văn T2 có phần bị
cấp trùng 0,14m
2
đất là không đúng quy định của pháp luật đất đai nên để đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự thì cần thiết phải hủy các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu các đương sự thực hiện việc đề nghị cấp
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng, thực tế đang quản
lý sử dụng.
Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, không
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công
khai tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét
đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định như sau:
16
[1] Nguyên đơn ông Hồ Thủy G khởi kiện tại Tòa án yêu cầu buộc ông
Nguyễn Văn T1 di dời các tài sản, công trình để trả lại diện tích 10,78m
2
đất thuộc
thửa đất 64, tờ bản đồ 20 yêu cầu ông Vương Văn T2 di dời các tài sản, công trình
để trả lại diện tích đất l,77m
2
. Đất tranh chấp đều tại khu A1, thị trấn H, huyện H,
tỉnh L, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự. Việc
giải quyết tranh chấp nêu trên cần thiết phải xem xét, đánh giá tính hợp pháp của
các giấy CNQSDĐ đã cấp cho các hộ nên Tòa án nhân dân tỉnh L thụ lý giải quyết
vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền.
[2] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Thủy G trong hạn luật định và
hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện:
- Diện tích 174,0m
2
đất theo Giấy CNQSDĐ được UBND huyện H cấp cho
ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ địa chính số 20
thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Sơ đồ thửa đất thể hiện trên Giấy CNQSDĐ cấp cho
hộ ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 không thể hiện các thửa đất tiếp giáp. Tại biên
bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 22/5/2009 và hồ sơ địa chính thì
thửa số 64 có vị trí tiếp giáp như sau: Phía Bắc giáp sông (suối); Phía Nam giáp
đường 242 (đường B); Phía Đông giáp đất ông Nguyễn Văn T1 (thửa 65); Phía
Tây giáp đất ông Vương Văn K (thửa 63).
- Diện tích 397,2m
2
đất theo Giấy CNQSDĐ cấp cho hộ ông Nguyễn Văn
T1 ngày 02/12/2010 thuộc thửa đất số 65, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H,
huyện H, tỉnh L. Sơ đồ thửa đất thể hiện trên Giấy CNQSDĐ cấp cho hộ ông T1
không thể hiện các thửa đất tiếp giáp. Tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới
thửa đất ngày 10/11/2010 và hồ sơ địa chính thì thửa số 65 có vị trí tiếp giáp như
sau: Phía Bắc giáp suối; Phía Nam giáp đường B; Phía Đông giáp đất hộ ông
Hoàng Văn Nhất; Phía Tây giáp hộ ông Hồ Thủy G (thửa 64).
- Diện tích 70,0m
2
đất theo Giấy CNQSDĐ cấp cho ông Vương Văn T2 và
bà Nguyễn Thị L ngày 18/10/2010 thuộc thửa đất số 551, tờ bản đồ địa chính số 20
thị trấn H, huyện H, tỉnh L. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện trên Giấy CNQSDĐ cấp
cho ông T2 và bà L không thể hiện các thửa đất tiếp giáp. Thửa đất số 551 được
tách từ một phần thửa đất số 63 của hộ cụ Vương Văn K. Tại biên bản xác định
ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 09/6/2010 và Trích đo bản đồ địa chính khu đất
do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện H lập ngày 09/6/2010 thì thửa đất
số 551 có vị trí tiếp giáp như sau: Phía Bắc giáp đường đi chung; Phía Nam giáp
đường B; Phía Đông giáp đất ông Hồ Thủy G (thửa 64); Phía Tây giáp đường đi
chung
.
Diện tích 10,78m
2
đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 65 đã được cấp Giấy
CNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn T1 ngày 02/12/2010; diện tích đất tranh chấp
1,77m
2
có 1,63m
2
đất nằm trong thửa 64 đã cấp Giấy CNQSDĐ cho ông G và 0,14m
2
đất nằm trong thửa 551 tại Giấy CNQSDĐ của ông T2, bà L.
17
[4] Tài sản trên phần diện tích 10,78m
2
đất nguyên đơn tranh chấp với ông
Nguyễn Văn T1 có một phần tường nhà chính, một phần tường thuộc nhà bếp, một
phần tường thuộc bán mái nhà tắm, một phần tường chuồng lợn do ông Nguyễn
Văn T1 xây dựng. Ngoài ra, còn có 02 mi cửa sổ do hộ ông G xây dựng nằm trên
khoảng không phần tường chuồng lợn nhà ông T1. Đối với 03 mi cửa sổ của ông
T1 xây dựng năm 2015 không nằm trên phần đất đang có tranh chấp. Phần diện tích
đang có tranh chấp trùng ranh giới giữa thửa đất số 64 của hộ ông G với thửa đất
số 65 của hộ ông T1.
Tài sản trên phần diện tích l,77m
2
đất nguyên đơn tranh chấp với ông Vương
Văn T2 là một phần tường thuộc nhà chính do ông T2 xây dựng năm 2010. Phần
diện tích đất đang có tranh chấp trùng ranh giới giữa thửa đất số 64 64 của hộ ông
G với thửa đất số 551của hộ ông T2.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn xác nhận ông T1 đã tháo dỡ các mi cửa
sổ và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án sơ thẩm không xem xét nội dung này
là đúng quy định.
Đối với 02 mi cửa sổ của ông G xây dựng trên một phần diện tích đất tranh
chấp với ông T1, nguyên đơn tự nguyện tháo dỡ và tự chịu chi phí tháo dỡ, bị đơn
ông T1 cũng nhất trí nên Tòa án sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện nêu trên là có căn
cứ.
[5] Tại Giấy nhượng nhà ngày 01/7/1990 giữa ông Hồ Thủy G và ông Trần
Ngọc M thể hiện nội dung ông M chuyển nhượng cho ông G một ngôi nhà ngang
rộng ba gian và phần đất trống còn lại từ đường quốc lộ tới tận bờ suối. Phần đất
trống phía giáp đường quốc lộ đo kịch từ sát tường đầu hồi nhà ông Quản Văn H1
tới kịch tường nhà ông Vương Văn K; về phần ngôi nhà ngang ba gian thì ông G
sẽ được quyền sử dụng theo mép ngoài của tường dọc theo bờ suối ở phía nhà ông
Quản Văn H1 và cộng thêm 70cm về phía đằng nhà ông Vương Văn K; phần đất
trống phía sau nhà ngang chạy suốt bờ suối rộng 2,9m cũng như phần đất trên giáp
đường quốc lộ từ trên xuống bờ suối là 70cm của ông G mua với ông H1 có tổng
là 3,6m, kèm theo sơ đồ bản vẽ. Giấy chuyển nhượng nhà ngày 01/7/1990 có đầy
đủ chữ ký, chữ viết của người bán là ông Trần Ngọc M, người mua là ông Hồ
Thủy G cùng những người làm chứng gồm ông Vương Văn K, ông Quản Văn H1,
ông Vỹ Sĩ T5 và được đại diện khu ký xác thực ngày 04/7/1990, đại diện UBND
thị trấn H ký, đóng dấu xác thực việc chuyển nhượng và thu tiền thuế nộp ngân
sách Nhà nước.
Như vậy, có cơ sở khẳng định việc ông G nhận chuyển nhượng diện tích đất
và nhà trên đất của ông M với chiều rộng nhất giáp mặt đường là 3,6m.
[6] Nguyên đơn và các bị đơn đều khẳng định sau khi mua đất, ông G đã
xây tường bằng gạch cay bao quanh toàn bộ diện tích đất đã mua. Cùng năm 1990,
nguyên đơn đã phá phần tường bao giáp nhà ông T1 để xây nhà cấp 4 và sinh sống
trên diện tích đất này từ năm 1990 đến năm 1998 không có tranh chấp với các chủ
18
sử dụng đất khác. Như vậy, nguyên đơn là người đầu tiên và tự mình xác định
ranh giới với 2 chủ đất liền kề bằng tường gạch cay. Năm 2006, ông T1 xây dựng
dãy chuồng lợn phía sau nhà giáp suối và năm 2015 ông T1 mới xây dựng các
công trình phía trước; năm 2010, ông T2 mới xây lại nhà. Các công trình của ông
T1, ông T2 đều được tiến hành xây dựng sau, đều nằm ngoài tường bao gạch cay
của nguyên đơn xây năm 1990 và khi xây dựng các bị đơn đều mời ông G chứng
kiến, xem xét ranh giới và không có tranh chấp.
Quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn ông G thừa nhận năm 2014 nguyên
đơn xây nhà và tường bao chồng lên chính tường bao cũ do ông xác lập từ năm
1990 nên việc nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp với ông Nguyễn Văn T1
chính là phần đất thể hiện đường nước chảy giọt gianh của nhà nguyên đơn là
không có cơ sở.
[7] Ngày 27/7/2007, ông Hồ Thủy G bị Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh L
thu hồi 8,29m
2
đất để thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp đường 242 nên diện tích
đất còn lại của nguyên đơn phải là 168,7m
2
. Tuy nhiên, tại GCNQSDĐ số
AM802839 của UBND huyện H cấp ngày 29/6/2009 cho hộ ông G đối với diện
tích 174m
2
đã vượt quá diện tích còn lại của ông là 5,3m
2
. Nguyên đơn khẳng
định phần diện tích tăng thêm là do ông mở rộng về bờ suối phía sau và việc ông
được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích 174m
2
đất năm 2009 là theo diện tích đất
sử dụng thực tế là không đúng với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định
diện tích đất nguyên đơn đang sử dụng hiện nay có chiều rộng 3,88m, tổng diện
tích sử dụng là 186,5m
2
, lớn hơn so với chiều rộng diện tích đất được ghi trong
Giấy nhượng đất nhà năm 1990 là 0,28m và vượt quá diện tích đất được cấp
GCNQSDĐ năm 2009 là 12,5m
2
.
[8] Mặt khác, tại Kết luận giám định của Phòng quản lý đất đai Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh L xác định vị trí các phần đất tranh chấp như sau:
* Diện tích 10,78m
2
đất có vị trí đỉnh điểm A1, A2, A3, A4, C7, A5, A6, C5,
A7 theo Trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh bổ
sung khu đất tranh chấp ngày 13/3/2024):
- Nằm trong thửa đất số 65, tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn H đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T1 ngày 02/12/2010.
- Không nằm trong diện tích đất tại Giấy nhượng lại nhà ngày 01/7/1990
giữa ông Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G.
* Diện tích 1,77m
2
đất có vị trí đỉnh điểm A8, C2, A9, A10, A11, A12, A13
theo trích đo khu đất tranh chấp (bổ sung thông tin theo kết quả xác minh bổ sung
khu đất tranh chấp ngày 13/3/2024):
- Diện tích 1,77m
2
đất trên có 1,63m
2
đất nằm trong thửa đất số 64, tờ bản
đồ địa chính số 20 thị trấn H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 và 0,14m
2
đất nằm trong thửa số 551, tờ bản
19
đồ địa chính số 20 thị trấn H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyển sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Vương Văn T2 và bà
Nguyên Thị L ngày 18/10/2010.
Tại Công văn về việc cung cấp thông tin liên quan ngày 13/6/2024 của UBND
huyện H trả lời nội dung liên quan đến phần đất tranh chấp có nêu:
Trong phần diện tích 1,77m
2
(có vị trí đỉnh điểm A8, C2, A9, A10, A11, A12,
AI3) có diện tích 0,14m
2
cấp trùng tại GCNQSDĐ cấp cho ông Hồ Thủy G ngày
29/6/2009 và GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp
cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày 18/10/2020.
Theo kết quả trích đo lồng ghép thông tin giấy CNQSDĐ với hiện trạng trích
đo khu đất tranh chấp do Công ty cổ phần trắc địa bản đồ và môi trường S thực hiện
ngày 20/3/2023 cũng thể hiện có sự chồng lấn ranh giới phục dựng giấy CNQSDĐ
của nguyên đơn với ranh giới phục dựng giấy CNQSDĐ của các bị đơn. Diện tích
tranh chấp giữa ông G với ông T2 (là S3) nằm cả trong giấy CNQSDĐ của ông Hồ
Thủy G và giấy CNQSDĐ của ông Vương Văn T2.
[8.1] Như vậy, diện tích 10,78m
2
nằm trong thửa đất số 65 đã được cấp giấy
CNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn T1 ngày 02/12/2010; không nằm trong phần
diện tích tại giấy nhượng lại nhà giữa ông Trần Ngọc M và ông Hồ Thủy G, không
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông G nên việc ông G tranh
chấp và yêu cầu ông T1 trả lại diện tích 10,78m
2
đất và di dời tài sản trên đất là
không có căn cứ.
[8.2] Đối với diện tích đất 1,77m
2
có 1,63m
2
nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông G. Tuy nhiên, do ông G là người đầu tiên xác lập ranh
giới bằng tường gạch cay từ năm 1990, ông T2 chỉ xây dựng sau và không vượt
qua ranh giới ông G đã xác lập trước đó. Sau khi ông T2 xây nhà năm 2010 đến
năm 2011, ông G đã cùng ông T2 thỏa thuận cho ông T2 sử dụng đất lâu dài. Mặt
khác, hiện trạng đất nguyên đơn đang sử dụng có chiều rộng 3,88m là lớn hơn chiều
rộng thửa đất được ghi trong giấy nhượng nhà năm 1990 với ông M 0,28m (3,88m
- 3,6m); tổng diện tích sử dụng hiện tại 186,5m
2
là vượt quá diện tích đất ông G
được cấp GCNQSDĐ 12,5m
2
nên việc nguyên đơn yêu cầu ông T2 trả lại diện tích
l,77m
2
đất tranh chấp và di dời tài sản trên đất là không có cơ sở.
[9] Từ những phân tích nêu trên cho thấy Tòa án sơ thẩm đã không chấp
nhận yêu cầu được quản lý, sử dụng đối với 10,78m
2
đất gồm 8,62m
2
đất (ký hiệu
S1) và 2,16m
2
đất (ký hiệu S2) thuộc một phần thửa đất số 65, tờ bản đồ địa chính
số 20 thị trấn H, huyện H, tỉnh L thể hiện tại Phụ lục kèm theo Bản án sơ thẩm
ngày 14/6/2024 và yêu cầu ông T2 tháo dỡ, di dời tài sản trên đất; không chấp
nhận yêu cầu được quản lý, sử dụng đối với 1,77m
2
đất (ký hiệu S3) gồm 1,63m
2
đất thuộc thửa đất số 64 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
ông Hồ Thủy G ngày 29/6/2009 và 0,14m
2
đất thuộc thửa số 551 đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
20
với đất cho ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị L ngày 18/10/2010; Buộc ông
Hồ Thủy G chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tranh chấp là có căn cứ, đúng quy
định của pháp luật.
[10] Tuy nhiên qua đối chiếu, so sánh, trồng ghép hình thể thực trạng sử
dụng đất của các đương sự; giấy tờ mua bán liên quan và giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được cấp của ông Hồ Thủy G, ông Nguyễn Văn T1, ông Vương Văn
T2 thì thấy:
[10.1] Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông Hồ Thủy G,
hộ ông Vương Văn T2 có phần bị cấp chồng lấn là 0,14m
2
(đoạn "A13, A9"),
phần đất 1,63m
2
thuộc thửa số 64 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông G nhưng tài sản trên đất là của hộ ông T2; giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn T1 có phần đất được cấp khi trên đất có phần
đoạn tường nhà cấp 4 cũ do ông G xây dựng trước đó (đoạn A6, A5) nên việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ sử dụng đất có phần không đúng
đối tượng sử dụng đất, phần cấp quyền sử dụng đất cho 2 chủ sử dụng đất khác
nhau là không đúng quy định của pháp luật đất đai.
[10.2] Ngoài ra qua đối chiếu, so sánh vị trí, hình thể, kích thước cạnh, diện
tích thửa đất theo các Trích đo bản đồ địa chính khu đất để phục vụ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất với kết quả xem xét, thẩm định ranh giới, mốc giới thửa
đất xác định trong quá trình đo đạc thực địa các thửa đất trên có những đoạn đường
ranh giới giữa các thửa đất không trùng khớp nhau là chưa đảm bảo về đo đạc,
biên tập bản trích đo địa chính khu đất và hiện trạng thực tế sử dụng đất. Các giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của các đương sự trong vụ án được cấp không
đúng với hiện trạng, thực tế sử dụng đất của các bên.
[11] Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Tòa
án sơ thẩm tuyên hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân
dân huyện H, tỉnh L cấp cho các đương sự gồm giấy CNQSDĐ cấp ngày
29/6/2009 cho ông Hồ Thủy G đối với thửa đất số 64 diện tích 174,0m
2
đất ở tại
đô thị; giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp
ngày 18/10/2010 cho ông Vương Văn T2, bà Nguyễn Thị L đối với thửa đất số
551 diện tích 70,0m
2
đất ở tại đô thị; giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cấp ngày 02/12/2010 cho hộ ông Nguyễn Văn T1 đối
với thửa đất số 65 diện tích 397,2m
2
đều thuộc tờ bản đồ địa chính số 20 thị trấn
H, huyện H, tỉnh L; yêu cầu các đương sự thực hiện việc đề nghị cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng, thực tế đang quản lý sử dụng
là có căn cứ, đúng quy định tại khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1
Điều 161; khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 99, 166, 170, 203
Luật đất đai.
[12] Yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên Tòa án sơ thẩm buộc
nguyên đơn phải chịu chi phí tố tụng là đúng theo theo quy định của pháp luật.
21
[13] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản
1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[14] Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận nhưng
ông Hồ Thủy G là người cao tuổi và có đơn yêu cầu nên được miễn án phí theo
quy định.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Thủy G;
giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh L.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Hồ Thủy G được miễn án phí
dân sự phúc thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
* Nơi nhận:
- Chánh án TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh L;
- VKSND tỉnh L;
- CCTHADS h. H, tỉnh L;
- Cục THADS tỉnh L;
- Các đương sự;
- Người tham gia tố tụng khác;
- Lưu hồ sơ, VP, HCTP, TP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Mai
22
CÁC THẨM PHÁN
Bùi Xuân Trọng Vũ Thị Thu Hà
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Mai
Tải về
Bản án số 547/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 547/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm